Vì sao tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm:

Tài liệu "Quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm các nhân tố ảnh hướng đến tỷ suất lợi nhuận giảm thành xu hướng ý nghĩa tt" có mã là 543721, file định dạng doc, có 6 trang, dung lượng file 265 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Tài liệu chuyên ngành > Các Môn Đại Cương. Tài liệu thuộc loại Đồng

Nội dung Quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm các nhân tố ảnh hướng đến tỷ suất lợi nhuận giảm thành xu hướng ý nghĩa tt

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm các nhân tố ảnh hướng đến tỷ suất lợi nhuận giảm thành xu hướng ý nghĩa tt để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 6 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm các nhân tố ảnh hướng đến tỷ suất lợi nhuận giảm thành xu hướng ý nghĩa tt

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Vì sao tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút? A. Vì cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng mạnh, giai cấp tư sản không muốn bị lật đã chia bớt lợi nhuận cho công nhân B. Vì trình độ quản lý sản xuất của giai cấp tư sản không tăng kịp với sự tăng trưởng của nền kinh tế C. Vì cấu tạo hữu cơ [c/v] ngày càng tăng lên

D. Vì CNTB càng phát triển thì mức độ bóc lột càng giảm đI, kéo theo sự giảm sút của lợi nhuận

Chọn C là đáp án đúng

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký để bình luận.

Bộ phận tư bản chỉ đơn thuần tồn tại dưới hình thức những chứng khoán để sau này được chia một phần giá trị thặng dư hay lợi nhuận. Bộ phận đó bị giảm giá trị ngay lập tức khi những thu nhập mà người ta trông chờ vào bộ phận đó bị giảm xuống. Một bộ phận vàng và bạc hiện có bị đọng lại không được sử dụng và không còn làm chức năng tư bản nữa. Một bộ phận hàng hóa đang ở trên thị trường chỉ có thể hoàn thành được quá trình lưu thông và tái sản xuất của nó nhờ ở chỗ giá cả của chúng đã giảm xuống quá mức, tức là bằng cách giảm giá tị của tư bản mà bộ phận hàng hóa đó đại biểu. Quá trình tái sản xuất lệ thuộc vào những quan hệ giá cả nhất định đã được quy định trước, và tình trạng giá cả hạ xuống một cách phổ biến đã làm vho quá trình ấy bj đình đốn và rối loạn.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

suất lợi nhuận giữa những ngành sản xuất cá biệt, nên chính nguyên nhân đẻ ra xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận. Ngoại thương: Tác dụng của ngoại thương là cho phép mở rộng quy mô sản xuất. Một mặt, nó thúc đẩy tích lũy nhanh, mặt khác nó cũng thúc đẩy tư bản khả biến giảm xuống so với tư bản bất biến và do đó, cũng thúc đẩy tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Những tư bản đầu tư vào ngoại thương có thể đem lại một tỷ suất lợi nhuận cao hơn, vì trước hết ở đây diễn ra sự cạnh tranh với những hàng hóa được sản xuất ra trong những nước khác có điều kiện sản xuất ít thuận lợi hơn, do đó nước phát triển hơn bán được hàng hóa của mình cao hơn giá trị của chúng, mặc dù nước ấy bán rẻ hơn các nước cạnh tranh với họ. Tỷ suất lợi nhuận tăng lên vì lao động ở các nước phát triển được đánh giá như là lao động có tỷ trọng cao hơn, vì lao động đó không được trả công với tư cách là lao động có tỷ trọng cao hơn. Nhưng chính ngoại thương đã thúc đẩy cách sản xuất TBCN phát triển ở trong nước xuất khẩu hàng hóa và do đó làm cho tư bản khả biến giảm xuống so với tư bản bất biến; mặt khác, nó gây ra tình trạng sản xuất thừa đối với nước ngoài. Và do đó, lại gây ra một tác dụng ngược về sau. Tư bản cổ phần tăng lên: Cùng với sự tiến triển của nền sản xuất TBCN, điều này đi đôi với việc tích lũy nhanh hơn, một bộ phận tư bản chỉ được kể là tư bản cho vay và được sử dụng làm tư bản đem lại đem lại lợi tức mà thôi. Lợi nhuận = lợi tức + lợi nhuận đủ các loại + địa tô Sự phối hợp giữa các loại riêng biệt này cũng không liên quan gì đến tỷ suất lợi nhuận chung. Điều đó có nghĩa là những tư bản ấy mặc dù được đầu tư vào trong các xí nghiệp sản xuất lớn, nhưng sau khi đã trừ hết mọi khoản chi phí, thì cũng chỉ đem lại những lợi tức lớn hay nhỏ mà người ta gọi là lợi tức cổ phần. Bởi vậy, những tư bản này không tham gia vào việc san bằng tỷ suất lợi nhuận chung, vì chúng có một tỷ suất lợi nhuận thấp hơn tỷ suất lợi nhuận trung bình. II. Những nhận xét chung về sự phát triển của các mâu thuẫn nội tại của quy luật Như chúng ta dã biết tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện ra dưới hình thái tỷ suất lợi nhuận thì bao giờ cũng có vẻ thấp hơn thân tỷ suất giá trị thặng dư. Tỷ suất lợi nhuận chỉ có thể bằng tỷ suất giá trị thặng dư khi nào c = 0, nghĩa là khi nào toàn bộ tư bản đều bỏ vào tiền công cả. Tỷ suất lợi nhuận đang giảm xuống chỉ biểu hiện tỷ suất giá trị thặng dư đang giảm xuống trong trường hợp nếu tỷ số giữa giá trị của tư bản bất biến và khối lượng sức lao động vận dụng tư bản bất biến đó vẫn như cũ , hay nếu khối lượng sức lao động đó tăng lên so với giá trị của tư bản bất biến. Sự giảm sút của tỷ suất lợi nhuận và sự tích lũy tăng nhanh chỉ là những biểu hiện khác nhau của cùng một quá trình, vì cả hai đều biểu hiện sự phát triển của sức sản xuất. Một mặt tích lũy thúc đẩy tỷ suất lợi nhuận giảm xuống nhanh hơn, trong chừng mực nó gây ra sự tích tụ lao động trên quy mô lớn và đồng thời đẻ ra một cấu tạo cao hơn của tư bản. Mặt khác tỷ suất lợi nhuận giảm xuống lại đẩy nhanh sự tích tụ tư bản và sự tập trung tư bản bằng cách tước đoạt các nhà tư bản nhỏ, bằng cách tước đoạt nốt cả cái còn sót lại cuả những người sản xuất trực tiếp khi những người này còn có một chút gì đó để tước đoạt. Mặt khác, nếu tỷ suất tăng giá trị của tổng tư bản, tỷ suất lợi nhuận là yếu tố kích thích đối với nền sản xuất của tư bản chủ nghĩa thì tỷ suất lợi nhuận giảm xuống sẽ lại làm cho sự hình thành các tư bản độc lập mới chậm lại, và lúc đó, hình như sự giảm xuống ấy đe dọa sự phát triển của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó tạo điều kiện thuận lợi cho nạn sản xuất thừa, đầu cơ, khủng khoảng, cho sự hình thành tư bản thừa bên cạnh tình trạng nhân khẩu thừa Với một tỷ suất lợi nhuận nhất định, thì khối lượng lợi nhuận không phải bao giờ cũng tùy thuộc vào đại lượng tư bản ứng trước. Nhưng trong trường hợp đó,chính sự tích lũy lại do một bộ phận của khối lượng lợi nhuận này – bộ phận được chuyển hóa thành tư bản – quyết định. Nhưng vì bộ phận này được bằng lợi nhuận trừ đi phần thu nhập mà các nhà tư bản tiêu dùng, nên nó tùy thuộc không chỉ vào giá trị của khối lượng ấy, mà còn vào sự rẻ đi của các hàng hóa mà các nhà tư bản có thể mua với khối lượng lợi nhuận đó; những hàng hóa này một phần đi vào tiêu dùng của nhà tư bản, tức là vào thu nhập của nhà tư bản, một phần đi vào tư bản bất biến của hắn. Như vậy tư bản được tích lũy tỷ lệ với khối lượng mà nó đã có, chứ không phải tỷ lệ với tỷ suất lợi nhuận. Nếu như ngày lao động rất dài thì mặc dù lao động có năng suất thấp, cũng vẫn có thể có được một tỷ suất lợi nhuận cao, miễn là nó dựa trên một tỷ suất giá trị thặng dư cao; có thể có được một tỷ suất lợi nhuận cao như vậy, mặc dù năng suất lao động thấp vì nhu cầu của công nhân rất ít ỏi, và do đó tiền công trung bình rất thấp. Như vậy tỷ suất lợi nhuận giảm xuống không phải vì công nhân bị bóc lột ít hơn, mà vì nói chung, lao động được sử dụng tương đối ít hơn so với tư bản được sử dụng. III. Sự xung đột của việc mở rộng sản xuất và việc làm tăng thêm giá trị. Sự phát triển sức sản xuất của lao động xã hội biểu hiện ra bằng hai cách: một là, biểu hiện trong đại lượng của các lực lượng sản xuất đã được tạo ra, trong giá trị và khối lượng của những điều kiện sản xuất, trong đó việc sản xuất mới được thực hiện, và trong đại lượng tuyệt đối của tư bản sản xuất đã tích lũy được; hai là, biểu hiện ở chỗ bộ phận của tư bản dùng để trả tiền công, thì tương đối nhỏ so với tổng tư bản, nghiã là trong khối lượng tương đối nhỏ của lao động sống cần thiết để tái sản xuất ra một tư bản nhất định và để làm cho tư bản đó tăng thêm giá trị, cần thiết để tiến hành sản xuất hàng loạt. Và điều đó cũng đòi hỏi phải có sự tích tụ tư bản. Như ta đã biết tỷ suất lợi nhuận = = Ta thấy tỷ suất lợi nhuận phụ thuộc vào giá trị thặng dư mà giá trị thặng dư lại do các yếu tố sau quyết định: một là, do tỷ suất của nó; hai là, do khối lượng lao động cùng một lúc được dùng theo tỷ suất ấy, hay nói một cách khác là do đại lượng cuả tư bản khả biến. Một mặt thì một trong những nhân tố đó – tỷ suất giá trị thặng dư – tăng lên; mặt khác thì nhân tố khác – số công nhân – lại giảm xuống [ một cách tương đối hay tuyệt đối ].

Trong chừng mực sự phát triển của sức sản xuất làm cho bộ phận lao động được trả công giảm bớt đi, thì nó làm cho giá trị thặng dư tăng lên; nhưng trong chừng mực mà nó làm giảm bớt tổng khối lượng lao động do một tư bản nhất định sử dụng, thì nó cũng làm giảm bớt nhân tố khác , tức là số công nhân mà cần p...

Video liên quan

Chủ Đề