Ý nghĩa của phim kiếp ba sinh

Vì yêu Quan Nhị Hà [Thúy Diễm đóng], con trai gã phú hộ [Thanh Bình] bất chấp thủ đoạn để có được cô, thậm chí là cưỡng hiếp khi cô trở thành vợ lẽ của cha mình.

Bộ phim Duyên nợ ba sinh của đạo diễn Nguyễn Duy Võ Ngọc kể về mối tình ngang trái của Lê Văn Tuấn và Quan Nhị Hà. Kiếp người dài đằng đẳng với bao biến cố thăng trầm của Tuấn và ba kiếp lai sinh phù du ngắn ngủi của Hà nhưng họ vẫn không đến được dù luôn nhận ra nhau và đấu tranh đến hơi thở cuối cùng cho tình yêu của mình.

Vai diễn Quan Nhị Hà là thách thức lớn của Thúy Diễm khi cô phải trải qua nhiều biến động. Ảnh: Nghiệp Lý

Với bối cảnh lịch sử nhiều biến động và tăm tối của thời kỳ Pháp thuộc, cuộc đời của con người như những cánh bèo phó mặc cho dòng đời xô đẩy. Cha của Văn Tuấn [Đức Nhã đóng] làm quan cấp quận nhưng bị hàm oan nên tự tử khiến mẹ anh vì sốc trở nên điên dại. Dù học đến tú tài nhưng chưa có việc làm nên Tuấn phải làm kéo xe để trang trải cuộc sống. Tại đây, anh đụng độ Quan Nhị Hà [Thúy Diễm] cô đào hát cải lương làm việc trong một gánh hát. Cô sống buông thả, cặp kè với nhiều gã nhà giàu và thường bị vợ họ đánh ghen.

Trong lúc kéo xe cho Nhị Hà, Tuấn vô tình giúp cô thoát khỏi những trận đòn. Một lần chứng kiến biến cố gia đình của cô ca kỹ, anh phát hiện ẩn sau vẻ ngoài bất cần là cô gái hết mực yêu thương bố mẹ. Từ đó, cả 2 dần hiểu về nhau và nảy sinh tình cảm nhưng không ai thổ lộ.

Tuấn và Nhị Hà yêu nhau nhưng bị Huân ngăn cản. Ông xã Ngọc Lan tiếp tục thể hiện vai phản diện trong phim. Ảnh: Nghiệp Lý

Nhưng ba Huân [Thanh Bình] lại thầm thương Quan Nhị Hà từ lâu và tìm đủ mọi thủ đoạn để có được cô. Vì ra tay giúp đỡ Nhị Hà thoát khỏi sự cưỡng hiếp của Huân, Tuấn bị hắn hãm hại khiến cuộc sống ngày càng cơ cực. Trong khi đó, bá hộ Tuất, ba của Huân [Mai Sơn đóng] cũng mê mẩn nhan sắc và tiếng hát của Nhị Hà nên gài bẫy để cô trở thành vợ lẽ. Vì thế, mối quan hệ của 2 cha con lão ngày càng trở nên gay gắt. Tuấn gặp lại người thương khi về làm việc cho gia đình lão Tuất. Thương cho phận đời của Nhị Hà, Tuấn lên kế hoạch trốn chạy nhưng bị lão phú hộ bắt được. Trong lúc giằng co, lão lỡ tay bắn chết Nhị Hà.

Ôm mối hận thù, Tuấn trở lại bắt cóc con gái của lão Tuất, lúc này gia đình của hắn đã lâm vào cảnh sa sút vì cuộc khởi nghĩa của nông dân. Anh bị hắn cầm súng rượt đuổi và lỡ tay để lại vết sẹo trên cổ cô bé. Tuấn bị dòng nước cuốn trôi nhưng vẫn cố gắng cứu con gái của lão phú hộ. Anh trôi dạt ra Hội An và tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Cha con lão phú hộ cũng tìm đường ra miền Trung mưu sinh vì bị người dân xua đuổi.

Dù trải qua 3 kiếp tái sinh nhưng Quan Nhị Hà cũng không đến được với Lê Văn Tuấn. Ảnh: Nghiệp Lý

Tình cờ gặp lại cô bé ngày xưa mình bắt cóc, Tuấn phát hiện cô là Quan Nhị Hà tái sinh. Nhưng lúc này Nguyễn Thị Hà đã bị bán để trả nợ cho một tên xã hội đen. Anh lại lên kế hoạch chạy trốn và quá khứ lặp lại…

Mặc dù lấy bối cảnh thời Pháp thuộc nhưng đoàn phim may mắn chọn được các bối cảnh sẵn có ở TP HCM và Long An. Phim dài 42 tập, được phát sóng trong khung giờ vàng của THVL1, dự kiến vào giữa tháng 8.


"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ý nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do số kiếp tiền định.

Trong bài thơ "Khóc ông phủ Vĩnh Tường" của Hồ Xuân Hương có câu:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi,
Cái nợ ba sinh đã trả rồi!
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du cũng có câu:

Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem giống khuynh thành trêu ngươi.

Sách "Truyền đăng lục" và sách "Quần ngọc chú" có chép:
Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ tự, nằm chơi, bỗng ngủ quên, chiêm bao thấy mình đi chơi non Bồng. Tỉnh Lang nhìn thấy một nhà sư ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây nhang đương cháy. Tỉnh Lang thấy lạ, hỏi. Nhà sư đáp:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ba kiếp rồi. Kiếp đầu nhà Đường, đời vua Huyền Tông, làm quan Phủ sứ ở đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cũng đời Đường, đời vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba, sinh ra tên Tỉnh Lang.
Tỉnh Lang nghe đến tên mình bỗng giựt mình tỉnh dậy, nhưng lòng nửa tin nửa ngờ. Lại có một điển tích khác.

Đời nhà Đường [618-907], có nhà sư tên Viên Trạch, một hôm cùng bạn là Lý Nguyên Thiện đi chơi. Gặp một mụ đàn bà gánh nước, Viên Trạch nói:


- Người đàn bàn này đã có mang ba năm đợi tôi vào làm con. Nay đã gặp đây, không thể nào trốn được. Hẹn ba ngày nữa, bạn đến, ta lấy nụ cười làm tin. Mười ba năm sau, ta lại sẽ gặp nhau tại chùa Thiên TrúcHàng Châu, vào đêm Trung Thu trăng sáng. Chiều đó, sư Viên Trạch mất.

Người đàn bà nọ sinh con trai. Ba hôm sau, Lý đến thăm. Quả nhiên đứa bé thấy Lý thì cười, đúng như lời hẹn. Mười ba năm sau, Lý đến chùa Thiên TrúcHàng Châu, thấy một cậu chăn trâu hát rằng:


Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân, Tàm qui tình nhân viễn tương phỏng Thử thân tuy dị, tính thường đồng. Nghĩa:

Là tinh hồn cũ đã ba sinh,

Trăng gió làm chi để bận mình. Thẹn với người quen xa viếng hỏi, Thân này tuy khác, tính nguyên lành.

"Ba sinh" có nghĩa là số kiếp tiền định. "Nợ ba sinh" là nợ số kiếp tiền định, duyên số với nhau từ kiếp trước.


Page 2


"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ý nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do số kiếp tiền định.

Trong bài thơ "Khóc ông phủ Vĩnh Tường" của Hồ Xuân Hương có câu:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi,
Cái nợ ba sinh đã trả rồi!
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du cũng có câu:

Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem giống khuynh thành trêu ngươi.

Sách "Truyền đăng lục" và sách "Quần ngọc chú" có chép:
Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ tự, nằm chơi, bỗng ngủ quên, chiêm bao thấy mình đi chơi non Bồng. Tỉnh Lang nhìn thấy một nhà sư ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây nhang đương cháy. Tỉnh Lang thấy lạ, hỏi. Nhà sư đáp:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ba kiếp rồi. Kiếp đầu nhà Đường, đời vua Huyền Tông, làm quan Phủ sứ ở đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cũng đời Đường, đời vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba, sinh ra tên Tỉnh Lang.
Tỉnh Lang nghe đến tên mình bỗng giựt mình tỉnh dậy, nhưng lòng nửa tin nửa ngờ. Lại có một điển tích khác.

Đời nhà Đường [618-907], có nhà sư tên Viên Trạch, một hôm cùng bạn là Lý Nguyên Thiện đi chơi. Gặp một mụ đàn bà gánh nước, Viên Trạch nói:


- Người đàn bàn này đã có mang ba năm đợi tôi vào làm con. Nay đã gặp đây, không thể nào trốn được. Hẹn ba ngày nữa, bạn đến, ta lấy nụ cười làm tin. Mười ba năm sau, ta lại sẽ gặp nhau tại chùa Thiên TrúcHàng Châu, vào đêm Trung Thu trăng sáng. Chiều đó, sư Viên Trạch mất.

Người đàn bà nọ sinh con trai. Ba hôm sau, Lý đến thăm. Quả nhiên đứa bé thấy Lý thì cười, đúng như lời hẹn. Mười ba năm sau, Lý đến chùa Thiên TrúcHàng Châu, thấy một cậu chăn trâu hát rằng:


Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân, Tàm qui tình nhân viễn tương phỏng Thử thân tuy dị, tính thường đồng. Nghĩa:

Là tinh hồn cũ đã ba sinh,

Trăng gió làm chi để bận mình. Thẹn với người quen xa viếng hỏi, Thân này tuy khác, tính nguyên lành.

"Ba sinh" có nghĩa là số kiếp tiền định. "Nợ ba sinh" là nợ số kiếp tiền định, duyên số với nhau từ kiếp trước.


Page 3


"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ý nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do số kiếp tiền định.

Trong bài thơ "Khóc ông phủ Vĩnh Tường" của Hồ Xuân Hương có câu:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi,
Cái nợ ba sinh đã trả rồi!
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du cũng có câu:

Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem giống khuynh thành trêu ngươi.

Sách "Truyền đăng lục" và sách "Quần ngọc chú" có chép:
Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ tự, nằm chơi, bỗng ngủ quên, chiêm bao thấy mình đi chơi non Bồng. Tỉnh Lang nhìn thấy một nhà sư ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây nhang đương cháy. Tỉnh Lang thấy lạ, hỏi. Nhà sư đáp:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ba kiếp rồi. Kiếp đầu nhà Đường, đời vua Huyền Tông, làm quan Phủ sứ ở đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cũng đời Đường, đời vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba, sinh ra tên Tỉnh Lang.
Tỉnh Lang nghe đến tên mình bỗng giựt mình tỉnh dậy, nhưng lòng nửa tin nửa ngờ. Lại có một điển tích khác.

Đời nhà Đường [618-907], có nhà sư tên Viên Trạch, một hôm cùng bạn là Lý Nguyên Thiện đi chơi. Gặp một mụ đàn bà gánh nước, Viên Trạch nói:


- Người đàn bàn này đã có mang ba năm đợi tôi vào làm con. Nay đã gặp đây, không thể nào trốn được. Hẹn ba ngày nữa, bạn đến, ta lấy nụ cười làm tin. Mười ba năm sau, ta lại sẽ gặp nhau tại chùa Thiên TrúcHàng Châu, vào đêm Trung Thu trăng sáng. Chiều đó, sư Viên Trạch mất.

Người đàn bà nọ sinh con trai. Ba hôm sau, Lý đến thăm. Quả nhiên đứa bé thấy Lý thì cười, đúng như lời hẹn. Mười ba năm sau, Lý đến chùa Thiên TrúcHàng Châu, thấy một cậu chăn trâu hát rằng:


Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân, Tàm qui tình nhân viễn tương phỏng Thử thân tuy dị, tính thường đồng. Nghĩa:

Là tinh hồn cũ đã ba sinh,

Trăng gió làm chi để bận mình. Thẹn với người quen xa viếng hỏi, Thân này tuy khác, tính nguyên lành.

"Ba sinh" có nghĩa là số kiếp tiền định. "Nợ ba sinh" là nợ số kiếp tiền định, duyên số với nhau từ kiếp trước.


Page 4


"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ý nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do số kiếp tiền định.

Trong bài thơ "Khóc ông phủ Vĩnh Tường" của Hồ Xuân Hương có câu:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi,
Cái nợ ba sinh đã trả rồi!
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du cũng có câu:

Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem giống khuynh thành trêu ngươi.

Sách "Truyền đăng lục" và sách "Quần ngọc chú" có chép:
Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ tự, nằm chơi, bỗng ngủ quên, chiêm bao thấy mình đi chơi non Bồng. Tỉnh Lang nhìn thấy một nhà sư ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây nhang đương cháy. Tỉnh Lang thấy lạ, hỏi. Nhà sư đáp:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ba kiếp rồi. Kiếp đầu nhà Đường, đời vua Huyền Tông, làm quan Phủ sứ ở đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cũng đời Đường, đời vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba, sinh ra tên Tỉnh Lang.
Tỉnh Lang nghe đến tên mình bỗng giựt mình tỉnh dậy, nhưng lòng nửa tin nửa ngờ. Lại có một điển tích khác.

Đời nhà Đường [618-907], có nhà sư tên Viên Trạch, một hôm cùng bạn là Lý Nguyên Thiện đi chơi. Gặp một mụ đàn bà gánh nước, Viên Trạch nói:


- Người đàn bàn này đã có mang ba năm đợi tôi vào làm con. Nay đã gặp đây, không thể nào trốn được. Hẹn ba ngày nữa, bạn đến, ta lấy nụ cười làm tin. Mười ba năm sau, ta lại sẽ gặp nhau tại chùa Thiên TrúcHàng Châu, vào đêm Trung Thu trăng sáng. Chiều đó, sư Viên Trạch mất.

Người đàn bà nọ sinh con trai. Ba hôm sau, Lý đến thăm. Quả nhiên đứa bé thấy Lý thì cười, đúng như lời hẹn. Mười ba năm sau, Lý đến chùa Thiên TrúcHàng Châu, thấy một cậu chăn trâu hát rằng:


Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân, Tàm qui tình nhân viễn tương phỏng Thử thân tuy dị, tính thường đồng. Nghĩa:

Là tinh hồn cũ đã ba sinh,

Trăng gió làm chi để bận mình. Thẹn với người quen xa viếng hỏi, Thân này tuy khác, tính nguyên lành.

"Ba sinh" có nghĩa là số kiếp tiền định. "Nợ ba sinh" là nợ số kiếp tiền định, duyên số với nhau từ kiếp trước.


Page 5


"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ý nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do số kiếp tiền định.

Trong bài thơ "Khóc ông phủ Vĩnh Tường" của Hồ Xuân Hương có câu:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi,
Cái nợ ba sinh đã trả rồi!
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du cũng có câu:

Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem giống khuynh thành trêu ngươi.

Sách "Truyền đăng lục" và sách "Quần ngọc chú" có chép:
Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ tự, nằm chơi, bỗng ngủ quên, chiêm bao thấy mình đi chơi non Bồng. Tỉnh Lang nhìn thấy một nhà sư ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây nhang đương cháy. Tỉnh Lang thấy lạ, hỏi. Nhà sư đáp:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ba kiếp rồi. Kiếp đầu nhà Đường, đời vua Huyền Tông, làm quan Phủ sứ ở đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cũng đời Đường, đời vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba, sinh ra tên Tỉnh Lang.
Tỉnh Lang nghe đến tên mình bỗng giựt mình tỉnh dậy, nhưng lòng nửa tin nửa ngờ. Lại có một điển tích khác.

Đời nhà Đường [618-907], có nhà sư tên Viên Trạch, một hôm cùng bạn là Lý Nguyên Thiện đi chơi. Gặp một mụ đàn bà gánh nước, Viên Trạch nói:


- Người đàn bàn này đã có mang ba năm đợi tôi vào làm con. Nay đã gặp đây, không thể nào trốn được. Hẹn ba ngày nữa, bạn đến, ta lấy nụ cười làm tin. Mười ba năm sau, ta lại sẽ gặp nhau tại chùa Thiên TrúcHàng Châu, vào đêm Trung Thu trăng sáng. Chiều đó, sư Viên Trạch mất.

Người đàn bà nọ sinh con trai. Ba hôm sau, Lý đến thăm. Quả nhiên đứa bé thấy Lý thì cười, đúng như lời hẹn. Mười ba năm sau, Lý đến chùa Thiên TrúcHàng Châu, thấy một cậu chăn trâu hát rằng:


Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân, Tàm qui tình nhân viễn tương phỏng Thử thân tuy dị, tính thường đồng. Nghĩa:

Là tinh hồn cũ đã ba sinh,

Trăng gió làm chi để bận mình. Thẹn với người quen xa viếng hỏi, Thân này tuy khác, tính nguyên lành.

"Ba sinh" có nghĩa là số kiếp tiền định. "Nợ ba sinh" là nợ số kiếp tiền định, duyên số với nhau từ kiếp trước.


Page 6


"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ý nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do số kiếp tiền định.

Trong bài thơ "Khóc ông phủ Vĩnh Tường" của Hồ Xuân Hương có câu:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi,
Cái nợ ba sinh đã trả rồi!
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du cũng có câu:

Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem giống khuynh thành trêu ngươi.

Sách "Truyền đăng lục" và sách "Quần ngọc chú" có chép:
Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ tự, nằm chơi, bỗng ngủ quên, chiêm bao thấy mình đi chơi non Bồng. Tỉnh Lang nhìn thấy một nhà sư ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây nhang đương cháy. Tỉnh Lang thấy lạ, hỏi. Nhà sư đáp:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ba kiếp rồi. Kiếp đầu nhà Đường, đời vua Huyền Tông, làm quan Phủ sứ ở đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cũng đời Đường, đời vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba, sinh ra tên Tỉnh Lang.
Tỉnh Lang nghe đến tên mình bỗng giựt mình tỉnh dậy, nhưng lòng nửa tin nửa ngờ. Lại có một điển tích khác.

Đời nhà Đường [618-907], có nhà sư tên Viên Trạch, một hôm cùng bạn là Lý Nguyên Thiện đi chơi. Gặp một mụ đàn bà gánh nước, Viên Trạch nói:


- Người đàn bàn này đã có mang ba năm đợi tôi vào làm con. Nay đã gặp đây, không thể nào trốn được. Hẹn ba ngày nữa, bạn đến, ta lấy nụ cười làm tin. Mười ba năm sau, ta lại sẽ gặp nhau tại chùa Thiên TrúcHàng Châu, vào đêm Trung Thu trăng sáng. Chiều đó, sư Viên Trạch mất.

Người đàn bà nọ sinh con trai. Ba hôm sau, Lý đến thăm. Quả nhiên đứa bé thấy Lý thì cười, đúng như lời hẹn. Mười ba năm sau, Lý đến chùa Thiên TrúcHàng Châu, thấy một cậu chăn trâu hát rằng:


Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân, Tàm qui tình nhân viễn tương phỏng Thử thân tuy dị, tính thường đồng. Nghĩa:

Là tinh hồn cũ đã ba sinh,

Trăng gió làm chi để bận mình. Thẹn với người quen xa viếng hỏi, Thân này tuy khác, tính nguyên lành.

"Ba sinh" có nghĩa là số kiếp tiền định. "Nợ ba sinh" là nợ số kiếp tiền định, duyên số với nhau từ kiếp trước.


Page 7

Nằm Giá, Khóc Măng

[Xem: 5811]

Vương Tường, đời Tần, mồ côi mẹ, phải sống với dì ghẻ. Bà dì ghẻ rất độc ác, tuy vậy, Vương Tường vẫn một lòng hiếu thảo.

Nằm gai, nếm mật

[Xem: 10422]

"Nằm gai nếm mật" do chữ "Ngọa tân thường đảm". Đời Xuân Thu [722-479 trước D.L.], hai nước Ngô và Việt đánh nhau. Sau trận đại bại tại Cối Kê...

Mây Mưa

[Xem: 7434]

Tục xưa truyền Sở Tương Vương nằm mơ thấy thần nữ trên núi Vu Sơn, hỏi ở đâu lại thì đáp rằng: "Thần nữ thường làm mây buổi sáng, làm mưa buổi chiều".

Mài Dao Dạy Vợ

[Xem: 7783]

Ngày xưa có một người nhà quê lấy phải vợ độc ác. Người vợ này đối xử với mẹ chồng rất là hỗn láo vô lễ. Người chồng khuyên hoài không được, bèn nghĩ ra một kế.

Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài

[Xem: 7614]

Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v

Loan giao

[Xem: 7752]

Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc nàng Kiều bán mình chuộc tội cho cha, sắp sửa về ở cùng Mã Giám Sinh, nàng nhắn nhủ với em là Thúy Vân...

Liễu Chương Đài

[Xem: 18500]

"Chương Đài" là tên một con đường ở thành Trường An bên Tàu. "Hỏi Liễu Chương Đài" là hỏi thăm cây liễu ở đường Chương Đài. Đây có nghĩa là hỏi thăm người tình nhân cũ...

Lục Lễ

[Xem: 9064]

Theo tục lệ Việt Nam, để hoàn tất một đám cưới, người ta phải có đủ 6 lễ, gọi là Lục Lễ: 1/ Nạp Thái: Nhà trai nhờ người đến nhà gái ướm ý...

Lệnh Ông Không Bằng Cồng Bà

[Xem: 7980]

Vào cuối thế kỷ thứ hai, Triệu Thị Trinh [bà Triệu] cùng anh là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân Giao-châu chống quân Ngô. Ban đầu Triệu Quốc Đạt khuyên can...

Lá gió, cành chim

[Xem: 6702]

Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà...

Kết Cỏ Ngậm Vành

[Xem: 11495]

Ngụy Thù, người nước Tấn, có người vợ lẻ trẻ đẹp. Lúc Ngụy Thù gần chết, không muốn cho người vợ thuộc về người khác, bèn dặn con là Ngụy Khỏa phải chôn sống nàng...

Khánh Ly

[Xem: 5268]

Trịnh Công Sơn đã nói rằng ông đặt nghệ danh cho ca sĩ Lệ Mai là Khánh Ly bởi vì ông hâm mộ hai nhân vật trong lịch sử là Khánh Kỵ và Yêu Ly.

Hoa đào năm ngoái …

[Xem: 4997]

Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường [618-907], nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa...

Gương vỡ lại lành

[Xem: 7669]

Trung Quốc, đời nhà Trần, người hầu cận Thái Tử là Từ Đức Ngôn có tình với Nhạc Xương công chúa. Khi nhà Trần suy loạn, Từ bảo công chúa:- Nước mất, nàng tất lọt vào nhà quyền quý.

Giấc Nam Kha

[Xem: 44472]

Trong "Nam Kha ký thuật" của Lý Công Tá đời nhà Đường có kể truyện Thuần Vu Phần nằm mộng thấy chàng đến nước Hòe An. Thuần được vua Hòe An cho vào bái yết.

Giấc Mộng Hoàng Lương

[Xem: 21228]

"Hoàng lương" có nghĩa là kê vàng. Ngày xưa có Lư Sinh đi thi không đỗ, vào hàng cơm nghỉ chân. Có một lão già cho mượn một cái gối nằm.

Giá Áo Túi Cơm

[Xem: 11657]

Thời Ngũ Đại, có một người tên là Mã Ân, tiếm ngôi vua. Mã Ân nguyên trước chỉ là một vị quan võ nhỏ, bộ hạ của quan Vũ An Tiết Độ Sứ đời Đường...

Dương Quý Phi 楊貴妃

[Xem: 5678]

Dương Quý Phi [chữ Hán:楊貴妃, 719 – 756] là một cung phi của Đường Minh Hoàng. Bà được xếp vào một trong Tứ đại mĩ nhân của lịch sử Trung Quốc

Duyên nợ ba sinh

[Xem: 36012]

"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau.

Dữ hổ mưu bì

[Xem: 7685]

Câu thành ngữ này có nghĩa là bàn định với con cáo hoặc con hổ để lột da chúng. Nay thường dùng để ví về những việc bàn luận đều phải hy sinh lợi ích của đối phương...

Dây Tơ Hồng

[Xem: 7732]

Điển tích Tơ Hồng do chuyện ngày xưa, bên Tàu có một người tên là Vi Cố, một bữa đi chơi trăng, bắt gặp một ông già đang ngồi xe các sợi dây đỏ.

Con "Quốc quốc"

[Xem: 5366]

Chim Cuốc còn có tên là Đỗ Quyên, Tử Quy hay Đỗ Vũ. Giống chim này, đầu mỏ hơi cong, miệng to đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng có một đường đen...

Chim Việt, ngựa Hồ

[Xem: 10433]

Chim Việt là loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến buổi đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn.

Chim Sa Cá Lặn

[Xem: 17605]

Ngày nay, mọi người đều hiểu thành ngữ này là một cách nói ngoa dụ để chỉ người đàn bà rất đẹp, giống như cách hiểu thành ngữ "hoa hờn nguyệt thẹn"...

Chắp cánh, liền cành

[Xem: 8838]

"Chắp cánh, liền cành" tức là "Chim chắp cánh, cây liền cành". Sách Nhĩ Nhã chép: Chim Kiêm giống chim le le, lông màu xanh, chỉ có một cánh và một mắt, thường ở phương Nam.

Châu Về Hợp Phố

[Xem: 39994]

Hợp Phố xưa thuộc tỉnh Giao Châu, nay là Quảng Đông. Vào thời Bắc thuộc, miền bể ấy có rất nhiều ngọc châu [ngọc trai].

Châu Sa

[Xem: 9927]

Tục truyền rằng đời xưa có một loại người gọi là Giao Nhân, ở dưới biển Nam Hải lên buôn bán với con người. Đến cuối năm thì họ phải trở về Thủy Cung.

Cử án tề mi

[Xem: 12327]

Đời Hậu Hán [25-219], ở đất Giang Nam có một chàng hàn sĩ tên Lương Hồng. Nhà nghèo, Lương Hồng ở trong túp lều tranh vách đất. Họ Lương chăm học biết trọng liêm sỉ,...

Củi đậu đun hột đậu

[Xem: 8515]

Đời Tam Quốc [220-264], Tào Thực tự Tử Kiến là con thứ ba của Tào Tháo, vốn có tài làm thơ hay, được tiếng là đệ nhất thi nhân đời Tần-Hán nhưng có tính phóng túng.

Công Dã Tràng

[Xem: 8228]

Tục truyền có chàng thợ săn tên Dã Tràng, một ngày kia nhìn thấy một cặp rắn. Khi con rắn cái lột da thì rắn đực đi tìm đồ ăn mang về cho.

Cây Huyết Dụ

[Xem: 7075]

Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người đàn bà...

Cái "gia gia"

[Xem: 8124]

Cuối đời nhà Thương [1783-1154 trước D.L.] vua Trụ hoang dâm vô đạo, tàn hại lê dân, người người oán giận. Văn Vương là Cơ Xương, vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân từ đức hạnh...

Bi Ca Tán Sở

[Xem: 6927]

"Bi Ca Tán Sở" là một bài hát do Trương Lương đặt ra cho hòa theo tiếng tiêu thổi để làm tan rã quân đội Sở Bá Vương Hạng Võ. Trương Lương tự Tử Phòng, người nước Hán...

Bới Lông Tìm Vết

[Xem: 18376]

Đời nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố trận.

Bạch Diện Thư Sinh

[Xem: 8596]

Đời nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố trận.

Bình Nguyên Quân

[Xem: 6837]

Lời lẽ và ý tứ hai câu vốn mượn ý và lời ở hai câu liền nhau trong bài "Hàm đan thiếu niên hành" của Cao Tứ đời Đường: Vị tri can đảm hướng thùy thị, Linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân.

Bãi Bể, Nương Dâu

[Xem: 40152]

Những thay đổi lớn trong cuộc đời, trong xã hội, thường được người Việt ví với "bãi bể nương dâu". Thí dụ: Phút giây bãi bể nương dâu, Cuộc đời là thế biết hầu nài sao. [Lê Ngọc Hân - Ai tư vãn]

Bát Trân

[Xem: 14218]

Bát Trân ý nói là những món ăn ngon. Ngày xưa, có 8 món ăn được liệt vào hạng ngon nhất, nấu công phu và rất bổ dưỡng, chỉ có vua chúa mới có dịp ăn, ấy là...

Bá Nha Tử Kỳ

[Xem: 14276]

Bá Nha đời Xuân Thu là một người có tài đàn. Chung Tử Kỳ là người biết thưởng thức âm nhạc. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, bụng nghĩ đến núi, thì Chung Tử Kỳ khen: "Tiếng đàn chót vót như núi cao".

Ba Que Xỏ Lá

[Xem: 19885]

Trong thời Pháp thuộc, có một bọn người chuyên tổ chức những "trò chơi có thưởng". Trò chơi của bọn họ gồm một cái que và ba chiếc lá. Mỗi lá có đính một chiếc vòng nhỏ ở cuống.

Áo gấm mặc đêm

[Xem: 14726]

Nguyên Sở Hạng Võ chiếm đất Quang Trung là đất hưng vương, núi non hiểm trở; còn Hán Lưu Bang vì thế lực yếu nên phải bị đày vào đất Bao Trung.

Sự tích chuông chùa

[Xem: 24932]

Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...

Page 8

Bạch Tuyết và Hồng Hoa

[Xem: 8490]

Ngày xưa có một người đàn bà góa sống cô quạnh trong một túp lều gianh. Trước cửa là một cái vườn có hai cây hoa hồng, một cây ra hoa đỏ, một cây ra hoa trắng.

Chim ưng thần

[Xem: 7800]

Ngày xưa có một ông vua trị vì vào thời nào, tên là gì, tôi không nhớ rõ nữa. Vua không có con trai, chỉ có độc một cô con gái, luôn luôn đau ốm...

Nước trường sinh

[Xem: 7654]

Xưa có một ông vua ốm thập tử nhất sinh, ai cũng cho là không thể sống được nữa. Ba con trai thấy vậy, buồn lắm.

Bảy con quạ

[Xem: 6916]

Ngày xưa, có một người sinh được bảy con trai, nhưng không có con gái, cầu mãi cũng chẳng được. Mãi về sau, vợ có mang, bác ta chứa chan hy vọng...

Ong chúa

[Xem: 6227]

Ngày xửa ngày xưa, có hai Hoàng tử đi phiêu lưu, sống lang bạt không về nhà nữa. Người em út, thường gọi là "Chú Ngốc", lên đường đi tìm hai anh.

Rau lừa

[Xem: 6620]

Xưa có một người thợ săn trẻ tuổi vào rừng rình thú. Lòng anh phơi phới. Anh vừa đi vừa thổi kèn bằng lá, bỗng gặp một bà lão già nua, xấu xí.

Vua núi vàng

[Xem: 6177]

Một người lái buôn có hai con, một gái một trai đều nhỏ, chưa biết đi. Bác trang bị hai chiếc tàu, đầy đủ hàng hóa quý giá, tất cả gia tài, của cải đều ở đó.

Thần chết đỡ đầu

[Xem: 6852]

Xưa có một người nghèo có mười hai đứa con. Bác phải làm ngày làm đêm để nuôi chúng. Khi đứa con thứ mười ba ra đời...

Ba bà kéo sợi

[Xem: 6107]

Ngày xưa có một cô gái lười biếng, không chịu kéo sợi. Mẹ cô khuyên bảo thế nào cô cũng không nghe. Một hôm, bà mẹ không chịu được nữa...

Anh và em gái

[Xem: 6111]

Có hai anh em nhà kia mồ côi mẹ. Một hôm, anh dắt em gái đi thủ thỉ nói: - Từ ngày mẹ mất, anh em mình không có lúc nào sung sướng nữa.

Học rùng mình

[Xem: 6426]

Xưa có người có hai con trai. Con trai lớn thông minh, khôn ngoan, gặp khó khăn đến đâu cũng biết đường xoay xở. Còn em thì ngốc nghếch...

Con ngỗng vàng

[Xem: 6184]

Xưa có một người có ba con. Con thứ ba tên là chàng Ngốc thường bị khinh rẻ chế giễu và làm việc gì cũng bị gạt ra.

Thỏ và nhím

[Xem: 5869]

Một buổi sáng chủ nhật mùa thu, lúa mạch đen đang độ đâm bông. Mặt trời đã lên cao. Ngọn gió ấm áp thổi lướt trên các thân rạ.

Ngọn đèn xanh

[Xem: 6872]

Ngày xưa, có một người lính tận tụy với nhà vua bao nhiêu năm trời ròng rã. Hết thời chinh chiến, người ấy bị thương nhiều, không phụng sự được nữa...

Vua quạ

[Xem: 7085]

Ngày xưa có một ông vua sinh được một cô con gái đẹp tuyệt trần, nhưng kiêu căng ngạo ngược. Ai đến hỏi cô làm vợ, cô cũng chê bai giễu cợt.

Đồ bỏ xó

[Xem: 6200]

Ngày xưa, có một người xay bột nghèo mà lại có một cô con gái xinh đẹp. Có lần, bác ta tình cờ được nói chuyện với nhà vua.

Sáu người hầu

[Xem: 5993]

Xưa có một bà hoàng hậu già, vốn là một mụ phù thủy. Mụ sinh được một con gái đẹp vào bậc nhất trên đời.

Con nam ở ao

[Xem: 5718]

Xưa có hai vợ chồng người thợ xay bột sống rất sung sướng. Họ có tiền của, mỗi năm lại sung túc thêm. Nhưng hoạn nạn thường đến bất ngờ.

Một đòn chết bảy

[Xem: 5671]

Một buổi sáng mùa hè, một chú thợ may ngồi trên phản bên cửa sổ chăm chú khâu, có vẻ khoan khoái lắm. Chợt có bà nông dân đi qua phố rao hàng...

Sợi vứt đi

[Xem: 6220]

Ngày xưa có một cô gái xinh đẹp nhưng phải cái lười biếng và cẩu thả. Khi phải kéo sợi thì cô làm thật miễn cưỡng.

Quà của người tí hon

[Xem: 6270]

Một bác thợ may và một bác thợ vàng cùng đi với nhau. Một hôm, mặt trời vừa lặn sau núi, họ thấy xa xa có tiếng nhạc, càng đến gần nghe càng rõ.

Cỗ quan tài thủy tinh

[Xem: 6125]

Xưa có một anh thợ may, dáng người nhanh nhẹn, tính tình dễ thương. Anh đi tập nghề, đến cánh rừng kia vì không biết đường nên bị lạc.

Bác nông dân và con quỷ

[Xem: 17247]

Xưa có một bác nông dân khôn ngoan ranh mãnh, mẹo vặt của bác thì không sao kể hết được. Lý thú nhất là chuyện bác có lần lừa được cả quỷ.

Người da gấu

[Xem: 6098]

Xưa có một anh thanh niên đi lính, rất dũng cảm, luôn luôn xung phong dưới mũi tên hòn đạn. Trong thời chiến, mọi việc đều ổn nhưng đến thời bình, anh bị thải hồi.

Chú Hanxơ sung sướng

[Xem: 5895]

Hanxơ đi ở đã được bảy năm. Một hôm, chú thưa với chủ: - Thưa ông, tôi ở với ông đã hết hạn rồi, xin ông trả tiền công cho tôi để tôi về nhà với mẹ.

Những người khôn

[Xem: 5923]

Một hôm, một bác nông dân rút ở xó nhà ra chiếc gậy gỗ trăn rồi bảo vợ: - Này nhà ạ, tôi đi ba ngày nữa mới về đấy.

Sáu con thiên nga

[Xem: 5495]

Ngày xưa có một ông vua đi săn ở một khu rừng lớn, vì vua đuổi theo một con thú hăng quá nên quân hầu không ai theo kịp.

Hai Ông cháu

[Xem: 6414]

Xưa có một ông cụ già nua tuổi tác, mắt mờ, tai nặng, chân tay run lẩy bẩy. Khi ngồi ăn, cụ cầm thìa không vương, đánh đổ xúp ra khăn bàn...

Hanxơ sắt

[Xem: 5489]

Xưa có một ông vua. Quanh cung điện của vua là một khu rừng lớn trong đó có đủ các loài dã thú. Một hôm, có một người thợ săn được vua phái vào rừng...

Gã thợ xay nghèo khó

[Xem: 5363]

Ở một nhà xay bột kia có một bác thợ xay nghèo, không có vợ con gì cả. Bác có ba gã giúp việc. Ba gã ở với bác được vài năm thì một hôm...

Chọn vợ

[Xem: 7116]

Một chàng chăn chiên muốn hỏi một trong ba chị em nhà kia làm vợ. Ba cô đều xinh, anh chàng phân vân mãi, không biết nên chọn cô nào.

Hai anh em

[Xem: 5387]

Xưa có hai anh em, anh thì giàu mà em thì nghèo. Người anh giàu có làm nghề thợ vàng, tính vốn ác nghiệt. Người em tết chổi bán kiếm tiền ăn...

Ba sợi tóc vàng của quỷ

[Xem: 5532]

Ngày xưa, ở một làng kia, có một người đàn bà nghèo sinh được một đứa con trai. Khi nó ra đời, người ta tiên tri là năm mười bốn tuổi, nó sẽ lấy được công chúa.

Con rắn trắng

[Xem: 5685]

Ngày xưa có một ông vua nổi tiếng trong cả nước là khôn ngoan. Không cái gì là vua không biết, dường như gió đưa lại cho vua những tin tức bí mật nhất.

Vua trộm

[Xem: 5448]

Một hôm, hai vợ chồng bác nông dân già ngồi nghỉ trước túp lều tồi tàn sau khi làm việc vất vả. Bỗng có một chiếc xe tứ mã lộng lẫy đến đỗ ngay trước nhà.

Con quỷ nhốt trong lọ

[Xem: 5181]

Ngày xưa có một bác tiều phu nghèo khổ. Bác luôn luôn phải làm việc từ sáng sớm đến tối mịt. Mãi rồi bác cũng dành dụm được ít tiền.

Ba cô chị

[Xem: 5086]

Ngày xưa có một ông vua rất giàu, vua giàu đến nỗi tưởng là của cải của mình không bao giờ hết được. Vua sống xa hoa, chơi bàn cờ bằng vàng...

Cô bé hai mắt

[Xem: 5255]

Ngày xưa, có một bà có ba cô con gái. Con lớn tên là Một Mắt vì cô chỉ có độc một mắt ở giữa trán. Cô thứ hai tên là Hai Mắt vì cô có hai mắt như mọi người khác.

Đứa con vàng

[Xem: 4689]

Xưa có hai vợ chồng nhà kia rất nghèo. Của cải chỉ có độc một túp lều nhỏ. Ngày ngày hai người đi bắt cá, làm chẳng đủ ăn.

Ngôi nhà trong rừng

[Xem: 4802]

Có một bác tiều phu nghèo sống với vợ và ba con gái trong túp lều nhỏ ven một khu rừng hẻo lánh. Một buổi sớm, lúc sắp đi làm bác dặn vợ...

Nàng Bạch Tuyết

[Xem: 5140]

Giữa mùa đông tháng giá, tuyết rơi xuống trắng như bông. Một bà hoàng hậu ngồi khâu bên cửa sổ khung gỗ mun...

Cô bé lọ lem

[Xem: 4863]

Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc.

Page 9

Bà lão chăn ngỗng

[Xem: 4750]

Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.

Jôrinđơ và Jôgigơn

[Xem: 4619]

Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.

Cây củ cải

[Xem: 4977]

Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.

Bảo Kiếm

[Xem: 6265]

Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...

Mắt xanh, mắt trắng

[Xem: 11687]

Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...

Tuyệt Anh Hội

[Xem: 5728]

Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.

Tây Thi, Trịnh Đán

[Xem: 10953]

Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.

Ngũ Kinh

[Xem: 10829]

Ngũ Kinh [năm quyển sách] cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...

Tứ Thư

[Xem: 7823]

Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.

Thôi xao

[Xem: 11162]

Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.

Lễ tang

[Xem: 7508]

Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" [Sở trọng giả, thực tang tế].

Ngọc tỉnh liên phú

[Xem: 5791]

"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...

Tái ông thất mã

[Xem: 9307]

Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc [Hồ] có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.

Ma Rồng gặp Trâu Bồ Tát

[Xem: 4919]

Đời nhà Đường [618-907], triều Lý Thái Tông [Lý Thế Dân], niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.

Đuốc hoa, hoa đèn

[Xem: 7926]

Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".

Mấy cành Dương Quan

[Xem: 6092]

Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...

Cơm Phiếu mẫu, trôn Ác Thiểu

[Xem: 6025]

Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.

Hỏa ngưu trận

[Xem: 5271]

Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.

Lễ hôn

[Xem: 5360]

Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc [111 trước D.L.] do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.

Loạn Kiêu Binh

[Xem: 4923]

Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh [1528-1788]. Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.

Bối thủy trận

[Xem: 7004]

Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...

Đào Hoa Phu Nhân

[Xem: 4987]

Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.

Hát Trống Quân

[Xem: 4728]

Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...

Điêu Thuyền với kế liên hoàn

[Xem: 4433]

Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.

Hát Quan Họ

[Xem: 4562]

Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...

Nữ Trượng Phu

[Xem: 5556]

Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.

Công Tử Bạc Liêu

[Xem: 5524]

Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.

Tung Hoành Gia

[Xem: 6901]

"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...

Liệt nữ họ Lý thành Giang Du

[Xem: 8535]

Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...

Chu Công thổ bộ

[Xem: 7496]

Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu [1135-221 trước D.L.], có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".

Mây Tần, mây Hàng...

[Xem: 4725]

"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.

Tiền Xích Bích Phú

[Xem: 5302]

"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha [1036-1101], một văn hào đời nhà Tống [950-1275]. Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...

Nợ như chúa Chổm

[Xem: 7407]

Nước Việt, năm Đinh Hợi [1527], Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.

Giang thần trảo trảo

[Xem: 5257]

Năm Nhâm thân [1572], nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào.

Page 10

Cỏ đỏ trên mộ Chiêu Quân

[Xem: 5291]

Tỉnh Tuy Viễn ở Trung Hoa, bắc giáp Mông Cổ. Thị trấn tỉnh hội là Quy Tuy. Cách 10 cây số về phía nam có mộ của Vương Chiêu Quân, người cung phi tuyệt đẹp của Hán Nguyên đế...

Tri kỷ

[Xem: 11020]

Đời Xuân Thu, Quản Di Ngô tự là Trọng, vốn người có tài kinh bang tế thế. Ngày còn hàn vi, chưa gặp thời thường cùng bạn là Bảo Thúc Nha đi buôn chung.

Cỏ Ngu Mỹ Nhân

[Xem: 14015]

Hán, Sở giao binh tại Cai Hạ. Đây là trận cuối cùng quyết định thắng bại của đôi bên. Tướng soái của Hán vương Lưu Bang là Hàn Tín đem trăm vạn quân siết chặt vòng vây...

Khắc lậu

[Xem: 6289]

Về thời thượng cổ, người ta chưa có cơ khí gì để đo lường thời gian mà chỉ có một ít dụng cụ thô sơ. Dụng cụ đó là cái đồng hồ thái dương...

Thao lược

[Xem: 7238]

"Thao lược" cũng gọi là "Lục thao, Tam lược". Đây là hai bộ sách thuộc về binh pháp cổ Trung Hoa.

Sát thê cầu tướng

[Xem: 4541]

Ngô Khởi, người nước Vệ đời Chiến Quốc [481-221 trước D.L.]. Lúc còn bé, Khởi chuyên học nghề đánh gươm, luyện võ. Bà mẹ rầy la.

Tiết phụ ngâm

[Xem: 5166]

Trương Tịch tự Văn Xương, người đất Tô Châu, thi gia thời Trung Đường [766-827], đậu Tiến sĩ dưới triều vua Đức Tông. Năm 799, được Hàn Dũ tiến cử làm Quốc tử bác sĩ...

Mã đầu cầm

[Xem: 4586]

Cây đàn bằng gỗ, thùng đàn hình thang, cần dài. Đầu cần có trạm hình đầu con ngựa. Cung đàn làm bằng đuôi ngựa.

Nàng Ban, ả Tạ

[Xem: 5049]

Nàng Ban tức là Ban Chiêu, tự Huệ Cơ, con gái của Ban Bưu, em gái của Ban Cố đời Đông Hán [25-196]. Sinh trong gia đình Nho họ, cha anh đều học thức tài giỏi.

Gậy rút đất

[Xem: 4483]

Ở núi Xuân Đài, xã Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc [Thanh Hóa] có động Hồ công. Phía trước động ngoảnh về sông Mã.

Bách bộ xuyên dương

[Xem: 5214]

Đời Xuân Thu [551-479 trước D.L.], tướng Dưỡng Do Cơ và Phan Đảng đều là người nước Sở, có tài thiện xạ. Một hôm, cả hai thử tài nhau chơi.

Tuyệt Diệu Hảo Từ

[Xem: 5923]

Thái Diễm cũng gọi là Thái Văn Cơ, một nữ sĩ tài hoa đời Tam Quốc [220-264]. Cha nàng là Thái Ung, có tài thẩm âm vào bực nhứt cổ kim.

Tiếng đàn tri âm

[Xem: 4198]

Bá Nha, người đời nhà Tấn, làm quan Thượng Đại Phu. Một hôm đi sứ nước Sở trở về, đến sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu trăng thanh gió mát...

Trường Hận Ca

[Xem: 4356]

Chứng kiến được cảnh thảm khốc của một bi tình si lụy của Đường Minh Hoàng, họ Bạch để lòng cảm xúc bằng bài "Trường hận ca" [Hận tình muôn thuở].

Trống cơm

[Xem: 5356]

Không ai biết trống cơm ra đời từ lúc nào. Chỉ biết đại khái là các cụ ta thường dùng nó trong những dịp tế lễ thần thánh...

Núi Vọng Phu

[Xem: 4727]

Chóp núi Vọng Phu là một khối đá hoa cương khổng lồ, đứng thẳng lên trời; bên cạnh lại có một khối đá khác nhỏ hơn.

Trao tơ, gieo cầu

[Xem: 4204]

Đời nhà Đường [618-907], Tể Tướng Trương Gia Trinh có năm người con gái. Cả năm đều xấp xỉ ngang nhau. Mỗi người một vẻ...

Hồ Than Thở

[Xem: 4244]

Hồ nằm về phía đông bắc thành phố Đà Lạt [khoảng 5 cây số]. Nơi đây trước kia là một vùng hoang vu, giang sơn của những loài thảo mộc...

Giấm chua

[Xem: 6734]

Hoàng đế nước Kim rất yêu quý hai nàng cung phi là Lệ Cẩm tây cung và Ngọc Sương ái phi. Hoàng hậu lấy làm ghen tức...

Khúc Hậu Đình Hoa

[Xem: 4663]

"Hậu Đình Hoa" nghĩa là "Hoa ở sân sau". Đây là một tập thơ chọn lọc rồi phổ thành âm điệu cho các cung nữ, phi tần hát...

Động Đào Nguyên

[Xem: 9327]

Tương truyền đời nhà Tấn [265-419], có người chài cá ở huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược ven theo bờ suối.

Đào yêu

[Xem: 8839]

Rẽ cho thưa hết một lời đã nao! Vẻ chi một đóa yêu đào! Vườn hồng khi dám ngăn rào chim xanh.

Lam Kiều

[Xem: 7074]

Lam Kiều là một cái cầu bắc trên sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, tương truyền là nơi tiên ở.

Giảo thố tam quật

[Xem: 3561]

"Giảo thố tam quật" nghĩa là "con thỏ khôn có ba ngách hang". Ý nói: thỏ có ba ngách hang để tránh cho khỏi bị chết...

Khúc trường tương tư

[Xem: 5899]

Đời Hậu Chu, thời Ngũ Quý [905-955], ở tỉnh Hồ Nam vùng sông Tiêu Tương có nàng Ý Nương, con gái của Lương công. Nàng có sắc đẹp lại hay chữ.

Gấm nàng Ban

[Xem: 4520]

Nàng họ Ban, không biết tên, vốn là một cung phi của vua Thành Đế nhà Hán [32-8 trước D.L.]. Nàng làm nữ quan, chức Tiệp Dư nên thường gọi nàng Ban Tiệp Dư.

Động Bích Đào

[Xem: 4685]

Ở xã Trị Nội, huyện Nga Sơn, phía hữu núi Thần Phù có "Bích Đào động" cũng gọi là "Từ Thức động", trong trải rộng rãi mà lại thanh hư, cây cối xinh tốt.

Khúc phượng cầu hoàng

[Xem: 16690]

Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh, người ở Thành Đô đời nhà Hán. Người rất đa tài, văn hay, đàn giỏi. Khi lìa quê lên Tràng An để lập công danh...

Vạn lý tìm chồng

[Xem: 3959]

Nhà Tần [306-209 trước D.L.], đời vua Tần Thủy Hoàng [221-209 trước D.L.] có người con gái họ Hứa tên Mạnh Khương. Chồng của nàng họ Phạm tên Thực, người ở miền Quan Trung nước Sở.

Chức cẩm hồi văn

[Xem: 4157]

Đời nhà Tấn [265-419] ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ tự Nhược Lan. Nàng, dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng.

Đồng Tước Đài

[Xem: 5531]

Tào Tháo đời Tam Quốc [220-264] có xây một cái đài bên sông Chương Hà tỉnh Hà Nam, đặt tên là Đồng Tước. Đài này cực kỳ tráng lệ.

Số Mệnh Thay Đổi Theo Thiện Ác

[Xem: 4375]

Đời vua Hán cảnh Đế có người bán dầu tên Bùi Độ nghèo khổ lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói vì coi tướng mặt có hai đường chỉ...

Page 11

Khúc đàn Thủy Tiên

[Xem: 4849]

Có một chàng tên Giang Thu San, quê ở An Huy, vốn người phong nhã, tính ưu ngao du sơn thủy. Gặp buổi ngày xuân, chàng liền rủ bạn sang Kim Lăng thưởng xuân.

Hằng Nga và Hậu Nghệ

[Xem: 4508]

Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...

Điểu Tận Cung Tàng

[Xem: 26277]

Ý của câu thành ngữ này là chỉ chim chóc bị săn bắn hết rồi thì cất cung nỏ vào kho. Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Sử ký - Việt thế gia".

Điêu Thuyền 貂蟬

[Xem: 5824]

Điêu Thuyền [chữ Hán: 貂蟬, bính âm: diào chán] là một người đẹp trong tứ đạinhân Trung Hoa và là một nhân vật nổi tiếng trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa.

Xướng Ca Vô Loài

[Xem: 6297]

Người Việt Nam xưa chia tầng lớp xã hội ra làm 4: Công, Nông, Binh, Thương. Công là những người làm nghề công nhân nhà máy, chuyên về công nghiệp.

Xe dê

[Xem: 6608]

"Xe dê" do chữ "Dương xa". Ngày xưa, nhà vua nào cũng vậy, ngoài có hoàng hậu, thứ phi còn có hàng ngàn cung nữ, chọn lấy người đẹp...

Vương Chiêu Quân 王昭君

[Xem: 5783]

Vương Chiêu Quân [王昭君] cũng như Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quí Phi, nổi danh không chỉ bởi với nhan sắc mà còn bởi tài năng và những dấu ấn nàng để lại trong lịch sử.

Vắng Như Chùa Bà Đanh

[Xem: 5665]

Chùa Bà Đanh là tên gọi Nôm của chùa Châu Lâm. Chùa này được cất lên cùng với viện Châu Lâm vào thời vua Lê Thánh Tông [1460-1497]...

Trung ngôn nghịch nhĩ

[Xem: 9648]

Thành ngữ "Trung ngôn nghịch nhĩ". Tức nói thật mất lòng, hoặc nói thẳng nghe trái tai. Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Sử ký-Lưu Hầu Thế Gia".

Trúc mai

[Xem: 6924]

"Trúc mai" là cây trúc và cây bương. Trúc thuộc một loại tre nhỏ. Bương là một giống tre to ở rừng. Lá to có thể dùng gói bánh.

Tiêu Lang

[Xem: 5531]

Trong vùng có nàng họ Lương tên Bích Nga, sắc đẹp lộng lẫy, duyên dáng cực kỳ. Cha mẹ mất sớm, nàng họ Lương phải ở nhờ cô ruột.

Tựa cửa, tựa cổng

[Xem: 4889]

"Tựa cửa", "tựa cổng" do chữ "Ỷ môn", "Ỷ tư". Nhạc Nghị là tướng nước Yên đời Chiến Quốc đem quân đánh Tề, hạ được 72 thành.

Tứ Đại Mỹ Nhân

[Xem: 4690]

Người Trung Hoa ngày xưa chọn bốn người con gái có sắc đẹp tuyệt nhất trong lịch sử, gọi là "Tứ Đại Mỹ Nhân", đó là Tây Thi...

Tục uống máu ăn thề

[Xem: 5699]

Đời nhà Lý [1010-1225], vua Lý Thái Tông tên Phật Mã lúc còn làm thái tử [1020], Lý Thái Tổ là Lý Công Uẩn sai đem quân đánh Chiêm Thành.

Tết Trung Thu

[Xem: 4904]

Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán [206 trước 23 sau D.L.], Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...

Tết Trùng Cửu

[Xem: 4940]

Theo phong tục của Tàu, Tết Trùng Cửu ăn vào ngày mồng 9 tháng 9. Nguyên đời Hậu Hán [25-250] có Hoàng Cảnh, người huyện Nhữ Nam...

Tết Hàn Thực

[Xem: 4496]

Tết này ăn vào ngày mồng 3 tháng 3. Vào ngày này người Tàu ăn toàn đồ nguội và tổ chức những cuộc chơi vui vẻ lắm.

Tây Thi 西施

[Xem: 5860]

Tây Thi [chữ Hán: 西施; bính âm: xi shi, 506 TCN-?] là một người con gái rất đẹp thời Xuân Thu và cũng là một trong Tứ đạinhân Trung Quốc.

Tam bành, lục tặc

[Xem: 8336]

Đạo gia [tức Đạo giáo, theo học thuyết của Lão Tử] cho rằng cái Thần [tinh thần] của con người ở vào ba nơi. Một ở óc, hai ở minh đường [quả tim]...

Sư tử Hà Đông

[Xem: 14718]

Thoạt nghe, không ít người nghĩ rằng, trong nội dung câu thành ngữ "Sư Tử Hà Đông" có điều gì liên can đến đất Hà Đông xưa của Việt Nam.

Sự tích trầu cau

[Xem: 6895]

Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em

Sự tích sầu riêng

[Xem: 5091]

Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.

Sự tích hoa mai vàng

[Xem: 4763]

Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...

Sự Tích Dã Tràng

[Xem: 4696]

Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...

Sa nang ủng thủy

[Xem: 6049]

Theo "Tây Hán chí ", "Sa nang ủng thủy" là một kế hoạch của tướng Hán là Hàn Tín đánh bại quân Sở tại ngọn sông Duy thuộc tỉnh Sơn Đông.

Rét nàng Bân

[Xem: 6973]

Nàng Bân là con gái của Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần vụng về.

Niêm hoa vi tiếu

[Xem: 8966]

Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.

Nhất nhật thiên lý

[Xem: 4494]

Thời Chiến Quốc, thái tử Đan nước Yến đang làm con tin tại nước Việt đã quen biết với Tần Vương Chính cũng đang làm con tin tại nước Triệu.

Nhan Bành Di Chích

[Xem: 4209]

Nhan: Là Nhan Hồi, quê ở nước Lỗ, tự là Tử Uyên, học trò ưu tú của Khổng Tử. Nhan Hồi siêng năng, học giỏi, cam sống cảnh nghèo mà vẫn vui vẻ.

Ngu Công di sơn

[Xem: 6033]

Truyền rằng, thời xưa có hai trái núi là Thái Hàng và Vương Ốc. Có một ông già nhà ở phía bắc núi tên là Ngu Công. Do có hai trái núi này...

Ngậm Ngải Tìm Trầm

[Xem: 5238]

Trầm là một loại cây có mùi hương, nên còn được gọi là Trầm Hương, trị được nhiều chứng bệnh, rất quí và hiếm. Những người đi tìm Trầm thường được gọi là "đi điệu"

Ngôn quá kỳ hành

[Xem: 4376]

"Ngôn quá kỳ hành..." nguyên câu là: "Ngôn quá kỳ hành bất khả trọng dụng" đó là lời nói của Lưu Bị chúa nước Tây Thục đời Tam Quốc...

Ngàn dâu

[Xem: 7690]

Ở Trung Hoa ngày xưa, nơi thôn quê, người ta thường trồng dâu gần bên đường. "Mạch thượng tang" cũng là tên khúc hát cổ nhạc phủ của nàng La Phu nước Triệu...

Video liên quan

Chủ Đề