Anh sẽ yêu em một ngày nào đó 1995 năm 2024

Cao là người chiến sĩ cách mạng nhưng cũng là người nghệ sĩ đa tài, Văn Cao đã từng khẳng định tài năng của mình trên cả ba lĩnh vực thi ca, hội họa và âm nhạc. Ba ngọn nến sáng tạo luôn thắp sáng trong tâm hồn Văn Cao khi ông làm thơ, vẽ tranh và viết nhạc. Và hầu như ở lĩnh vực nào ông cũng là chiến sĩ tiên phong.

Nói đến Văn Cao, người ta không thể không nhắc đến lĩnh vực HỘI HOẠ. Ở lĩnh vực này, ông là một họa sĩ sử dụng cọ và màu cũng sắc sảo, mặn nồng không thua gì các họa sĩ chuyên nghiệp.

Với năng khiếu thiên bẩm, ngay từ khi học lớp đồng ấu, Văn Cao đã được thầy học chọn trình bày báo trường và từ bước đi đầu tiên đầy hứa hẹn ấy được học tập, bồi dưỡng đã giúp Văn Cao tiến dài trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Sau khi vào học dự thính Trường Mỹ thuật Đông Dương [1943], Văn Cao đã đến với chất liệu sơn dầu. Ông tham gia trưng bày “Triển lãm Duy nhất” [Salon Unique - 1944] với ba bức tranh sơn dầu “Cô gái dậy thì”, “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử”, “ Thái Hà ấp đêm mưa” và lập tức gây chấn động dư luận. Ba bức tranh đều được giải thưởng. Trong kháng chiến chống Pháp, lên Lào Cai, Văn Cao tiếp tục vẽ tranh thể hiện rung động nghệ sĩ của ông trước cuộc sống kháng chiến với các bức tranh “Phố lu”, “Gối mộng”, “Suối tóc”, “Lớn lên trong kháng chiến” được xem là những họa phẩm thành công…

Các tác phẩm tranh minh họa trên báo của Văn Cao.

Các tác phẩm tranh minh họa trên báo của Văn Cao.

Từ sau năm 1956, Văn Cao đi vào hướng thẩm mĩ mới, ông làm bìa sách, vẽ tranh minh họa, kí họa chân dung. Hàng trăm bức tranh minh họa báo Văn nghệ, rất nhiều bìa sách ông làm cho nhà xuất bản Thanh niên, nhà xuất bản Phụ nữ, nhà xuất bản Ngoại văn, một số chân dung bạn bè văn nghệ sĩ thân quen… đã được công chúng đánh giá cao.

Nhà thơ, dịch giả Dương Tường nhận xét tranh minh họa của Văn Cao “mạnh dạn xử lí nét mảng khối theo một tiếp cận lập thể”, còn nhà phê bình mĩ thuật Thái Bá Vân đánh giá: “Cái nhìn hội họa ở Văn Cao có địa vị dẫn đường và chi phối”.

Các tác phẩm hội hoạ của Văn Cao được công chúng yêu nghệ thuật mến mộ nhưng có lẽ ÂM NHẠC mới là lĩnh vực mà Văn Cao được mọi người biết đến nhiều nhất.

Văn Cao bước vào lĩnh vực âm nhạc khi mới 17 tuổi. “Buồn tàn thu” [1940] là ca khúc đầu tay của ông với ca từ đẹp, giai điệu buồn tha thiết.

Mặc dù số ca khúc Văn Cao sáng tác không nhiều, nhưng trong đó có nhiều bài nổi tiếng, từ các ca khúc lãng mạn “Buồn tàn thu”, “Bến xuân”, “Thu cô liêu”, “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”…, các hành khúc “Thăng Long hành khúc ca”, “Gò Đống Đa”, “Tiến quân ca”, “Tiến về Hà Nội”, các thôn ca “Làng tôi”, “Ngày mùa”, đến chính ca “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”, anh hùng ca “Chiến sĩ Việt Nam”, “Trường ca sông Lô”… đã được bao thế hệ công chúng yêu thích, ngưỡng mộ. Ông còn sáng tác ca khúc và viết nhạc cho vở kịch “Nhật kí địa chất”, “Từ Trường Sơn”, “Hà Nội năm 1946” và các phim “Tiếng đàn diệu kì”, “Thạch Sanh” [phim cắt giấy]…

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng… Âm nhạc của anh là âm nhạc của thần tiên bay bổng”.

Nhạc của Văn Cao tinh tế về giai điệu, phong phú về tiết tấu, sang trọng mà rất đỗi trong sáng. Nhiều bài hát của Văn Cao đã đi vào tâm thức dân tộc, trở thành niềm kiêu hãnh của tâm hồn, trí tuệ con người Việt Nam. Giai điệu hùng tráng của bài “Tiến quân ca”, một tác phẩm không thể thay thế, theo thời gian càng ngày càng vang khắp thế giới. Còn “Thiên thai” với giai điệu thần tiên huyền ảo đã là một bản nhạc trong băng nhạc của các nhà du hành vũ trụ Mỹ mang theo trong hành trình vũ trụ trên con tàu Apollo.

Ca khúc Văn Cao đầy ắp tính dự báo... Từ những ngày đầu cách mạng tháng Tám, nhìn các chiến sĩ Việt Nam giải phóng quân từ chiến khu về trang bị còn thô sơ, nhưng khuôn mặt vẫn ngời lên ý chí anh hùng, Văn Cao xúc động và mơ đến một ngày nào đó đất nước ta không chỉ có lục quân mà sẽ còn phải có nhiều quân, binh chủng hùng mạnh. Các bài hát “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” ra đời với lời ca hào sảng lãng mạn vẽ nên một tương lai huy hoàng về sức mạnh Việt Nam: Đôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh/Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng…

Ngay từ những năm 1949, cuộc kháng chiến chống ngoại xâm khó khăn gian khổ, Văn Cao qua nhạc phẩm đã dự báo thắng lợi của cách mạng, những đội quân trùng trùng điệp điệp tiến về giải phóng thủ đô trong trống giong cờ mở, trong hân hoan háo hức của lòng người. Bài hát "Tiến về Hà Nội" ra đời với hào khí: "Trùng trùng đoàn quân đi như sóng. Lớp lớp đoàn quân tiến về. Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng. Cờ ngày nào tung bay trên phố. Trùng trùng say trong câu hát…. ".

Sau đó, ở khúc hoan ca mừng xuân đại thắng, mùa xuân đầu tiên đất nước thống nhất năm 1975, nhân dân ta từ bắc chí nam được sống trong thanh bình yên ấm, Văn Cao đã gửi gắm một ước mơ có ý nghĩa nhân bản, vĩnh hằng: “Từ đây người biết quê người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người”…

Viết về nhạc sĩ Văn Cao khi ông qua đời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề: “Chúng ta vô cùng nhớ tiếc người nghệ sĩ tài ba xuất chúng. Những tác phẩm của anh, đặc biệt là bài Quốc ca, những bài ca hùng tráng, những bản nhạc trữ tình, sẽ sống mãi với thời gian, với dân tộc, như một điểm sáng trong nền nghệ thuật Việt Nam”.

Cùng với âm nhạc, hội hoạ, trong lĩnh vực THI CA, Văn Cao cũng đã để lại cho nhân thế những sáng tác nổi tiếng. Thơ Văn Cao in đậm tìm tòi, cách tân trong hình thức, không theo vần điệu mà từ cung bậc của cảm xúc mang tính triết lý, nhưng đầy chất lãng mạn, trữ tình, nhằm tăng cường khả năng truyền cảm.

Năm 1940 trong hành trình viễn du từ bắc vào nam, Văn Cao hoàn thành tác phẩm “Một đêm đàn lạnh trên sông Hương”. Sau đó ông còn công bố những bài thơ gây tiếng vang lớn. Thơ của Văn Cao luôn luôn có sự đổi mới, nhạy cảm với thời cuộc, nhân tình thế thái, luôn tạo cho thơ sức nặng của tầm cao tư tưởng, rũ bỏ những làn điệu êm ái, ông nhìn thảm cảnh đau thương năm Ất Dậu là những nỗi kinh hoàng, tiếng kêu xé lòng của một kiếp người, bài thơ: "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc" khẳng định sự tận số của chế độ cũ, dự báo sự tất thắng của cuộc cách mạng dân tộc vì độc lập tự do, bài thơ "Ngoại ô mùa đông năm 1946" chỉ tạo đà cho khoảnh khắc nhảy vọt trong thơ Văn Cao, đó là sự ra đời của trường ca “Những người trên cửa biển” viết vào mùa xuân 1956, giúp cán cân thơ - nhạc có thành tựu tương đương.

"...Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống Chúng muốn những em nhỏ mới biết đi phải rụng Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hy vọng Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người Chúng nó ở bên ta, trong ta, lén lút Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men Tôi đã thấy từng mặt từng tên xâu chuỗi Tôi sẽ vạch từng tên lên mặt Hãy dừng lại Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc Những tên muốn làm cây to chớ cớm mầm non Con đường ta đi tự hào lực lượng Con đường nước nguồn thành sông thành biển Con đường ta đi tự hào duy nhất Con đường đi trái đất quanh mặt trời…"

[Trích Trường ca Những người trên cửa biển-1956]

Có thể nói, ở lĩnh vực sáng tạo nào từ nhạc đến hội họa và thi ca, Văn Cao cũng cho ra đời những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng nghệ thuật. Như sự đánh giá của dư luận, hoặc ngay cả lời bày tỏ của chính Văn Cao với đồng nghiệp và báo chí: “Ông vẽ và làm thơ như một thôi thúc, còn âm nhạc trước sau vẫn là lẽ sống của đời mình”.

Chủ Đề