Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sức khỏe

Sức khỏe chịu tác động tổng hợp của các yếu tố thiên nhiên [vật lý, hóa học…], sinh học và kinh tế, xã hội… Bài viết này sẽ giúp bạn tìm hiểu cụ thể những yếu tố có ảnh hưởng đến sức khỏe con người chúng ta nhé!

Vai trò của Nhà nước trong chăm sóc sức khỏe người dân

Theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, con người là một thực thể sinh học xã hội, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật, chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng.

Một trong những quyền cơ bản của con người là quyền được chăm sóc sức khỏe.

Mặc dù trong xã hội ngày này có nhiều quan niệm về sức khỏe khác nhau nhưng chúng đều xoay quanh khái niệm của WHO: Sức khỏe là một trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh hay thương tật, gồm:

  • Sức khỏe thể chất được thể hiện một cách tổng quát, đó là sự sảng khoái và thoải mái về thể chất; 

  • Sức khỏe tinh thần là sự thỏa mãn về mặt giao tiếp xã hội, tình cảm và tinh thần; 

  • Sức khỏe xã hội - sự hòa nhập của cá nhân với cộng đồng.

Ngày nay, một trong những quyền cơ bản của con người là quyền được chăm sóc sức khỏe, nghĩa là mỗi người dân đều có quyền được hưởng các dịch vụ y tế.

Nhà nước có trách nhiệm trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng, cung cấp cho nhân dân những dịch vụ y tế tốt nhất bởi sức khỏe là tài sản quý giá của mỗi cá nhân, mỗi gia đình cũng như toàn xã hội. 

Cần xác định rõ, chi phí cho các công việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cộng đồng không phải là khoản chi tiêu công cộng có tính chất phúc lợi, cứu trợ, giúp đỡ mà là đầu tư cho phát triển xã hội bởi các lý do sau đây: 

  • Người dân có sức khỏe là yếu tố thúc đẩy tăng năng suất lao động, nâng cao sức khỏe cộng đồng sẽ giảm chi phí vì bệnh tật; 

  • Đầu tư cho y tế, cho chăm sóc sức khỏe cộng đồng là biện pháp tích cực để xóa đói, giảm nghèo… 

  • Dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế bao gồm hàng hóa công cộng đặc trưng như: phòng, chống dịch bệnh; kiểm soát các bệnh truyền nhiễm; sức khỏe bà mẹ trẻ em; sức khỏe nghề nghiệp… cần được nhà nước cung cấp miễn phí cho mọi thành viên trong xã hội.

Không giống như các loại hàng hóa, dịch vụ thông thường chỉ nhắm đến một vài nhóm tiêu dùng, tính chất đặc thù của chăm sóc sức khỏe, y tế khác là hướng đến toàn bộ xã hội: Chăm sóc sức khỏe ban đầu, y tế dự phòng… 

Chính vì vậy, chỉ có nhà nước mới có thể huy động được nguồn lực của toàn xã hội và tạo điều kiện cho mọi đối tượng đều có cơ hội tiếp cận và nhận được sự hỗ trợ đặc biệt về chính sách và vật chất từ Nhà nước cũng như các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp…

Tóm lại, sức khỏe là quyền lợi cơ bản nhất của con người và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe phải được coi là đầu tư cho phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ. 

Môi trường sinh thái, trong đó có môi trường xã hội là những yếu tố được đánh giá là có tính quyết định đến sức khỏe con người. 

Những yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe

Môi trường sinh thái, đặc biệt là môi trường xã hội khi thay đổi sẽ mang đến những ảnh hưởng tiêu cực lên tâm lý, tình cảm của con người. Chúng cũng là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra những bệnh lý cho con người. 

Có thể nói, môi trường sinh thái, trong đó có môi trường xã hội là những yếu tố được đánh giá là có tính quyết định đến sức khỏe con người. 

Dưới đây là những yếu tố gây tác hại lên sức khỏe:

Các yếu tố về di truyền

Di truyền là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến sức khỏe chúng ta. Vì sao như vậy? 

Các yếu tố sinh học quyết định cấu trúc cơ thể và các hoạt động chức năng của cơ thể nên một khi khi có sự biến đổi bất thường trong cấu trúc của những đoạn gen nào đó sẽ dẫn đến nguy cơ gây ra những bệnh tật tương ứng. 

Đáng mừng là y học ngày nay đã có thể sử dụng bản đồ gen làm công cụ chẩn đoán một số bệnh có thể gây hậu quả xấu cho thế hệ sau, bao gồm thiếu máu do hồng cầu hình liềm, bệnh xơ nang tụy, bệnh đái tháo đường… 

Tuy nhiên, lưu ý là phần lớn các yếu tố gen thường không thể thay đổi được. Hiện giới y học cũng chỉ mới có thể can thiệp được ở mức hạn chế mà thôi.

Yếu tố môi trường

Sau di truyền, môi trường chính là yếu tố quan trọng thứ hai gây ra ảnh hưởng đến sức khỏe. Đây là những yếu tố bên ngoài cơ thể nên việc kiểm soát chúng là không thể được. 

Chung tay xây dựng một môi trường tự nhiên trong lành sẽ giúp ích rất nhiều cho sức khỏe cộng đồng.

Có thể nói, môi trường là yếu tố đóng vai trò hết sức quan trọng quyết định tình trạng sức khỏe của bất cứ một cộng đồng nào. Môi trường ở đây có thể hiểu là bao gồm môi trường xã hội, tổ chức xã hội, các nguồn lực… 

Môi trường tự nhiên có nhiệt độ, ánh sáng, không khí, đất nước, thiên tai, thảm họa. Trong khi đó, môi trường sống, làm việc đề cập đến tình trạng khó khăn về nhà ở, nơi làm việc, trong gia đình và cộng đồng dễ dẫn đến những vấn đề về sức khỏe tâm thần. Ngoài ra, hệ thống giao thông, đường sá bất cập, xuống cấp; các loại thiên tai lũ lụt [lụt lội, bão, động đất, các thiên tai khác] còn gây tử vong hoặc thương tích cho nhiều người. 

Chính vì vậy, chung tay xây dựng một môi trường tự nhiên trong lành sẽ giúp ích rất nhiều cho sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh đó, một môi trường xã hội với những con người sống vui vẻ hòa nhã, chất lượng sống tốt chắc chắn cũng sẽ tác động tích cực đến sức khỏe của mọi cá nhân trong cộng đồng.

Yếu tố xã hội

Là tất cả các yếu tố và hoàn cảnh không thuận lợi cho con người sinh sống và làm việc, như: chiến tranh, sự bất ổn về kinh tế - xã hội, tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh sống ô nhiễm, khó tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế, quá nhiều tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, cờ bạc, thực phẩm chứa nhiều chất độc hại, dinh dưỡng không đúng cách, kỳ thị chủng tộc, giới tính, vị trí xã hội, quan hệ xã hội, công ăn việc làm, mức thu nhập, mức sống, kinh tế chậm phát triển… 

Những yếu tố này, một số cá nhân con người hoặc một vài ngành không giải quyết hết được mà đây phải là công việc của tất cả các ngành, của cả cộng đồng, quốc gia.

Hệ thống chăm sóc sức khỏe

Hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt/xấu đều gây ra những tác động đáng kể đến trạng thái sức khỏe của người dân.

Không nghi ngờ, một hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt/xấu đều gây ra những tác động đáng kể đến trạng thái sức khỏe của người dân. 

Chất lượng điều trị và chăm sóc như thế nào, tình trạng thuốc men có đầy đủ hay không; khả năng tiếp cận với các dịch vụ của người dân [chi phí, khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, thời gian chờ đợi…]; thái độ của cán bộ y tế đối với người bệnh; trình độ chuyên môn của cán bộ y tế có đáp ứng được yêu cầu không; tính chất của hệ thống chăm sóc sức khỏe [chăm sóc sức khỏe đặc biệt chuyên sâu, y tế nhà nước hay y tế tư nhân]. 

Tình trạng sức khỏe cá nhân và cộng đồng tốt hay xấu phụ thuộc nhiều bởi tình trạng xấu hay tốt của những yếu tố trên thuộc hệ thống chăm sóc sức khỏe.

Yếu tố hành vi và lối sống của con người

Hành vi sức khỏe là hành vi của cá nhân, gia đình, cộng đồng tạo ra các yếu tố tác động trực tiếp, hoặc gián tiếp đến sức khỏe của chính họ, có thể có lợi hoặc có hại cho sức khỏe. 

Hành vi của con người có liên quan đến việc tạo ra, bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe, hoặc liên quan đến một vấn đề sức khỏe nhất định, như hành vi tập thể dục, hành vi về dinh dưỡng, về vệ sinh môi trường… 

Hành vi sức khỏe cá nhân là trọng tâm của quá trình giáo dục và nghiên cứu sức khỏe. Hành vi và lối sống không lành mạnh được xem là nguyên nhân dẫn đến bệnh tật, tử vong và các vấn đề sức khỏe khác…

Chế độ dinh dưỡng rất quan trọng để giúp cho cơ thể được khỏe mạnh.

Dinh dưỡng

Chế độ dinh dưỡng rất quan trọng để giúp cho cơ thể được khỏe mạnh. Dinh dưỡng hợp lý, an toàn, lành mạnh sẽ giúp cơ thể hoạt động tốt, tăng sức đề kháng chống lại nguy cơ bệnh tật. Ngược lại, nếu một người ăn uống không hợp lý, không đều độ, không khoa học sẽ dẫn đến mất cân bằng dinh dưỡng, cơ thể bị rối loạn, suy yếu. Đây là cơ hội cho các loại bệnh tật tấn công, gây nguy hiểm cho tính mạng. Béo phì, tiểu đường, tim mạch, ung thư,… là những căn bệnh được xác định có nguyên nhân chủ yếu là do ăn uống và lối sống không lành mạnh gây ra.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần biết kết hợp dinh dưỡng hợp lý, đầy đủ chất với một lối sống, sinh hoạt điều độ, vận động phù hợp càng giúp cơ thể khỏe mạnh hơn. 

Như Quỳnh

Nguồn tham khảo: Tổng hợp

Khái niệm về hành vi và hành vi sức khoẻ

Trình bày khái niệm về hành vi và hành vi sức khỏe

I. Hành vi của con người:

Mỗi cá nhân đều sống trong một tập thể xã hội và có quan hệ với những người xung quanh trong những mối tác động qua lại nhất định. Sự tác động qua lại giữa người này với người khác, hay giữa con người với các sự việc, hoàn cảnh xung quanh được thể hiện bởi một hành động đơn lẻ hay các hành động phối hợp được gọi là hành vi. Như vậy hành vi của con người được hiểu là một hành động hay nhiều hành động phức tạp trước một sự việc, hiện tượng mà các hành động này lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách quan. Có rất nhiều yếu tố có thể tác động đến hành vi của một người như trình độ văn hóa, phong tục tập quán cộng đồng, kinh tế xã hội, chính trị, luật pháp, nguồn lực, kỹ năng, phương tiện kỹ năng, thông tin… Mỗi hành vi của một người là biểu hiện của các yếu tố cấu thành nên nó, đó là kiến thức, niềm tin, thái độ, cách thực hành [hay kỹ năng] của người đó trong một hoàn cảnh hay tình huống cụ thể nào đó. Một hành vi có thể thấy ở một cá nhân, cũng có thể thấy trong thực hành của một nhóm cá nhân hay cả một cộng đồng. Hành vi được lặp đi lặp lại nhiều lần trong thời gian dài có thể trở thành thói quen.

Hành vi sức khỏe là những hành vi của con người có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến sức khỏe của chính bản thân họ, của những người xung quanh và của cộng đồng. Theo ảnh hưởng của hành vi đến sức khỏe, chúng ta có thể thấy ba loại hành vi sức khỏe.

Những hành vi có lợi cho sức khỏe: Đó là các hành vi lành mạnh được người dân thực hành để phòng chống bệnh tật, tai nạn, bảo vệ và nâng cao sức khỏe hay các hành động mà một người thực hiện để làm cho họ và những người khác khỏe mạnh và phòng các bệnh tật, ví dụ như khám thai định kỳ, tiêm chủng cho trẻ, tập thể dục, dinh dưỡng hợp lý, nuôi con bằng sữa mẹ, sử dụng hố xí hợp vệ sinh, thực hành vệ sinh môi trường, giảm các hành vi làm tổn hại sức khỏe như: hút thuốc lá, nuôi con bằng sữa chai, uống rượu quá nhiều…

Những hành vi có hại cho sức khỏe: Là các hành vi có nguy cơ hoặc có tác động xấu đến sức khỏe do một cá nhân, một nhóm người hay có thể cả một cộng đồng thực hành. Một số hành vi có hại cho sức khỏe do cá nhân và cộng đồng thực hành đã lâu và có thể trở thành những thói quen, phong tục tập quán gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của nhiều người. Ví dụ như sử dụng phân tươi bón ruộng, không ăn chín uống chín, hút thuốc lá, lạm dụng và nghiện rượu, quan hệ tình dục bừa bãi thiếu bảo vệ,…

Hành vi trung gian: là các hành vi không có lợi và cũng không có hại cho sức khỏe. Ví dụ một số bà mẹ đeo vòng bạc [hay vòng hạt cây] cho trẻ em để tránh gió, tránh bệnh. Với các loại hành vi trung gian này thì không cần phải tác động để loại bỏ, đôi khi cần chú ý khai thác những khía cạnh có lợi của các hành vi này đối với sức khỏe, ví dụ như hướng dẫn các bà mẹ theo dõi độ chặt, lỏng của vòng cổ tay, cổ chân của trẻ để đánh giá tình trạng tăng trưởng của trẻ.

Đăng bởi: ycantho - Ngày đăng: 28/03/2020

Page 2

Nghiên cứu cắt ngang

Định nghĩa của nghiên cứu cắt ngang, ưu và nhược điểm của nghiên cứu cắt ngang

Là nghiên cứu trong đó tình trạng mắc bệnh và tiếp xúc được đánh giá đồng thời ở 1 dân số và ở tại 1 thời điểm xác định. Toàn bộ dân số [1 xí nghiệp, 1 nhà máy, 1 thành phố, hay 1 đơn vị địa dư] hay 1 mẫu của dân số được đánh giá có hay không có hiện diện của yếu tố tiếp xúc và đồng thời người ta cũng xác định có hay không có sự hiện diện của vấn đề sức khoẻ bệnh tật.

Trong dịch tể học từ dân số không chỉ mang ý nghĩa là toàn bộ người sống trong 1 vùng địa dư nhất định, mà nó mang ý nghĩa là những nhóm người xác định theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau như là: trẻ em trong trường, công nhân trong xí nghiệp, nhà máy, những người hút thuốc, những người có dùng thuốc ngừa thai uống… trong các khảo sát thực địa, thường gặp thuận lợi khi sử dụng dân số được xác định bởi biên giới hành chánh như: làng, huyện, tỉnh…

Sau đây là sơ đồ của nghiên cứu cắt ngang

- Nghiên cứu cắt ngang chỉ ra mức độ phổ biến của 1 vấn đề sức khoẻ đặc biệt trong dân số nghiên cứu.

- Nó giúp xác định cho mối liên hệ giữa các vấn đề sức khoẻ và 1 số yếu  tố trong các điều kiện thích hợp.

- Nghiên cứu cắt ngang có thể gợi ý cho sự tương quan giữa tiếp xúc và bệnh tật.

- Nghiên cứu cắt ngang cung cấp thông tin cho các quyết định hành chánh đối với vấn đề tiếp xúc, cũng như những người bị ảnh hưởng của tiếp xúc trong dân số ở 1 thời điểm nào đó.

Ưu và nhược điểm của nghiên cứu cắt ngang:

- Cung cấp kết quả nhanh chóng và dễ thực hiện, chi phí không cao.

- Cung cấp các chứng cứ chứng minh có sự kết hợp giữa các yếu tố quan tâm và bệnh. Đặc biệt đối với các đặc tính tiếp xúc có tính chất liên tục như màu da, màu sắc, giới tính thì nghiên cứu cắt ngang được xem như là nghiên cứu phân tích.

2. Nhược điểm:

- Chỉ có các ca đang mắc hay những người sống sót được điều tra khảo sát [do người sống sót được chọn lọc]

- Trong nhiều trường hợp, người ta không thể rút ra mối liên hệ nhân quả vì trình tự thời gian không xác định chắc chắn.

- Không phù hợp khi áp dụng cho các bệnh hiếm hay tiếp xúc hiếm được vì đòi hỏi cỡ mẫu hay dân số lớn nên tốn kém.

- Vì tiếp xúc và bệnh tật được đo lường cùng 1 lúc nên có thể không xác định được sự tương quan giữa tiếp xúc và bệnh tật là do hậu quả của sự tiếp xúc hay là do hậu quả của bệnh

Đăng bởi: ycantho - Ngày đăng: 28/03/2020

Page 3

Biến dạng cột sống xảy ra do trong quá trình tăng trưởng và phát triển của trẻ, cột sống có những hình dạng thay đổi khác với các đường cong sinh lý bình thường và có khả năng ảnh hưởng đến các chức năng của cơ thể. Đây là chứng bệnh khá phổ biến, có thể đeo đẳng suốt cả đời người. Nếu nhẹ, có thể sẽ khiến ngoại hình mất cân đối, kém thẩm mỹ, hạn chế phần nào khả năng lao động. Trong trường hợp nặng, lồng ngực BN sẽ bị lép do xương sườn xẹp, dung tích phổi giảm gây hạn chế sức thở và giảm tuổi thọ. Các nguyên nhân thường gặp có thể gây biến dạng cột sống ở trẻ em là:

1. Do bàn ghế thiếu, hay không phù hợp tiêu chuẩn vệ sinh trường học: bàn ghế quá thấp, hoặc bàn quá cao mà ghế lại quá thấp, hay bàn thấp mà ghế lại quá cao, hoặc bàn ghế chật hẹp làm cho trẻ bị gò bó, ngồi xiêu vẹo…

2. Ánh sáng trong lớp học không đầy đủ, học sinh phải ngồi xoay vở ra phía có nhiều ánh sáng để học, để viết.

3. Do học sinh có tư thế ngồi học xấu, không điều chỉnh, uốn nắn kịp thời. ví dụ như: ngồi vẹo đầu, vặn người, tì ngực vào bàn, hay ngồi xổm để học…

4. Xách hay đeo cặp thuận 1 bên quá nặng, kéo dài lâu ngày…

5. Do trẻ phải lao động chân tay quá sớm hoặc phải ngồi làm nghề thủ công ở tư thế gò bó trong thời gian dài, gánh vác, đội, cõng hoặc bế nách em nhỏ…

6. Do bệnh tật, tai nạn, còi xương, suy dinh dưỡng…

1. Vẹo cột sống [Scoliosis]

Đây là loại biến dạng cột sống thường gặp nhất. Khi đó, đoạn cột sống ngực cong sang 1 bên, thường cong sang bên phải [bên thuận], do trẻ ngồi học không thẳng mà nghiêng sang 1 bên thường xuyên, tật này đáng lẽ chỉ gặp ở những người nhạc sĩ kéo đàn Violon, dân chày kéo lưới, người chèo thuyền đò… Khi BN đứng thẳng, quan sát từ phía sau thường gặp 4 dạng sau: hình chữ C thuận, hình chữ C ngược, hình chữ S thuận, hình chữ S ngược. Tình trạng cong vẹo cột sống có thể ít hay nhiều, từ đó dẫn tới các dị tật ở mức độ khác nhau, thông thường được phân làm 3 loại:

- Vẹo độ 1: khi đứng thẳng thì có xoáy vặn cột sống nhưng hình thể vẹo không thấy rõ ràng, khó phát hiện bằng mắt thường, nói chung chưa ảnh hưởng đến chức năng hô hấp.

- Vẹo độ 2: khi đứng thẳng, nhìn sau lưng cũng đã thấy được hình dáng cong vẹo cột sống, thấy được ụ ngồi sườn do đốt sống bị xoáy vặn, bắt đầu có ảnh hưởng đến chức năng hô hấp.

- Vẹo độ 3: nhìn thấy rõ tư thế lệch, cột sống bị cong ảnh hưởng rõ tới quá trình hô hấp, có thể biến dạng khung chậu, ở nữ việc sinh con bị trở ngại.

Ở các trường hợp nặng, bắp thịt bị kéo căng và có hiện tượng đau, xương ngực có thể bị biến dạng, tim phổi xê dịch vị trí, chiều dài của lưng bị ngắn lại. Xương chậu cũng có thể bị xoay lệch, các cơ quan trong ổ bụng cũng có thể dịch vị trí.

2. Gù lưng [cyphosis]:

Sự thay  đổi cấu trúc cột sống thể hiện ở chỗ đoạn cột sống ngực quá cong lồi ra phía trước, tật này hay gặp ở trẻ em ngồi học lâu thường xuyên, đầu cúi sát mặt bàn, tì ngực vào bàn hoặc thường xuyên gánh gồng, mang vác nặng quá sức, tật đáng lẽ chỉ gặp ở người già. Khi trẻ đứng thẳng, nhìn từ bên hông sẽ thấy đường cong cột sống lưng nhô lên quá cao khiến thân hình ngắn lại.

3. Ưỡn lưng [lordosis]:

Đây là loại biến dạng cột sống ít gặp, đoạn cột sống thắt lưng quá ưỡn ra trước, tật này có thể gặp ở những trẻ ngồi ưỡn bụng, hay ở những bé gái mang giầy – guốc quá cao gót làm cho cột sống thắt lưng bẻ gập vào đoạn cột sống cùn cụt đẩy mông ra sau rõ hơn. Khi trẻ đứng thẳng, quan sát từ bên hông thấy vòng cong thắt lưng ưỡn ra phía trước, làm ngực nhô lên, hai vai so lại, mặt có xu hướng ngữa lên.

Đăng bởi: ycantho - Ngày đăng: 28/03/2020

Video liên quan

Chủ Đề