Cfat là gì

Dòng tiền dư thừa [tiếng Anh: Excess Cash Flow] là một thuật ngữ được sử dụng trong các hợp đồng cho vay hoặc khế ước trái phiếu, nói đến phần dòng tiền của một công ty thường được người cho vay yêu cầu phải trả.

[Ảnh minh họa: The payoneerblog]

Khái niệm

Dòng tiền dư thừa trong tiếng Anh là Excess Cash Flow.

Dòng tiền dư thừa là một thuật ngữ được sử dụng trong các hợp đồng cho vay hoặc khế ước trái phiếu, nói đến phần dòng tiền của một công ty thường được người cho vay yêu cầu phải trả.

Dòng tiền dư thừa thường là tiền mặt nhận được hoặc được tạo bởi một công ty kích hoạt thanh toán cho người cho vay theo qui định trong hợp đồng tín dụng.

Vì công ty có một khoản vay chưa trả với chủ nợ, nên một số dòng tiền nhất định phải chịu những giới hạn trong việc sử dụng của công ty.

Tính toán Dòng tiền dư thừa

Không có công thức nào được thiết lập để tính toán dòng tiền dư thừa vì mỗi hợp đồng tín dụng có thể có các yêu cầu khác nhau dẫn đến thanh toán cho người cho vay khác nhau.

Tính toán gần đúng dòng tiền dư thừa có thể bắt đầu bằng cách lấy lợi nhuận hoặc thu nhập ròng của công ty, cộng lại với khấu hao và trừ đi đầu tư cho tài sản cố định cần thiết để duy trì hoạt động kinh doanh và chi trả cổ tức.

Nói cách khác, một hợp đồng tín dụng có thể phác thảo lượng dòng tiền dư thừa giúp kích hoạt thanh toán, nhưng cũng cho biết cách sử dụng hoặc chi tiêu tiền mặt.

Người cho vay có thể cho phép sử dụng tiền mặt cho hoạt động kinh doanh, chi trả cổ tức và đầu tư cho tài sản cố định.

Các điều khoản xác định dòng tiền dư thừa và bất kì khoản thanh toán nào thường được đàm phán giữa người vay và người cho vay.

Nếu dòng tiền dư thừa được tạo ra, người cho vay có thể yêu cầu thanh toán bằng 100%, 75% hoặc 50% dòng tiền dư thừa.

Ý nghĩa của Dòng tiền dư thừa

Dòng tiền dư thừa được ghi vào các thỏa thuận cho vay hoặc khế ước trái phiếu để cung cấp thêm bảo đảm rủi ro tín dụng của người cho vay hay nhà đầu tư.

Nếu một sự kiện xảy ra tạo ra dòng tiền dư thừa như trong hợp đồng tín dụng, thì công ty phải thanh toán cho người cho vay. Khoản thanh toán có thể là tỉ lệ phần trăm của dòng tiền dư thừa, thường phụ thuộc vào sự kiện nào tạo ra dòng tiền dư thừa đó.

Người cho vay xác định dòng tiền dư thừa bằng công thức tỉ lệ phần trăm hoặc số tiền lớn hơn và vượt quá thu nhập ròng hoặc lợi nhuận trong kì của công ty.

Tuy nhiên, công thức đó sẽ khác nhau tùy theo người cho vay và những thỏa thuận của người vay khi thương lượng hợp đồng.

Người cho vay muốn áp đặt các hạn chế về cách chi tiêu tiền mặt dư thừa với nỗ lực duy trì kiểm soát dòng tiền của công ty. Nhưng người cho vay không muốn tạo ra nhiều hạn chế đến mức làm tổn hại đến khả năng tài chính của công ty.

Sự kiện kích hoạt thanh toán từ Dòng tiền dư thừa

Nếu một công ty tăng thêm vốn thông qua tài trợ, công ty sẽ có dòng tiền dư thừa và lúc này sẽ được yêu cầu phải trả cho người cho vay số tiền được tạo ra trừ đi các chi phí liên quan đến việc tăng thêm vốn.

Ví dụ, nếu một công ty phát hành cổ phiếu mới hoặc tăng thêm vốn chủ sở hữu, số tiền huy động được sẽ kích hoạt thanh toán cho người cho vay.

Ngoài ra, nếu một khoản nợ do công ty phát hành như chào bán trái phiếu, thì bất kì số tiền thu được nào cũng có thể kích hoạt thanh toán cho người cho vay.

Bán tài sản cũng có thể kích hoạt thanh toán. Một công ty có thể có các khoản đầu tư hoặc nắm giữ cổ phần nhỏ trong các công ty khác. Nếu công ty bán những khoản đầu tư đó để kiếm lợi nhuận, người cho vay có thể sẽ yêu cầu thanh toán từ khoản tiền đầu tư đó.

Những ngoại lệ đối với Dòng tiền dư thừa

Một số trường hợp ngoại lệ không cần phải sử dụng dòng tiền dư thừa để kích hoạt thanh toán cho người cho vay, chẳng hạn như bán hàng tồn kho.

Một công ty trong quá trình hoạt động bình thường có thể cần phải mua và bán hàng tồn kho để tạo thu nhập hoạt động. Do đó, có khả năng việc bán tài sản, bao gồm hàng tồn kho sẽ được miễn nghĩa vụ trả trước.

Các chi phí hoặc chi phí vốn khác có thể không cần phải kích hoạt thanh toán cho người cho vay, như tiền mặt được giữ tại ngân hàng để giúp thanh toán cho một sản phẩm tài chính nhằm phòng ngừa rủi ro thị trường cho công ty.

Hạn chế khi sử dụng Dòng tiền dư thừa

Như những số liệu tài chính khác, sử dụng dòng tiền dư thừa cũng có những hạn chế trong việc sử dụng làm thước đo hiệu suất của công ty.

Số tiền được coi là vượt quá được xác định bởi người cho vay và không đại diện cho dòng tiền thực sự của công ty, bởi vì một số mục đã trừ khỏi tính toán để giúp doanh nghiệp cải thiện hiệu suất của mình, đảm bảo trả nợ.

Ví dụ về Dòng tiền dư thừa

Giả sử công ty A có kết quả tài chính sau vào cuối năm:

Thu nhập ròng: $1.000.000

Chi phí vốn cho hoạt động: $500.000

Lãi suất trả nợ bằng tiền mặt: $100.000

Giả sử rằng cả chi phí vốn cho hoạt động và lãi suất trả nợ bằng tiền mặt được cho phép theo hợp đồng tín dụng, nghĩa là công ty có thể sử dụng tiền mặt cho các chi phí đó.

Tuy nhiên, bất kì khoản tiền mặt nào còn lại sau khi trừ các chi phí từ thu nhập ròng sẽ được coi là dòng tiền dư thừa và buộc phải kích hoạt thanh toán cho người cho vay.

Dòng tiền dư thừa: $1.000.000 - $500.000 - $100.000 = $400.000

Tỉ lệ phần trăm của dòng tiền dư thừa để thanh toán theo hợp đồng: 50%

Vậy khoản thanh toán cho người cho vay: $400.000 * 50% = $200.000

[Theo Investopedia]

Minh Hằng

Phương pháp gián tiếp trong tính toán dòng tiền [tiếng Anh: Cash Flow Indirect Method] là một trong hai phương pháp kế toán được sử dụng để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

[Ảnh minh họa: Gocardless]

Khái niệm

Phương pháp gián tiếp trong tính toán dòng tiền trong tiếng Anh là Cash Flow Indirect Method.

Phương pháp gián tiếp trong tính toán dòng tiền là một trong hai phương pháp kế toán được sử dụng để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

Phương pháp gián tiếp sử dụng tăng và giảm trong các dòng mục của bảng cân đối kế toán để sửa đổi phần dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, từ phương pháp kế toán dồn tích sang phương pháp kế toán tiền mặt.

Phương pháp khác để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ là phương pháp trực tiếp, một phương pháp ghi nhận các dòng tiền ra và dòng tiền vào thực tế được thực hiện trong kì báo cáo.

Nguyên tắc lập báo cáo theo Phương pháp gián tiếp trong tính toán dòng tiền

Theo phương pháp gián tiếp trong tính toán dòng tiền, các dòng tiền ra và dòng tiền vào từ hoạt động kinh doanh được tính và xác định trước hết bằng cách điều chỉnh lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của hoạt động kinh doanh khỏi ảnh hưởng của các mục không phải bằng tiền, thay đổi trong kì của hàng tồn kho, các khoản phải thu, các khoản phải trả từ hoạt động kinh doanh và các khoản ảnh hưởng đến tiền từ hoạt động đầu tư.

Ví dụ về Phương pháp gián tiếp trong tính toán dòng tiền

Ví dụ, theo phương pháp kế toán dồn tích, doanh thu được ghi nhận khi kiếm được, không nhất thiết phải nhận tiền mặt.

Nếu một khách hàng mua một món hàng trị giá $500 bằng tín dụng, việc bán hàng đã được thực hiện nhưng tiền mặt vẫn chưa được nhận. Doanh thu vẫn được ghi nhận trong tháng bán hàng.

Phương pháp gián tiếp của báo cáo lưu chuyển tiền tệ cố gắng ghi nhận theo phương thức kế toán tiền mặt để mô tả dòng tiền mặt ra và vào thực tế trong kì.

Trong ví dụ này, tại thời điểm bán, một khoản ghi nợ sẽ được thực hiện cho các khoản phải thu và khoản tín dụng cho doanh thu bán hàng với số tiền là $500. Bên nợ sẽ ghi nhận tăng các khoản phải thu, sau đó được hiển thị trên bảng cân đối kế toán.

Theo phương pháp gián tiếp, báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ thể hiện thu nhập ròng trên dòng đầu tiên. Các dòng tiếp theo sẽ hiển thị tăng và giảm trong tài khoản tài sản và nợ, và các mục này sẽ được cộng hoặc trừ vào thu nhập ròng dựa trên tác động tiền mặt của món hàng đó.

Trong ví dụ này, không nhận được tiền mặt nhưng doanh thu $500 đã được ghi nhận. Do đó, thu nhập ròng đã bị cường điệu bởi số tiền này trên cơ sở tiền mặt.

Phần bù được đặt trong chi tiết tài khoản phải thu trên bảng cân đối kế toán. Cần phải có một sự giảm trong thu nhập ròng trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ với số tiền tăng $500 vào các khoản phải thu do bán hàng này. Nó sẽ được hiển thị dưới dạng "Tăng khoản phải thu".

Phương pháp trực tiếp so với Phương pháp gián tiếp trong tính toán dòng tiền

Mặc dù tổng tiền mặt được tạo ra từ các hoạt động kinh doanh là như nhau theo phương pháp trực tiếp và gián tiếp, nhưng thông tin được trình bày theo định dạng khác nhau.

Theo phương pháp trực tiếp, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh được trình bày dưới dạng dòng tiền ra và dòng tiền vào thực tế trên cơ sở tiền mặt, mà không lấy từ thu nhập ròng theo cơ sở kế toán dồn tích.

Các phần dòng tiền từ hoạt động đầu tư và dòng tiền từ hoạt động tài chính của báo cáo lưu chuyển tiền tệ lại giống nhau theo cả phương pháp gián tiếp và trực tiếp.

Nhiều kế toán viên thích phương pháp gián tiếp trong tính toán dòng tiền vì nó đơn giản để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bằng cách sử dụng thông tin từ hai báo cáo tài chính là báo cáo thu nhập và bảng cân đối kế toán.

Hầu hết các công ty sử dụng phương pháp kế toán dồn tích, vì vậy báo cáo thu nhập và bảng cân đối kế toán sẽ có số liệu phù hợp với phương pháp này.

Tuy nhiên, Ủy ban Chuẩn mực Kế toán Tài chính [FASB] của Mỹ lại ưu tiên các công ty sử dụng phương pháp trực tiếp trong tính toán dòng tiền vì nó cung cấp một bức tranh rõ ràng hơn về dòng tiền vào và ra khỏi một doanh nghiệp.

Nhưng nếu phương pháp trực tiếp được sử dụng, kế toán viên vẫn nên thực hiện đối chiếu báo cáo lưu chuyển tiền tệ với bảng cân đối kế toán để đảm bảo.

[Theo Investopedia và Điều 114 Thông tư 200/2014/TT-BTC Hướng dẫn lập và trình bày Báo cáo lưu chuyển tiền tệ]

Minh Hằng

Video liên quan

Chủ Đề