Con ngan 1 ngày tuổi có cân nặng bao nhiêu năm 2024

Ngan cỏ [hay còn gọi là ngan dé hoặc ngan nội hay ngan ta] là giống ngan nhà nội địa của Việt Nam. Chúng cũng có nguồn gốc xa xưa từ Nam Mỹ được nhập nội vào Việt Nam từ lâu, được nuôi nhiều ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, chúng là nguyên liệu cho món miến ngan, bún ngan đặc sản. Trong văn hóa, hình ảnh chú ngan được tái hiện sinh động và vui nhộn qua tác phẩm văn học thiếu nhi mang tên "Cuộc phiêu lưu của Văn Ngan tướng công" của nhà văn Vũ Tú Nam.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc điểm của ngan là đầu to, trán phẳng nhiều lông. Con đực thường to lớn, có phần mào phát triển, đỏ sặc sỡ. Con cái mào nhạt hơn, cổ ngắn, thân hình dài, lưng rộng, ngực nở, cánh phát triển, chân ngắn dáng đi nặng nề. Nuôi lấy thịt 4 tháng đạt 4 kg, nuôi lấy trứng năng suất thấp 60-70 quả/mái/năm. Chúng có lông mượt, tầm vóc to. Trưởng thành nặng 3–4 kg [con trống], 2–3 kg [con mái]. Giống ngan này có nhiều dòng, có nhiều màu lông khác nhau: Xiêm trắng, Xiêm đen, Xiêm xám. Nông dân thường thích nuôi ngan trắng hơn ngan đen, vì nó có sức đề kháng cao hơn, bắt mồi trên cạn giỏi, ăn tạp và ăn được nhiều chất xơ.

Ngan cỏ bạo dạn hơn so với các loại gia cầm khác, do vậy chúng thích hợp với việc vỗ béo. Chúng dễ nuôi, mau lớn, thịt ngon, cơ đỏ ít mỡ. Ngan trống thường dữ tợn hơn ngan mái. Ngan đi lại chậm chạp, có cái đầu gật gù theo nhịp đi nên dễ dàng phân biệt với vịt ngay từ xa. Tính hợp đàn kém các loại vịt khác. Do ngan nội có tính đòi ấp cao nên sản lượng trứng rất thấp. Ngan dé hay vịt dé là loại ngan vịt bé hơn so với vịt ngan nuôi cám công nghiệp, thịt chắc hơn.

Thịt ngan cỏ chọn dễ hơn thịt vịt, thịt thơm và khi vặt lông cũng dễ hơn vịt, [vịt nhiều lông tơ nên vặt rất khó], thịt ngan ít bị hôi. Một con khoảng trên dưới 2 kg, nếu quá 3,4 kg là ngan nuôi, bụng toàn mỡ, da dầy. Khi chọn ngan thì trước hết xem đầu, xem đầu con ngan nào nhỏ nhất, đầu nhỏ là ngan nuôi thóc, chân mỏ trông màu phải màu tươi, màu úa hoặc thâm thâm là ngan yếu, độ dày thịt của ngan thì nâng hai đôi cánh lên, dùng ngón cái và ngón trỏ bóp bóp phần xương lưng, nếu thấy không giơ xương ra nghĩa là ngan nhiều thịt, chắc thịt.

Các chủng[sửa | sửa mã nguồn]

Có ba loại màu lông: trắng [ngan Ré], loang trắng đen [ngan Sen] và màu đen [ngan Trâu].

  • Ngan trắng hay ngan Ré là loại nuôi khá phổ biến ở Việt Nam, chúng có đặc điểm lông màu trắng tuyền, tầm vóc trung bình, lúc 4 tháng tuổi Còn mái nặng 1,7-1,75 kg, con trống nặng 2,85-2,90 kg. Sản lượng trứng đạt 69-70 quả/năm; tỷ lệ phối và tỷ lệ nở cao. Đây là giống ngan chịu kham khổ, kiếm mồi tốt, đẻ trứng khá, khả năng chống đỡ bệnh tật tốt, thường hay nuôi thành từng vùng như Gia Lâm [Hà Nội], Châu Giang [Hải Dương]. Chúng có khối lượng lúc 4 tháng tuổi con mái 1,7 - 1,8 kg/con, con đực 2,8 - 2,9 kg/con. Ngan Dé chỉ đẻ được từ 36- 42 trứng/năm
  • Ngan loang đen trắng hay còn gọi là ngan Sen có bộ lông màu loang đen trắng, tầm vóc to, lúc 4 tháng tuổi con mái nămg 1,7-1,8 kg, con trống nặng 2,9-3,0 kg. Sản lượng trứng đạt 65-66 quả/năm; tỷ lệ phôi và tỷ lệ nở cao, ngan mái ấp và nuôi con khéo. Ngan loang nuôi rộng rãi khắp nơi. Chúng có khối lượng lúc 4 tháng tuổi, con mái 1,7-1,8 kg/con, con đực 2,9-3,0 kg/con.
  • Ngan đen hay gọi là ngan trâu: Ngan đen còn rất ít, không được nuôi rộng rãi, vì hầu hết đã bị pha tạp. Giống ngan này toàn thân màu đen tuyền, có tầm vóc to, thô, dáng đi nặng nề, tỷ lệ phôi thấp, nuôi con vụng, chúng có tầm vóc to, thô, dáng đi nặng nề. Sau 5 tháng ngan bắt đầu đẻ, một năm đẻ 3-5 lứa, năng suất trứng 50-75 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 65-67 g/quả. Ngan Trâu còn đẻ trứng thấp hơn: 26-36 quả/năm.

Phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

Khối lượng sơ sinh của ngan đực và mái là bằng nhau, nhưng càng nuôi thì tốc độ sinh trưởng càng khác nhau rõ rệt. Tốc độ sinh trưởng của ngan mái cao ở giai đoạn 2-7 tuần tuổi, còn ngan đực từ 2-8 tuần tuổi. Trong giai đoạn này ngan nội có thể tăng tới 200 gram mỗi tuần, nếu là con mái và tăng tới 400 gram mỗi tuần nếu là con đực. Để sản xuất thịt, người ta chú ý sự phát triển của cơ lườn và cơ đùi. Ở tuần tuổi thứ chín, tốc độ sinh trưởng có giảm đi nhưng vẫn phải đợi đến 11 hoặc 12 tuần để đảm bảo cho cơ lườn phát triển đầy đủ. Ngan mái có thể giết lúc 11 tuần và ngan đực lúc 12 tuần, vì đến 12 tuần ngan đực mới có lông cánh hoàn chỉnh và không có tuỷ trong ống lông nữa. Tỉ lệ thịt ức lúc này khoảng 14-15% khối lượng sống, thịt đùi khoảng 15%.

Giống ngan NTP do Trung tâm Nghiên cứu Gia cầm Thụy Phương [Viện Chăn nuôi Quốc gia] nghiên cứu, lai tạo và cung cấp con giống. Đây là loại thủy cầm được thừa hưởng gen ưu việt từ giống ngan Pháp R41 và ngan trâu của Việt Nam, có sức đề kháng tốt, tốc độ sinh trưởng nhanh, năng suất cao, thịt thơm ngon, đang được nhiều cơ sở chăn nuôi ưa chuộng, mở rộng sản xuất. Các đơn vị có thể tham khảo và áp dụng để đa dạng sản phẩm chăn nuôi, góp phần nâng cao hiệu quả tăng gia sản xuất của đơn vị.

Đặc điểm ngoại hình giống ngan đen: Trán phẳng, nhiều lông, đầu to, mào phát triển, con cái có mào đỏ sặc sỡ, con đực mào nhạt hơn; cổ ngắn, thân dài, lưng rộng, ngực nở, cánh phát triển, lông mượt, chân ngắn, dáng đi nặng nề. Trọng lượng cơ thể lớn, nếu chăm sóc tốt, sau ٤ tháng tuổi, con trống có thể đạt từ 5,5 - 6kg, tối đa có thể lên tới 7kg, tỷ lệ nuôi sống từ 96-98%. Có thể nuôi nhốt hoặc bán chăn thả, thích ứng với nhiều vùng khí hậu khác nhau.

Chuồng trại và thiết bị chăn nuôi

Chuồng trại: Được xây dựng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ngan, bố trí nơi cao ráo, sạch sẽ, thoáng mát, có đủ thiết bị, dụng cụ chăm sóc, vệ sinh phòng dịch. Chuồng nuôi được thiết kế theo kiểu mở, không xây bịt kín xung quanh, có sân chơi. Tường xây cao từ 0,5 - 1 [m] bằng gạch, trên sử dụng khung lưới B40 để tạo độ thoáng. Có thể sử dụng vải bạt, cót ép, phên liếp, thiết kế cơ động quây xung quanh chuồng để giữ nhiệt, tránh gió lùa trong mùa đông hoặc khi mưa bão, nhất là giai đoạn ngan còn nhỏ. Mái chuồng có thể lợp bằng tấm fibro xi măng, ngói…có độ dốc khoảng 30°, thoát nước tốt. Nền chuồng làm bằng bê tông hoặc lát gạch có độ dốc từ 7-10° để thuận tiện khi dọn vệ sinh, tẩy uế…

Diện tích sân chơi bằng 1,5-2 lần diện tích nền chuồng, có mương nước, ao hồ hoặc xây bể nước có độ sâu từ 20-25 [cm], hằng ngày thay nước để ngan tắm, làm sạch lông.

Máng ăn: Làm bằng tôn, kích thước 60 x30 x2,5* [cm], đáp ứng nhu cầu cho 20-30 ngan con/khay. Khi ngan được 2 tuần tuổi, cho ăn bằng máng có kích thước 70 x 50 x 5 [cm] đảm bảo đủ cho 20-30 con/khay hoặc dùng máng nhựa, cao su.

Máng uống: Giai đoạn từ 1-2 tuần tuổi, sử dụng máng uống tròn loại 2 lít; từ 3 tuần tuổi, dùng máng uống tròn loại 5 lít, đảm bảo cho 25-30 ngan/máng, cung cấp từ 0,3-0,5lít nước/con/ngày. Ngoài ra, có thể sử dụng thêm máng nhựa, máng tôn, chậu nhựa có kích thước phù hợp với độ tuổi của ngan.

Chụp sưởi: Dùng hệ thống lò sưởi hoặc bóng điện với công suất phù hợp để duy trì nhiệt độ môi trường khi ngan con giai đoạn nuôi úm. Có thể dùng bóng điện 100W/1 quây [60-70 con]. Mùa đông dùng 2-3 bóng/quây úm [70 con].

Quây úm ngan con có thể dùng cót ép, chiều cao 0,5 - 0,6m; chiều dài 4-4,5m, sử dụng cho 70-80 con/quây. Khi ngan được 7 ngày tuổi thì nới dần diện tích quây, đến 14 ngày tuổi bỏ quây để ngan tự do vận động, ăn uống.

Mật độ nuôi và chế độ nuôi dưỡng

Có thể sử dụng thức ăn sẵn có ở đơn vị, địa phương để nuôi ngan, nhưng trong 4 tuần đầu nên sử dụng thức ăn công nghiệp hỗn hợp hoàn chỉnh để đảm bảo đủ dinh dưỡng cho ngan con. Chú ý: Khi vừa nhập ngan con về nuôi, cần để cho nhịn ăn vài giờ, pha nước sạch với B-complex, vitamin [hoặc thuốc úm] cho uống, sau đó mới cho ăn. Cho uống liên tục trong 3-5 ngày.

Phòng bệnh

Nuôi ngan thịt, tiêm phòng 3 loại vắc-xin chính: 3 ngày tuổi tiêm vắc-xin viêm gan siêu vi trùng, sau 1 tháng tiêm nhắc lại lần 2; 7 ngày tuổi tiêm vắc-xin dịch tả vịt, sau 1 tháng tiêm nhắc lại lần 2; 35 ngày tuổi tiêm vắc-xin tụ huyết trùng. Chú ý tiêm phòng khi ngan khỏe mạnh, không có dấu hiệu của bệnh. Sau mỗi lần tiêm vắc xin cần hòa vitamin, điện giải cho uống từ 3-5 ngày.

Thu hoạch

Để đạt hiệu quả cao nhất, nên thu hoạch ở 3-3,5 tháng tuổi, nếu nuôi thêm, ngan vẫn tiếp tục tăng trưởng nhưng tốc độ chậm, lượng thức ăn tiêu tốn lớn, giảm hiệu quả kinh tế.

Chủ Đề