Con người thước đo của vạn vật thuộc trường phái triết học nào

[Last Updated On: 11/02/2022]

Trong triết học học Hy lạp cổ đại, quan niệm duy vật chất phác, ngây thơ đã coi con người là tiểu vũ trụ thu nhỏ, rằng “con người là thước đo của vũ trụ” [Prôtago], hoặc “con người là bậc thang cao nhất của vũ trụ” [Arixtốt]. Ngược lại, theo quan niệm duy tâm khách quan của Platôn thì con người chỉ là ảo ảnh của thế giới “ý niệm”, v.v… Tuy nhiên, triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu đã có sự phân biệt con người với giới tự nhiên, nhưng cũng chỉ là sự hiểu biết bên ngoài của con người.

Triết học thời kỳ trung cổ coi con người là sản phẩm của Thượng đế và đã quy đặc trưng bản chất con người là một thực thể thuần túy – thực thể tinh thần. Bởi, theo họ bản chất con người do sự quyết định của các lực lượng siêu nhiên hay chính tư tưởng, ý thức, v.v…

Triết học thời kỳ phục hưng – cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong những yếu tố quan trọng, nhằm giải thóat con người khỏi sự nô dịch của thần quyền tôn giáo thời trung cổ, đề cao tư tưởng giải phóng con người, nhưng con người cũng chỉ nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ mặt xã hội và cũng chưa nhận thức đầy đủ bản chất chất con người trong mối quan hệ giữa mặt sinh học và xã hội.

Trong triết học cổ điển Đức, Hêghen đã nghiên cứu bản chất con người thông qua quá trình tư duy và khái quát các quy luật cơ bản của quá trình đó, được trình bày có tính chất hệ thống, để khẳng định vai trò chủ thể của con người đối với lịch sử, đồng thời kết quả của sự phát triển lịch sử. Nhưng, Hêghen lại coi “ý niệm tuyệt đối” giữ vai trò quyết định đối với con người. Như vậy, về thực chất Hêghen coi con người là sản phẩm thuần túy của “ý niệm tuyệt đối”.

Quan niệm duy vật của Phoiơbắc đã vượt qua những hạn chế của Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con người một cách đích thực. Nhưng, khi phê phán quan điểm duy tâm của Hêghen thì Phơbách đã mắc phải sai lầm khi ông tuyệt đối hóa mặt sinh học của con người hoặc tách con người ra khỏi quan hệ hiện thực của xã hội hoặc ông quy bản chất con người vào tính tộc loại mà đặc trưng của nó là tình cảm đạo đức, tôn giáo và tình yêu. Mặc dù, ông khẳng định con người là sản phẩm phát triển của tự nhiên và con người với tự nhiên là thống nhất, v.v…

Như vậy, trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, cơ bản là những quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù, triết học duy vật trước Mác coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ cũng không vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Bởi vì, họ đã quy đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của thực tiễn xã hội.

Trong hệ thống thế giới quan tôn giáo coi con người như một thực thể nhị nguyên, là sự kết hợp tinh thần và thể xác. Trong đó linh hồn của con người tồn tại một cách vĩnh cửu và mang tính tuyệt đối. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn đạt được những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó cũng chính là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người trong triết học Mácxít.

HomechemgioNgười là thước đo của vạn vật.

Học giả nổi tiếng Protagoras có câu danh ngôn: “Người là thước đo của vạn vật, là thước đo tồn tại của sự vật tồn tại, cũng là thước đo không tồn tại của sự vật không tồn tại".

Vì sao “người là thước đo của vạn vật” mà không phải “vạn vật là thước đo của con người”? Protagoras giải thích nói: Một làn gió mát phớt qua mặt, đối với người cảm thấy lạnh mà xét thì là lạnh, đối với người cảm thấy không lạnh là là không lạnh. Một loại thức ăn nào đó, đối với người cảm thấy ăn ngon là thức ăn ngon, đối với người cảm thấy không ngon thì là thứ chán ngấy. Cho nên, vật cũng chỉ là vật, nó tốt xấu, khá kém đều là do con người định ra. Còn người dựa theo cảm giác của mình đưa ra phán đoán, cái đó sẽ gọi là “người là thước đo của vạn vật”.

Vì sao các môn đệ của Thiên Lương phái [môn Tử Vi] bị ném đá ầm ầm, luận số chém gió thì cứ 3 vòng thái tuế, trường sinh, lộc tồn mà bật, thậm chí bỏ lơ cả chính tinh tứ hóa, thế mà vẫn nhiều người nghe, nhiều người tin, nhiều người thấy đúng, và vẫn tồn tại trên giang hồ vững vàng qua bao nhiêu năm.

Vì tử vi của phái Thiên Lương có triết lý nhân sinh quan rất cao, đưa ra góc nhìn của bản thân mỗi người, chứ không phải là góc nhìn của xã hội.

Sự việc, hiện tượng có thể không thay đổi theo thời gian. Nhưng góc nhìn của ta, lại có thể thay đổi theo thời gian. Sự thay đổi góc nhìn, dẫn đến mình cảm thấy nó tốt, xấu khác nhau.

1. Một cô sinh viên đậu học viện Ngân Hàng cách đây 5 năm. Lúc đậu, cô cực sung sướng vì vào ngành hot. Cha mẹ họ hàng đều tự hào, vui mừng. Đó là tốt.

Sau đó là quá trình học, và phát hiện ra dần dần ngành Ngân Hàng bắt đầu hết hot, cô ta bắt đầu chán nản, thấy rằng mình thật ngu ngốc khi chọn trường này, học hành bớt hứng thú. Cha mẹ cũng đau đầu : “ra trường sao xin việc”.

Sau đó may sao, tốt nghiệp, lại đúng đợt Ngân Hàng tuyển, cô ta trúng tuyển, lại thấy yêu đời, thấy sự nghiệp may mắn thuận lợi. Cuộc đời vẫn đẹp sao.

Nhưng sau khi làm 1 năm, lại lẹt đẹt với công việc, áp lực, làm đúng chuyên ngành nhưng không vui chút nào. Lại chán nản.

Lấy 1 tiến trình ngắn khoảng 6-7 năm, góc nhìn của cô ta sẽ thay đổi vài lần. Trong giai đoạn đó, nếu đi xem bói, thầy bói cũng sẽ chết khổ vì cô ta. Về bản chất, con đường sự nghiệp của cô ta thay đổi không quá nhiều, không có gì quá biến động, không lên voi xuống chó. Cái thay đổi nhiều, chỉ là góc nhìn của cô ta mà thôi.

2. Một anh chàng học ĐH Bách Khoa, học đến giữa chừng phát hiện ra mình không thích Bách Khoa, mình mê kinh doanh, nhưng đã muộn. Anh ta cố học xong Bách Khoa, nhưng ra trường thất nghiệp, chán nản.

Cố gắng tìm việc đúng chuyên ngành, tìm được việc, anh ta vui mừng.

Nhưng làm 1 thời gian, lại chán nản, vì thấy không hợp.

Cố gắng bám trụ, sau đó chuyển hướng sang kinh doanh, kinh doanh trên lĩnh vực kĩ thuật. Và thấy hợp.

Dưới góc nhìn của người ngoài cuộc, anh ta chẳng có gì xấu, chẳng có gì biến đổi nhiều. Anh ta đậu ĐH, học đủ tốt nghiệp, ra trường có việc, làm việc mức lương nào đó, sau đó chuyển hướng kinh doanh. Dưới góc nhìn của xã hội, anh ta được xem là ổn định, đều đều, tốt đẹp, chẳng có lúc nào bất ổn.

Nhưng dưới góc nhìn của anh ta, thì cái giai đoạn từ lúc học ĐH đến lúc chuyển hướng kinh doanh, sẽ có những lúc bế tắc cùng cực, những lúc phải cố gắng học và làm việc mình không thích, những lúc phải đấu tranh, đắn đo hướng đi cho riêng mình. Và cảm thấy thoải mái, cho dù vất vả hơn, thu nhập thấp hơn.

3. Một cậu công tử nhà giàu, sinh ra sung sướng, muốn gì được nấy, cha mẹ lo cho tận răng, học xong chỉ việc đi làm. Thiên hạ nhìn vào thì ….

Nhưng trong lòng anh ta, có thể ẩn chứa rất nhiều rắc rối. Nào là vì sao mình không được tự do. Vì sao mình không giỏi như người ta để kế thừa sự nghiệp. Vì sao mình không có động lực. Vì sao mình phải làm công việc nhàm chán này. Và vì sao nhà mình không giàu như mấy nhà siêu đại gia kia, để ôm Ngọc Trinh, để lái siêu xe. Nhìn mấy siêu đại gia kia mà phát thèm.

Kết Luận: Những người xung quanh bạn, đôi khi không như bạn quan sát. Đừng so sánh với họ.

Và cuộc sống của chính bạn, cũng đôi khi không như bạn cảm nhận.

Hãy cố gắng có con mắt khách quan nhất để nhìn nhận sự việc. Để biết rõ mình đang ở đâu. Để không đắc thắng khi được thành tích nhỏ. Mà cũng để không sụp đổ khi gặp tai họa chưa lấy gì làm lớn.

Vì chặng đường còn dài, và chúng ta còn trẻ lắm các bạn ạ.

HomeTriết học của phái biện thuyết hay chủ nghĩa ngụy biện

Vào nửa sau thế kỷ V TCN trong bối cảnh hưng thịnh của nền dânchủ chủ nô triết học, lôgíc học và tu từ học được dịp phát triển, dần dần chiếm ưu thế trong hệ thống giáo dục của xã hội. Lúc ấy tại Aten và một số thị quốc khác xuất hiện nghề “dạy tư duy”, dạy cách diễn đạt, gọi là nghề biện thuyết [từ nguyên Hy Lạp:sophistikè], và một loại người - các nhà biện thuyết [từ nguyên Hy lạp: sophistès]. Đối với họ chân lý khách quan không quan trọng bằng chiến thắng đối thủ trong tranh cãi. 

Các nhà biện thuyết có nhiều đóng góp cho khoa học ngôn ngữ, nhất là tu từ học. Họ làm sâu sắc thêm thái độ có tính phê phán đối với mọi tri thức và kiến giải, chống lại những quan điểm thiếu tính chân thực, phê phán cả những cơ sở của nền văn minh. Lần đầu tiên cá nhân trở thành quan tòa phán xét mọi thứ. 

Có thể gọi các nhà biện thuyết là những nhà khai sáng cổ đại. Họ không chỉ làm sâu sắc thêm các học thuyết của quá khứ, mà hơn thế nữa, đã đại chúng hóa tri thức, truyền bá cho các công dân những gì mà khoa học và triết học thời ấy tích lũy. 

Các nhà biện thuyết hầu như không quan tâm đến thế giới bên ngoài, giới tự nhiên, mà chỉ chú trọng nhân tố con người, chủ thể tư duy, dùng chủ nghĩa tương đối [relativism] để giải thích những vấn đề thế giới quan, nhận thức luận, đạo đức, xã hội. Chân lý, theo họ, có tính chất tương đối, vì lệ thuộc vào ngoại cẢnh, thời gian, đặc biệt là con người. Tuy nhiên, do quá thiên về trò chơi trí tuệ, tuyệt đối hóa năng chủ quan của con người mà sau này sophistikè bị phê phán như một học thuyết cố tâm bảo vệ và biện minh những điều lạ lùng, ngược đời, nghĩa là một học thuyết mang tính nguỵ biện. 

Người sáng lập phái biện thuyết là Prôtago [Protagoras, 480 - 410 TCN], sinh tại Apđerơ, đồng hương với Đêmôcrít. Ông là thầy dạy chuyên nghiệp môn tu từ học và thuật tranh biện. Ông không ở cố định một nơi nào, mà lang thang khắp Hy Lạp, hay trên đường phố Aten, từng bị kết án tử hình do thái độ hoài nghi đối với tôn giáo và trật tự hiện hành, sau được tha, bị trục xuất trục xuất ra khỏi Aten nhờ sự can thiệp của Pêriclét, nhưng bị chết đối trên đường từ Nam Ý sang Xixin. Tư tưởng của Prôtago khác hẳn bản thể luận truyền thống. Ông cũng cho rằng các hành chất là nguyên nhân đầu tiên của vạn vật, nhưng không phải thực tại khách quan, mà tính biến đổi mới là thuộc tính của nó. Nói cách khác, ông lý giải bản nguyên không từ kết cấu, mà tử bản chất của nó. Chính tính biến đổi, hay “tuôn chảy” của vạn vật đã đẫn Prôtago đến nhận định rằng nếu trong sự vật tồn tại hai mặt đối lập nhau, thì trong con người có thể tồn tại hai ý kiến trái ngược nhau về sự vật, và “cả hai đều đúng”. Trong trường hợp đó sức mạnh của phán quyết phụ thuộc nhiều vào nghệ thuật biến hóa ngôn từ. Trong Những ngôn từ lật đổ Prôtago viết:”Con người - thước đo của vạn vật”. Luận điểm chủ đạo đó hàm chứa ý nghĩa nhân văn sâu xa. Tạm bỏ qua những yếu tố cực đoan, có thể tìm thấy ở đây tinh thần đề cao tự do và năng lực cá nhân. Nếu con người là thước đo của vạn vật, thì thiết chế do con người xác lập là thước đo của sự công bằng. Là nạn nhân của nền dân chủ Aten, nhưng khác với Xôcrát, Prôtago vẫn xem dân chủ là hình thức nhà nước ưu việt nhất trong thế giới cổ đại, vì theo ông, nó mở ra khả năng đối thoại bình đẳng giữa các công dân và chính quyền. Prôtago vận dụng chủ nghĩa tương đối vào việc lý giải các chuẩn mực đạo đức và các quan hệ xã hội. Tiêu chuẩn của chân lý là lợi ích. Cái tốt và cái xấu, cái thiện và cái ác mang tính chất tương đối, vì phụ thuộc vào cách xem xét và đánh giá của mỗi cá nhân. Tôi chiến thắng, nghĩa là tôi đúng, chứ không phải tôi đúng, nên tôi chiến thắng. 

Đại biểu lớn thứ hai của phái biện thuyết là Goócgiát [Gorgias, 483 - 375 TCN], sinh tại Lêontium [Leontium], đảo Xixin. Nếu Prôtago thiên về vấn đề nhận thức, thì Goócgiát chú trọng đến bản thể luận, mặc dù bản thế luận của ông hết sức đặc biệt. Nếu trong chủ nghĩa tương đối Prôtago khẳng định “mọi thứ đều đúng”, thì Goócgiát lại tuyên bố “mọi thứ đều sai”, sử dụng các apôria của Dênông như con dao hai lưỡi, bác bỏ luận điểm nền tảng của trường phái Elê về chân lý và tồn tại. Quan điểm triết học của Goócgiát có thể tóm gọn trong một câu: “Không có gì tồn tại cả”. Các nhà triết học thuộc trường phái Elê khẳng định rằng cái gì được ta tư duy thì mới tồn tại, mọi ý tưởng luôn luôn là ý tưởng về cái đang tồn tại, còn cái không tồn tại trên thực tế [hư vô] thì không thể được tư duy như cái đang tồn tại. Nhưng Goócgiát bác bỏ từng luận điểm một của họ. Thứ nhất, không thể chứng minh “hư vô không tồn tại” vì bản thân từ “chứng minh” đã buộc phải thừa nhận “cái không - là”, nghĩa là hư vô. Thứ hai, không thể chứng minh “cái đang tồn tại thì tồn tại”, vì tồn tại, theo trường phái Elê, là không sinh không diệt, bất biến bất phân, nghĩa là không có khởi đầu, mà nếu không có khởi đầu thì vô hạn, mà nếu vô hạn thì không xác định được, mà nếu không xác định được thì hóa ra vật tồn tại không ở đâu cả, mà nếu không ở đâu cả thì nó không có [không tồn tại]. Tính chất nguỵ biện của cách lập luận trên đã quá rõ. Goócgiát đánh động khởi điểm thời gian với vị trí không gian, vị trí với tồn tại [không có vị trí là không có tồn tại]. 

Trình tự lập luận của Goócgiát đưa ông đến ba điểm chính:1] không có gì tồn tại cả;2] nếu có tồn tại thì cũng không nhận thức được; 3] nếu chúng ta biết được một cái gì đó tồn tại, thì cũng không giải thích nó đầy đủ cho người khác được. Sai lầm về lý luận của Goócgiát là ở chỗ tách rời tồn tại và ý thức, biểu tượng và lời nói, chủ thể cảm giác và đối tượng cảm giác. Tư tưởng triết học bị mất đi tính nghiêm túc vốn có của nó, hơn nữa rơi vào chủ nghĩa hoài nghi, bất khả tri. Cả Platôn và Arixtốt đều xem biện thuyết như trò lừa bịp, biến con người thành nô lệ của ngôn từ, dùng ba tất lưỡi bẽ cong chân lý. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ khác có thể thấy rằng chính các nhà biện thuyết thông qua sự triển khai tư tưởng của mình đã cho thấy sự huyền diệu của ngôn ngữ, sức mạnh của nghệ thuật hùng biện, một nghệ thuật rất cần trong ứng xử, giao tiếp, quan hệ công việc. 

Đọc và thảo luận TRIẾT HỌC KỲ THÚ trên Telegram

Video liên quan

Chủ Đề