13 219 KB 5 237
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 13 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
28 CHUYÊN MỤC VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC - NGHIÊN CỨU VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
LÊ VĂN TẤN Bài viết nhận diện về loại hình tác giả nhà Nho hành đạo – những tác giả chịu
ảnh hưởng hệ tư tưởng Nho giáo trong việc lập thân, lập chí trong xã hội Việt
Nam trong khoảng từ cuối thế kỷ XIII-XIX. Việc nhận diện loại hình tác giả này
được tiếp cận từ các góc độ: tiếp thu tư tưởng “tu thân”, “lập chí” của Nho giáo,
những ngả đường hành đạo và cảm hứng tư tưởng chủ đạo trong sáng tác thơ
văn.
1. GIỚI THUYẾT
Loại hình tác giả nhà Nho hành đạo là
những tác giả chịu ảnh hưởng hệ tư
tưởng Nho giáo trong việc lựa chọn
con đường hành đạo - nhập thế. Họ
lựa chọn và kiên định con đường khoa
cử với khát vọng kinh bang tế thế,
mang tài năng và tâm huyết cống hiến,
phục vụ triều đại, đất nước. Trong thời
bình hay thời loạn thì bản thân họ hầu
như không hề nao núng về lý tưởng tu
thân, lập chí của mình, dù ở mỗi cá
nhân cách thể hiện có khác nhau.
Hình thành vào khoảng cuối thế kỷ
XIII, đội ngũ tác giả nhà Nho hành đạo
Lê Văn Tấn. Tiến sĩ. Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam. nhanh chóng đóng vai trò quan trọng
đối với nền văn học từ đó cho đến hết
thế kỷ XIX. Trong số này có thể kể tới
những tên tuổi tiêu biểu như: Phạm
Sư Mạnh, Phạm Nhữ Dực, Nguyễn
Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Phùng Khắc
Khoan, Ninh Tốn, Ngô Thì Nhậm,
Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Đăng
Đạo, Phan Huy Ích, Lê Quang Định,
Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Hành,
Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Xuân Ôn,
Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích…
2. TỪ VIỆC TIẾP THU TƯ TƯỞNG
“TU THÂN”, “LẬP CHÍ” CỦA NHO
GIÁO
Tu thân là một khái niệm trọng yếu
trong hệ thống tư tưởng Nho giáo, đó
là phương pháp tự phản tỉnh nội tâm
và sửa mình theo một chuẩn mực đạo LÊ VĂN TẤN – LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO… đức sẵn có. Tu thân là dùng lý tính
kiểm soát, lắng nghe lòng mình mong
muốn, nhưng lại phải giữ vững đạo
trung thứ, để những gì mình mong
muốn không trái với những lễ nghi
phép tắc của xã hội và điều hòa quyền
lợi với mọi người. Nho giáo đề cao vấn
đề tu thân bởi thông qua đây, con
người có thể đạt đến một chuẩn mực
đạo đức được xã hội xác lập, đó là
“ngũ luân” ứng với “ngũ thường”, để
con người ứng xử thích đáng các mối
quan hệ xã hội. Cơ sở chính cho việc
tu dưỡng của mỗi người dưới góc nhìn
của Nho gia xuất phát từ nhân tính
luận nằm trong tổng thể vấn đề thiên nhân. Hơn nữa, việc tu thân còn có
mục đích chính trị, bởi nó không chỉ
nhằm làm cho lương tâm bản thân
trong sáng mà còn mở rộng ra ngoài
xã hội, giúp cho dân sửa trị, để cùng
có cái đức sáng bản nhiên hồn hậu.
Nho gia đề cao thái độ tự tu, phản tỉnh.
Sự phản tỉnh đòi hỏi phải được tiến
hành thường xuyên. Người quân tử
nhìn lại bản thân mình mỗi ngày trong
mối quan hệ với xung quanh, sao cho
không có việc gì sai, không có điều gì
thẹn. Nhận ra điều sai của mình thì
phải biết sửa mình, giữ tâm mình cho
chính, ý của mình cho thành. Người
quân tử phải ra sức “tự tân”, “khử kì
cựu nhiễm chi ô”, tức là phải luôn làm
mới cái đức của mình, tẩy trừ ô uế để
trở về cái thanh khiết bản nhiên. Tiếp
đó là “thân độc”, Nho gia chủ trương,
để công phu tu dưỡng đạt hiệu quả
cao nhất, con người ta phải luôn luôn
đặt mình trong tư thế thân độc, cẩn
trọng ngay ở chỗ chỉ mình mình biết, 29 chỉ mình mình hay. Có như thế, sự tự
tu mới là triệt để, mới không phải là đối
phó.
Bên cạnh tu thân là lập chí. Tuy không
được coi là một phạm trù trọng yếu
trong học thuyết Nho gia, nhưng chí lại
có một mối quan hệ mật thiết với các
phạm trù khác. Thực chất của việc lập
chí chính là lập tâm. Tâm ta chuyên
chú vào đó, cầu được điều đó nên
không biết chán, không biết mệt mỏi và
chăm chăm làm bằng được mục đích
đã đề ra. Nếu như tâm không để vào
mục đích thì ắt sẽ không có đủ trí dũng
mà hành động. Cuộc đời con người,
mọi hành động học tập tu dưỡng, đều
xoay quanh cái chí đó. Trong Luận
ngữ có ghi lại việc Khổng Tử cùng với
hai đệ tử của mình là Nhan Hồi và Tử
Lộ nói chuyện về chí của mình. Thông
qua việc nói lên chí hướng mà có thể
biết được mức độ của sự tu dưỡng
đến đâu. Trình Tử nói Tử Lộ mong
ước “xa mã, y khinh cừu, dữ bằng hữu
cộng, tế chi vô hám”[1] đó là “cầu
nhân”, Nhan Hồi mong ước “vô phạt
thiện, vô thi lao”[2] là “bất vi nhân”,
Khổng Tử mong ước “lão giả an chi,
bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi”[3]
là “an nhân”. Vì thế, qua ngôn chí,
quan chí sẽ biết được mục đích, quá
trình và mức độ của sự tu dưỡng.
Hầu như các Nho sĩ hành đạo nào,
trực tiếp hoặc gián tiếp [qua sáng tác]
đều thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng
Nho gia về tu thân, lập chí của mình.
Chẳng hạn, trong Đề ngôn chí thi tập,
Phùng Khắc Khoan viết: “Cái gọi là
thơ thì không phải là láu lưỡi trong
tiếng sáo, chơi chữ dưới ngòi bút thôi 30 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 [203] 2015 đâu mà là để ngâm vịnh tính tình, cảm
động mà phát ra chí ý nữa. Thế cho
nên nếu chí mà ở đạo đức thì tất là
phát ra lời lẽ hồn hậu, chí mà ở sự
nghiệp thì tất là nhả ra khí phách hào
hùng, chí rừng suối gò hang thì thích
giọng thơ liêu tịch, chí ở gió mây trăng
tuyết thì thích vẻ thơ thanh cao, chí ở
nỗi uất ức thì làm ra lời thơ ưu tư, chí
ở niềm thương thì làm ra điệu thơ ai
oán. Cứ xem thơ người xưa thì thấy
chí của người xưa vậy” [Phùng Khắc
Khoan cuộc đời thơ văn, tr. 211]. “Có thể đem tài học hoàn thành hai
chữ trung hiếu/ Há đâu thiếu mưu mô
giúp vào cuộc trị bình/ Từ xưa cái vinh
hoa hoàn toàn chỉ là một trò đùa/
Huân danh cốt là mãi mãi được ghi
vào đỉnh đồng bia đá” [Năm Ất Mùi,
1775 mừng Hi Doãn thi đỗ, Thơ văn
Ninh Tốn, tr. 208]. Trong thơ của mình, Nguyễn Trãi
nhiều lần nhắc đến tinh thần tự nhiệm: 3. ... ĐẾN NHỮNG NGẢ ĐƯỜNG
HÀNH ĐẠO - NHẬP THẾ Chữ học ngày xưa quên hết cả,
Chẳng quên có một chữ cương thường. Nhà Nho hành đạo xuất hiện trong
“những tình thế khác nhau của xã hội
nông thôn - cung đình cố hữu” [Trần
Đình Hượu, 1998, tr. 53]. Suốt đời họ
lấy mục đích tu thân, lập chí, học hành
khoa cử để có cơ hội hành đạo với
khát vọng trí quân trạch dân, tiên ưu
hậu lạc... Thông qua con đường khoa
cử hoặc tiến cử mà nhiều người trong
số họ đã giữ những vị trí quan trọng
trong bộ máy quan liêu của chính thể
đương thời. Có thể dẫn một số trường
hợp tiêu biểu như: [1] Phạm Sư Mạnh
[?-?]: người làng Hiệp Thạch, huyện
Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn [nay là
huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương],
đậu Thái học sinh [Tiến sĩ] đời Trần
Minh Tông và bắt đầu làm quan cho
nhà Trần vào năm 1323. Ông từng
được cử đi sứ Trung Quốc và trải qua
nhiều chức vụ quan trọng trong triều
đình; [2] Nguyễn Phi Khanh [?-1428]:
đậu tiến sĩ năm 1374 nhưng do
Thượng hoàng Trần Nghệ Tông cho [Thuật hứng, số 12, Nguyễn Trãi toàn
tập, tr. 423]
Bui có một niềm trung hiếu cũ,
Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh.
[Bảo kính cảnh giới, số 31, Nguyễn
Trãi toàn tập, tr. 449]
Một trường hợp khác: Ninh Tốn. Ông
mang trong mình hoài bão suốt một
đời là “Nam từ yếu tu tố hảo nam”
[Làm trai phải là chàng trai tốt] [Tự
thuật, bài 2, Thơ văn Ninh Tốn, tr. 49]
và “Nam từ chỉ yêu kỳ sự nghiệp”
[Làm trai cốt có sự nghiệp kỳ lạ] [Du
học kinh sư, bài 1, Thơ văn Ninh Tốn,
tr. 45]. Trong bài thơ mừng bạn bè
được đắc lộ, ông viết:
Năng tương tài học hoàn trung hiếu,
Khởi phạp mô du tán trị bình.
Tự cổ vinh hoa hồn hí cục,
Huân danh quản thủ đỉnh di minh.
[Ất Mùi khoa hạ Hi Doãn thị đăng đệ]. Có thể thấy các tác giả loại hình nhà
Nho hành đạo đã tiếp thu một cách
sâu sắc tư tưởng của Nho giáo và lý
tưởng đó đã được họ kiên trì thực hiện
trong suốt cuộc đời của mình. LÊ VĂN TẤN – LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO… ông xuất thân thấp hèn mà không bổ
dụng làm quan. Phải đợi tới triều Hồ
ông mới được cử làm Học sĩ Viện
Hàn lâm, sau được thăng dần lên đến
chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Khi
quân Minh kéo sang Đại Việt, Nguyễn
Phi Khanh bị giặc bắt đưa về Kim
Lăng và mất tại Trung Quốc vào năm
1428; [3] Nguyễn Trãi [1380- 1442]: là
con của Nguyễn Phi Khanh, gọi Tư đồ
Trần Nguyên Đán là ông ngoại. Ông
đỗ Thái học sinh dưới triều Hồ năm
1400. Sau ông làm mưu sĩ cho Lê Lợi
và góp phần to lớn vào sự thắng lợi
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lập
nên nhà Hậu Lê. Ông nhanh chóng
trở thành công thần khai quốc uy tín
của triều đại này. Sau nhiều thăng
trầm, dù đã từng về ở ẩn ở Côn Sơn
[Hải Dương] song khát vọng hành đạo
không bao giờ nguội lạnh. Năm 1442
nhận lời mời của vua Lê Thái Tông
ông hăm hở quay lại triều đình và rồi
phải nhận án chu di tam tộc đầy thảm
khốc; [4] Phùng Khắc Khoan [15281613]: đỗ đầu kỳ thi Hương ở Thanh
Hóa năm 29 tuổi [1557], Thái sư Trịnh
Kiểm biết ông là người có mưu lược,
có học thức uyên bác cho giữ chức Ký
lục ở ngự dinh, trông coi quân dân
bốn vệ, và cho tham dự việc cơ mật.
Sau này ông tiếp tục được trọng dụng
và làm quan qua ba triều vua Lê
Trung Tông, Lê Thế Tông và Lê Kính
Tông. Dưới triều vua Lê Kính Tông
ông từng được thăng đến chức
Thượng thư bộ Hộ, tước Mai Quận
công [1602]; [5] Ninh Tốn [17431795?]: làm quan dưới triều Lê - Trịnh
[1770-1797] và dưới triều Tây Sơn 31 [1788-1790]. Năm Canh Dần [1770],
lúc 27 tuổi, Ninh Tốn có đến chơi rồi
đề thơ ở núi Vân Lỗi [thuộc Thanh
Hóa]. Chúa Trịnh Sâm một lần ngự
chơi núi ấy, thấy bài thơ trên, liền mến
tài thơ mà triệu ông vào triều và giao
cho nhiều chức vụ. Năm Mậu Tuất
[1778], 35 tuổi ông đỗ Hội nguyên tiến
sĩ, tiếp tục thăng tiến trên con đường
hoạn lộ. Năm 1786, ông làm Hiệp trấn
ở Động Hải [thuộc huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình]. Khi quân Tây Sơn
đoạt thành Phú Xuân [1786], tiến
đánh ra các đồn Cát Thanh, Động Hải,
ông bỏ đồn mà chạy. Nhưng sau đó
vẫn được nhà Tây Sơn giao chức
Tham tri chính sự kiêm Bồi tụng cùng
với Ngô Trọng Khuê. Năm 1788, ông
được phong chức Hàn lâm trực học sĩ,
để cùng với Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn
Bá Lân, Nguyễn Du, Phan Huy Ích
giúp Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm
cai quản đất Bắc. Dưới thời nhà Lê
ông làm quan đến chức Hữu Thị lang,
tước Trường nguyên bá. Khi nhà Lê
mất, ông tiếp tục phục vụ nhà Tây
Sơn, giữ chức Thượng thư Bộ Binh,
tước hầu; [6] Ngô Thì Nhậm [17461803]: là sĩ phu nổi tiếng đương thời,
người có công đầu trong việc giúp
triều Tây Sơn đánh đuổi quân Thanh.
Ông xuất thân danh gia vọng tộc, là
con Ngô Thì Sĩ. Ông thi đỗ giải
nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ tam giáp
năm 1775. Sau khi đỗ đạt, ông được
bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều LêTrịnh, được chúa Trịnh Sâm rất quý
mến. Năm 1778 làm Đốc đồng Kinh
Bắc và Thái Nguyên. Năm 1788,
Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống 32 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 [203] 2015 lệnh “cầu hiền” tìm kiếm quan lại của
triều cũ. Ngô Thì Nhậm và một số
thân sĩ Bắc Hà khác lần lượt ra làm
quan cho nhà Tây Sơn. Sử cũ viết khi
được Thì Nhậm, Nguyễn Huệ mừng
mà rằng: “Thật là trời để dành ông cho
ta vậy”, và phong cho ông chức Tả thị
lang bộ Lại, sau lại thăng làm Thượng
thư bộ Lại - chức vụ cao cấp nhất
trong Lục bộ. Cuối năm Mậu Thân
[1788] khi 29 vạn quân Thanh kéo
sang Đại Việt. Ngô Thì Nhậm đã có kế
lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp
- Biện Sơn [Ninh Bình] góp phần làm
nên chiến thắng của nhà Tây Sơn.
Năm 1790, vua Quang Trung giao cho
Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ
thượng thư. Tuy làm ở bộ Binh,
nhưng Thì Nhậm chính là người chủ
trì các hoạt động ngoại giao với
Trung Hoa. Ông từng đứng đầu một
trong những sứ bộ ngoại giao sang
Trung Hoa… Sau khi Gia Long diệt
nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan
Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số
viên quan triều Tây Sơn bị triều đình
mới trừng trị bằng cách đánh roi tại
Văn Miếu năm 1803. Sau trận đòn đó,
ông qua đời; [7] Đoàn Nguyễn Tuấn
[1750-?]: là con Thám hoa Đoàn
Nguyễn Thục [1718-1775], đại thần
thời Lê Mạt, là con rể Tiến sĩ Nhữ
Đình Toản [1702-1773] và là anh vợ
thi hào Nguyễn Du [1765-1820]. Ông
thi đỗ Hương cống [Cử nhân] đời Lê
[vào khoảng đời Cảnh Hưng], nhưng
không ra làm quan. Khoảng 1786, ông
có tụ họp người làng bàn chuyện dấy
binh giúp Trịnh Bồng [ở ngôi chúa:
1786-1787], nhưng việc không thành. Cuối năm 1787, ông cùng Phan Huy
Ích, Ngô Thì Nhậm ra giúp nhà Tây
Sơn; ông được cử giữ chức Hàn lâm
trực học sĩ [1788]. Tháng 9 năm sau
[1789], ông được giao nhiệm vụ đón
tiếp sứ giả nhà Thanh sang phong
vương cho vua Quang Trung [ở ngôi:
1788-1792]. Năm 1790, ông cùng
Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, được cử
sang Trung Quốc triều kiến vua Càn
Long. Khi trở về nước, ông được
thăng làm Tả thị lang bộ Lại, tước Hải
Phái hầu. Sau khi vua Quang Trung
mất đột ngột [1792], ông tiếp tục giúp
vua Cảnh Thịnh [ở ngôi: 1792-1820]
cho đến khi triều đại Tây Sơn sụp
đổ…
Trên đây là những trường hợp tiêu
biểu nhất cho các thế hệ những nhà
Nho hành đạo - nhập thế có hoạn lộ
được coi là hanh thông. Ngoài ra còn
có nhiều nhà Nho khác, tuy hoạn lộ có
nhiều gập ghềnh, trắc trở song ở họ,
tư cách của một nhà Nho hành đạo
chính thống vẫn hết sức rõ rệt. Họ có
mặt suốt lịch sử gần 10 thế kỷ của văn
học trung đại và ở vào giai đoạn cuối
cùng, một lần nữa chúng ta lại thấy sự
vụt sáng của những cuộc đời với đại
diện là Nguyễn Đình Chiểu ở một
hướng và hướng kia với ba đại diện là
Nguyễn Thông, Nguyễn Xuân Ôn và
Nguyễn Quang Bích.
Trong quá trình thực thi lý luận của
Nho giáo, nhà Nho hành đạo cũng
từng bước nhận thấy sự bất cập của
giáo lý này. Họ bổ sung thêm cho
mình “những nguyên tắc, phương
pháp cai trị, thậm chí cả những thủ
đoạn của các học thuyết khác, mà chủ LÊ VĂN TẤN – LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO… 33 yếu là Pháp gia” [Trần Ngọc Vương,
1995, tr. 29]. Hầu hết Nho sĩ hành đạo
lại là những người không ngừng mơ
ước đến một xã hội đạo đức theo mô
hình “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu
Thuấn”. Do lý tưởng chính trị không
tưởng nên “hầu như rất hiếm những
nhà Nho hành đạo, cho dẫu hoạn lộ
hanh thông đến mấy, công khai bày tỏ
sự hài lòng với những thành đạt của
mình, ngược lại, liên tục xuất hiện
những người chán nản với thực tế cai
trị của triều đình, bày tỏ nguyện vọng,
và dấn thêm một bước nữa, là thực
sự cáo quan về ẩn dật” [Trần Ngọc
Vương, 1995, tr. 37]. Chính vì thế, có
một điểm gặp gỡ và giao thoa khá thú
vị là hầu hết Nho sĩ ẩn dật chính là
những người đã từng hành đạo. Vì
vậy, hai loại hình Nho sĩ này có nhiều
điểm tương đồng. sáng tạo hình thức để mô tả, tái hiện
thực tế. Đối với thực tế, nó thiên về
phẩm bình, tìm ý nghĩa đạo lý hơn là
băn khoăn tìm hiểu” [Trần Đình Hượu,
1998, tr. 32-33]. Từ quan niệm có tính
chất quan phương như vậy mà một bộ
phận lớn sáng tác của nhà Nho hành
đạo “xa rời với cuộc sống thực, ức
chế tình cảm thực, thiếu khát vọng,
thiếu tính chiến đấu, dễ trở nên nhạt
nhẽo, bằng phẳng” [Trần Ngọc Vương,
1995, tr. 54]. Nhưng ngay cả khi họ
thể hiện những đề tài - chủ đề có tính
quan phương như vậy thì vẫn có
những thi phẩm đặc sắc. Những thi
phẩm này cùng với phần lớn sáng tác
còn lại của nhà Nho hành đạo là
những tác phẩm giàu giá trị, cần được
tìm hiểu và nghiên cứu như một đối
tượng độc lập. Ở đây chúng tôi chỉ
bước đầu chỉ ra một số điểm nổi bật. 4. … VÀ NHỮNG CẢM HỨNG TƯ
TƯỞNG CHỦ ĐẠO TRONG VĂN
CHƯƠNG CỦA NHÀ NHO HÀNH
ĐẠO Nhà Nho hành đạo hướng cảm hứng
sáng tác vào các đề tài quân quốc,
cảm hứng lịch sử, thế sự, những hình
ảnh lý tưởng. Họ luôn luôn thể hiện
niềm mong mỏi, khao khát được xả
thân, cống hiến cho triều chính xã tắc,
noi gương tiền nhân để tu sửa ý nghĩ
và hành động. Những vấn đề như
niềm tự hào về giang sơn xã tắc, tự
hào về vua sáng tôi hiền, trời đất thái
bình, bờ cõi nơi nơi yên bóng thù, hay
chủ đề trung hiếu, quân thần, giáo hóa,
răn dạy đạo lý, những ưu tư thế sự,
nỗi khổ của nhân dân, những trăn trở,
day dứt của nhà Nho khi thế đạo suy
vi… luôn trở đi trở lại tạo thành dòng
chủ lưu trong cảm hứng sáng tác của
Nho sĩ hành đạo. Ví như Phạm Sư
Mạnh khi theo hầu vua Trần về Thiên Theo quan niệm của Nho giáo, văn
chương phải phù hợp với những tiêu
chuẩn đạo đức. Văn chương dùng để
nói chí, để chở đạo [“thi dĩ ngôn chí,
văn dĩ tải đạo”] nên “để bộc lộ tâm, chí,
thơ trở thành bộ phận lớn nhất, trữ
tình thành nét chủ đạo trong văn học.
Nhưng trữ tình không phải là bộc bạch
cái tôi cảm xúc mà bộc bạch cái ta
đạo lý [ngôn chí]. Vì nhằm mục đích
giáo hóa, văn học có chức năng
truyền đạt chứ không có chức năng
phát hiện, phản ánh, nhận thức. Nó
hướng về bắt chước, thể hiện Đạo
chứ không cố gắng về mặt tìm tòi, 34 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 [203] 2015 Trường, cảm khái tự hào về hình sông
thế núi, cơ nghiệp mở mang vững bền
muôn thuở mà viết: những dòng thơ mơ ước một ngày
được theo sau xe rồng để mang tài
năng phụng sự triều đại, xã tắc, với
mục đích cao cả là thái bình no ấm
cho dân trong bốn biển: Đông Kinh hình thắng củng thiên phù,
Cơ nghiệp hoằng khai vạn thế mô.
Thúy lãng ngọc hồng sơn thủy quốc,
Bích môn kim khuyết đế vương đô.
[Hộ giá Thiên Trường thư sự]
“Hình thế đẹp nơi Đông Kinh chầu về
nhà vua/ Cơ nghiệp mở rộng quy mô
muôn thuở/ Một miền sơn thủy sóng
xanh, cầu vồng ngọc/ Kinh đô đế
vương cửa biếc, khuyết vàng” [Ghi lại
việc hầu vua về Thiên Trường, Thơ
văn Lý - Trần, tập 3, 1978, tr. 88].
Chỗ khác, ông ngợi ca công đức của
vua đương triều nhân lễ đại xã cầu
mưa thuận gió hòa cho nhân dân sản
xuất. Qua lời thơ, người đọc sẽ thấy
được ở Phạm Sư Mạnh tấm lòng ưu
thời mẫn thế, luôn lo cho cơ nghiệp
của vua cũng như đời sống ấm no của
dân:
Thần tâm Nhị đế Tam vương cổ,
Văn thể Tiên Tần, Lưỡng Hán kỳ.
Trắc thính thị thần truyền nội chỉ,
Kỳ hòa đại xã định tân nghi.
[Xuân nhật ứng chế]
“Tấm lòng của vua như Nhị đế Tam
vương khi xưa/ Văn thể của Người kỳ
diệu như Tiên Tần, Lưỡng Hán/ Lắng
nghe thị thần truyền chiếu chỉ của nội
điện/ Định nghi thức mới cho lễ đại xã
cầu được mùa” [Ngày xuân họa thơ
vua, Thơ văn Lý - Trần, tập 3, 1978, tr.
91].
Nhà Nho Phạm Nhữ Dực nhân khai
trương nhà học mới, đã vung bút đề Trạch vật hữu tình thời xuất tụ,
Y thừa tại niệm thiết tùng long.
Nhật biên tảo vãn hành tuyên triệu,
Bái tác Thương lâm tứ hải đồng.
[Ngũ vân xí chiêm]
“Từ trong hang núi bay ra đượm
nhuần muôn vật/ Tấm lòng tha thiết
được theo sau xe rồng/ Sớm chiều
mong được với gọi đến bên nhà vua/
Làm trận mưa rào của nhà Thương
dội xuống tưới khắp cho dân bốn
biển” [Ngước trông năm mây, Thơ văn
Lý - Trần, tập 3, 1978, tr. 553].
Còn đây là cảm hứng vui mừng khôn
xiết của Nguyễn Phi Khanh khi triều
đại mới cho phép ông được phụng sự
và cống hiến cho dân, cho nước:
Thiên địa vị dung tư đạo xả,
Giang sơn khẳng ngoại thử thân cô.
Minh thời thảng hiệu hào phân bổ,
Vạn lý ninh từ ngã bộc phu.
[Khách lộ]
“Trời đất chưa nỡ để đạo này bị xóa
bỏ/ Non sông cũng chưa bỏ ra rìa tấm
thân cô đơn này/ Ví chăng có gắng
gỏi báo đáp được mảy may nào cho
đời thịnh/ Đường đi vạn dặm, dù thầy
tớ mệt nhoài, đâu dám từ nan”
[Đường khách, Thơ văn Lý - Trần, tập
3, 1978, tr. 437].
Khi phải lánh giặc trong núi, nghĩ về
sự may mắn tấm thân đã đành, nhưng
không lúc nào ông thôi nghĩ về xã tắc: LÊ VĂN TẤN – LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO… Mạn hữu thôn hoài lao cảnh cảnh,
Dạ y Ngưu Đẩu vọng trung nguyên.
[Tị khấu sơn trung]
“Dai dẳng một tấm lòng canh cánh lo
âu/ Đêm đêm theo sao Ngưu sao Đẩu
trông ngóng về trung nguyên” [Lánh
giặc trong núi, Thơ văn Lý - Trần, tập
3, 1978, tr. 381].
Đại thi hào Nguyễn Trãi là một gương
tiêu biểu về ấm lòng ưu thời mẫn thế,
lo cho dân, cho nước. Suốt một đời
hành đạo hăm hở, sục sôi, từ hành
động, việc làm đến sáng tác thơ văn
ông đều hướng về triều chính, về vị
vua anh minh, sự an nguy của xã tắc,
về hạnh phúc của muôn dân. Xuất
hiện chói sáng trong lịch sử trung đại,
trên phương diện loại hình nhân cách
nhà Nho, Nguyễn Trãi đã “đặt chân”
trên cả hai hướng: vừa hành đạo vừa
ẩn dật, vừa chính thống vừa phi chính
thống, vừa hướng vào trung tâm lại
vừa muốn li tâm. Điều đặc biệt là dù ở
chỗ nào, trên tư cách nào, thi hào
cũng đều có những đóng góp tiêu biểu.
Tuy thế, Nguyễn Trãi sẽ chỉ thực sự là
mình khi có điều kiện cháy hết mình
cho những khát vọng nhập thế. Trong
Ức Trai thi tập cũng như Quốc âm thi
tập, người đọc sẽ nhận thấy ở đó tinh
thần của ông:
Nhất phiến đơn tâm chân cống hỏa,
Thập niên thanh chức ngọc hồ băng.
[Mạn hứng, kỳ nhị, tr. 344]
“Một tấm lòng son, nóng hừng như
lửa lò luyện thuốc đơn/ Mười năm
chức rảnh, lòng như băng trong bầu
ngọc” [Hứng chơi, số 2, Nguyễn Trãi
toàn tập, 1976, tr. 344]. 35 Còn có một lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.
[Thuật hứng, số 23, Nguyễn Trãi toàn
tập, 1976, tr. 418].
Làm bậc ẩn sĩ giữa núi rừng Côn Sơn,
thi nhân vẫn cánh cánh mối lo tới việc
nước:
Nợ quân thân chưa báo được,
Hài hoa còn bợn dặm thanh vân.
[Ngôn chí, số 11, Nguyễn Trãi toàn
tập, 1976, tr. 399].
Phùng Khắc Khoan thì luôn luôn có ý
thức tu sửa mình, dù hoàn cảnh có
khắc nghiệt đến đâu cũng không khiến
ông sờn lòng nản chí. Một thời gian
dài ông tạm lánh nơi miền sơn dã để
chờ thời, nhưng ngay khi có điều kiện
hành đạo là ông lập tức ứng thí và
nhanh chóng trở thành một Nho sĩ
đóng góp cho triều đại mà ông lựa
chọn. Với ông, việc tôn kính bề trên và
chăm lo cho dân chúng là trách nhiệm,
cũng là sự nghiệp của nhà Nho:
Cổ lai chỉ kiến độc thư vinh,
Hữu chí tu tri sự cánh thành…
Tôn chủ tí dân Nho sự nghiệp,
Khẳng vi bạch diện nhất thư sinh.
[Khiển muộn, kì nhị]
“Xưa nay chỉ thấy có người học được
hiển vinh/ Nên biết rằng có chí ắt lập
nên sự nghiệp…/ Tôn chúa cứu dân là
sự nghiệp của nhà Nho ta/ Sao chịu
làm một anh học trò bạch diện thư
sinh mãi [Giải buồn, bài 2, Thơ văn
Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan,
2007].
Giúp đời, yêu dân, gánh vác những
công việc to lớn không còn là trách 36 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 [203] 2015 nhiệm mà như một nhu cầu tự thân
bên trong. Người đọc sẽ thấy ở ông
cái kiêu hãnh của một người ý thức về
tài năng, ý chí của mình: Nhân một lần đứng ở trên cao, Ngô
Thì Nhậm phóng tầm mắt ra ra, thấy
bốn bề phong cảnh nên thơ, cuộc
sống của nhân dân được chăm lo mà
trong lòng dâng trào niềm hạnh phúc: Hiên khoát minh đường vạn mã dung,
Đạo môn cao yết quýnh hồng trần…
Ngọc đường chỉ nhật đăng thanh yếu,
Tế thế khang dân chí khí hùng.
[Đề Hoằng Đạo thư đường]
“Thư đường sáng sủa rộng rãi này
dung được muôn ngựa/ Cửa đạo
được nêu cao, thật xa cách bụi
hồng…/ Chả mấy ngày nữa, trong
chốn cung đình/ ta sẽ được ngồi ở vị
trí quan trọng/ Giúp đời yên dân chí
khí thật là hào hùng mạnh mẽ” [Đề
vào thư đường Hoằng Đạo, Tổng tập
văn học Việt Nam, tập 6, tr. 838].
Ngô Thì Nhậm thì luôn luôn hăng hái,
xông xáo với việc nước, việc dân. Thơ
ông thể hiện một kẻ bề tôi cúc cung
tận tụy với triều đình, nhiệt huyết với
đời, say mê với những công việc
được giao. Ông luôn tin tưởng và lạc
quan vào con đường hành đạo mà
mình đã chọn:
Thu phòng vĩnh triệt vô tân sở,
Xuân noãn thiêm vinh hữu phiến cân.
Tuyên bố giáo thanh thần tử chức,
Nguyệt tương cam vũ nhuận sơn dân.
[Độ Nguyệt Đức giang]
“Việc thu phòng triệt bỏ, không còn gai
góc/ Mùa xuân ấm thêm tươi tốt, đã
có sự chở che/ Tuyên bố giáo hóa, là
chức phận tôi con/ Xin đem đám mưa
ngọt để tưới nhuần cho dân miền núi”
[Qua đò sông Nguyệt Đức, Tuyển tập
thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 1, 1978,
tr. 86]. Song hàm viễn kiệu thiên thu nguyệt,
Liêm quyển trường lưu vạn lý ba.
Tứ vọng khoát nhiên thư nhãn cảnh,
Bằng lan viễn viễn thính ngư ca.
[Giang lâu]
“Cửa sổ đượm trăng ngàn thu trên dải
núi xa/ Cuốn rèm nhìn sóng muôn
dặm trong dòng sông thẳm/ Trông bốn
bề khoáng đãng rộng tầm mắt/ Tựa
lan can, xa xa nghe tiếng hát chài”
[Lầu trên sông, Tuyển tập thơ văn
Ngô Thì Nhậm, quyển 1, 1978, tr. 169].
Dù trong hoàn cảnh nguy nan, khổ ải,
một khi đã nhận nhiệm vụ Ngô Thì
Nhậm đều dốc hết sức lực của mình
để hoàn thành. Nỗi buồn nếu có đến
thì cũng nhanh chóng tan biến để Nho
sĩ hướng về phía trước, dẫu biết ngày
mai còn nhiều đoạn trường:
Hành hữu phù trì nguy cánh ổn,
Phận đương xu phó lạc vong ưu.
Lâm sao hối kiến đông sơn bạch,
Khước thị thanh vân trình thượng tu.
[Sơn hành]
“Đi đường được sự phù trì, dù nguy
hiểm rồi cũng yên ổn/ Phận sự là thi
hành mệnh vua, nên vui quên cả nỗi
buồn/ Trên ngọn cây phía đông núi,
trời đã bừng sáng/ Biết rằng con
đường đi trên mây xanh vẫn còn dài”
[Đi đường núi, Tuyển tập thơ văn Ngô
Thì Nhậm, quyển 1, 1978, tr. 365].
Phan Huy Ích và Đoàn Nguyễn Tuấn
gần như đồng thời, cùng đắc lộ dưới LÊ VĂN TẤN – LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO… triều Tây Sơn. Trong di sản thơ văn
của hai ông, chúng ta đều bắt gặp
khát vọng hành đạo sôi sục, tinh thần
lạc quan về con đường lựa chọn, tinh
thần tự hào dân tộc và tự hào về triều
đại mà hai ông đang ra sức cống hiến.
Trong bài Trọng đông nhị thập thất
nhật tảo thần khắc thành hỷ tác [Sớm
ngày hai mươi bảy tháng mười một hạ
được thành vui mừng làm thơ], Đoàn
Nguyễn Tuấn ca ngợi hùng khí của
quân Nguyễn Huệ khi đánh đuổi được
giặc Thanh, giữ yên bờ cõi:
Nhất cổ anh khởi bách linh,
Lục sư khí tráng đạp trùng thành.
Thần nhân nộ trục lôi đình tiết,
Hôn ế nhân tùy hãng giới thanh.
Nhật lăng Vọng Đài lai hải sắc,
Xuân hồi giao xã động sơn thanh.
Bồi loan quí phạp Bình Hoài bút,
Chấn duệ trường ca phản ngọc kinh.
“Một hồi trống oai hùng khiến cả trăm
thần trỗi dậy/ Sáu quân khí thế mạnh
mẽ đạp băng lớp lớp thành trì/ Lòng
căm giận của thần và người toát ra
theo oai sấm sét/ Khí u ám của yêu
quái tan đi cùng làn sương mù/ Nắng
rạng trên vọng đài rộn màu biển cả/
Xuân về với đồng nội vang tiếng núi
non/ Theo hầu xe vua, thẹn mình thiếu
ngọn bút Bình Hoài/ Nên vung tay áo
hát bài Trở lại Ngọc Kinh” [Tổng tập
văn học Việt Nam, tập 9A, 1993, tr.
286].
Mùa thu năm Đinh Dậu [1777], dưới
triều Lê, khi được cử giữ chức Đốc
đồng ở Thanh Hóa, Phan Huy Ích đã
làm bài thơ thể hiện niềm vui mừng
khôn xiết khi được trọng dụng: 37 Tòng cung liêu xuất hiệp nhung tinh,
Cẩm tú giang sơn cự khách trình.
Kim tập thang trùng thiên tử ấp,
Binh cường mã tráng tướng quân doanh.
[Đinh Dậu thu xuất Đốc Thanh Hoa tại
trần tức sự]
“Xuất thân là quan trong cung đình ra
sức giúp việc quân/ Nay trên đường
cũ, giang sơn như gấm vóc/ Thành
đồng hào nóng giữ quê hương thiên
tử/ Binh mạnh ngựa tốt đóng doanh
trại tướng quân” [Mùa thu năm Đinh
Dậu [1777] giữ chức Đốc đồng ở
Thanh Hoa làm thơ tức sự tại trần, Thơ
văn Phan Huy Ích, tập 1, 1978, tr. 78].
Dưới triều Tây Sơn, một lần nữa Phan
Huy Ích được trọng dụng. Ông lại dốc
sức phụng sự cho triều đại mới. Mùa
thu năm 1794, nước sông lên to bất
thường, đê điều của dân nhiều nơi bị
sạt lở. Trấn Sơn Nam thượng cần đắp
22 đoạn đê mới, dài hơn 3000 trượng,
công việc rất lớn. Tháng 2/1795 có chỉ
truyền thu tiền ruộng để thuê nhân
công đắp. Phan Huy Ích được cử làm
tổng giám sát công việc này. Ông cảm
nhận được nỗi vất vả của dân chúng,
song điều đó phục vụ lợi ích chung
nên đã khen ngợi chính sách của vua:
Bang gia nông chính trọng hà phường,
Nam lộ công trình hệ giám đương.
Đê đạo trấp dư hưng bản trúc,
Điền tiền ngũ vạn kể phong cương.
San thù quân trạch dân lao mẫn,
Kiên trí hoàn công địa lợi trường.
Lịch thứ tuần hành tuyên thạc hoạch,
Yếu giao xứ xứ tụng cam đường.
[Xuân trung phụng giám đốc Sơn Nam
đê vụ kỷ sự]. This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan