Enterlac là thuốc gì

Nguyên nhân gây chứng đầy bụng, khó tiêu là do thừa acid dịch vị, do sự co bóp của dạ dày giảm, do tiêu hóa kém... Các yếu tố nguy cơ gây nên tình trạng này là lạm dụng chất kích thích, ăn uống không đúng cách, do nuốt nhiều không khí hoặc hệ tiêu hóa kém... Ngoài ra, đầy bụng, khó tiêu còn là triệu chứng của các bệnh hệ tiêu hóa như viêm loét dạ dày tá tràng, trào ngược dạ dày thực quản, ung thư dạ dày, do nhiễm vi khuẩn H.Pylori hay do dùng thuốc chữa bệnh... Vì vậy, tùy từng nguyên nhân gây đầy hơi, khó tiêu mà bác sĩ lựa chọn thuốc phù hợp. Các thuốc trị đầy bụng, khó tiêu bao gồm:

Thuốc làm giảm acid dạ dày

Các thuốc này được dùng khi bị chứng khó tiêu, đầy hơi do thừa acid dịch vị, bao gồm:

Thuốc kháng acid: Là những thuốc có tác dụng trung hòa acid trong dịch vị, có tác dụng tức thời nhưng ngắn và chỉ là thuốc điều trị triệu chứng. Thuốc kháng acid thường dùng là các chế phẩm chứa nhôm, magiê hoặc cả hai như maalox, phosphalugel... Thuốc có tác dụng kháng acid tại chỗ, hầu như không hấp thu vào máu, do đó ít gây tác dụng toàn thân.

Lưu ý, thuốc kháng acid chứa magiê gây nhuận tràng còn thuốc chứa nhôm lại gây táo bón. Vì vậy, các chế phẩm kháng acid chứa cả hai muối magiê và nhôm có thể làm giảm tác dụng không mong muốn trên ruột của hai thuốc này. Dùng thuốc kháng acid tốt nhất là sau bữa ăn 1-3 giờ và trước khi đi ngủ, dùng 3-4 lần [hoặc nhiều hơn] trong một ngày. Các chế phẩm dạng lỏng có hiệu quả hơn dạng rắn, tuy nhiên thời gian tác dụng ngắn hơn. Do làm tăng pH dạ dày, các thuốc kháng acid làm ảnh hưởng đến sự hấp thu của nhiều thuốc khác, do đó phải dùng các thuốc này cách xa thuốc kháng acid ít nhất 2 giờ.

Trào ngược dạ dày thực quản là một nguyên nhân gây đầy bụng khó tiêu

Các thuốc kháng histamin H2: cimetidin, ranitidin, famotidin, nizatidin... có tác dụng ức chế bài tiết acid [cả khi đói lẫn do kích thích bởi thức ăn, histamin, cafein, insulin...]. Trong những trường hợp rối loạn tiêu hóa [đầy bụng, khó tiêu, ợ nóng, ợ chua...] chưa chẩn đoán được nguyên nhân, có thể điều trị bằng kháng thụ thể H2 ở người trẻ, nhưng phải thận trọng ở người già vì có thể do ung thư dạ dày. Khi được bác sĩ kê đơn dùng loại thuốc nào trong nhóm này, người dùng cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng, đặc biệt phần cách uống thuốc và lưu ý về những bất lợi do thuốc gây ra để có thể phòng tránh, khắc phục. Trong các thuốc kháng thụ thể H2, cimetidin có nhiều tương tác với các thuốc khác do nó ức chế chuyển hóa thuốc qua con đường ôxy hóa ở gan, thường dẫn đến sự chậm thải trừ và tăng nồng độ của một số thuốc trong máu. Vì vậy phải tránh dùng cimetidin đồng thời với một số thuốc chuyển hóa qua con đường này. Ranitidin ít gây tương tác, trong khi famotidin và nizatidin không gây tương tác kiểu này.

Thuốc ức chế bơm proton [PPI]: omeprazol, lansoprazol, pantoprazol... có tác dụng ngăn chặn enzym trong thành dạ dày sản sinh acid, nên làm giảm acid dạ dày. Khi dùng thuốc này, một số tác dụng phụ của thuốc có thể xảy ra như đau đầu, buồn nôn, nôn, dị ứng da. Thuốc PPI cũng làm giảm khả năng hấp thu vitamin B12 của cơ thể gây ra nhiều vấn đề như rối loạn thị giác, thay đổi vị giác, trí nhớ giảm sút, tê cứng tay chân... Chỉ dùng thuốc ở liều lượng thấp để điều trị bệnh trong ngắn hạn. Người bệnh cần uống nguyên viên thuốc để giữ được toàn vẹn các dược chất trong thuốc không bị hòa tan khi gặp môi trường acid trong dạ dày. Thời điểm dùng thuốc tốt nhất là trước bữa ăn 30 phút. Như vậy thuốc sẽ có đủ thời gian để phát huy tác dụng ức chế tiết quá nhiều acid dạ dày khi chúng ta nạp thức ăn vào.

Thuốc giúp điều hòa sự co bóp dạ dày

Được dùng trong trường hợp sự co bóp dạ dày kém dẫn đến sự chuyển đẩy thức ăn từ dạ dày xuống ruột chậm gây đầy bụng, khó tiêu. Một số thuốc có thể dùng như metoclopramid, cisaprid... Khi dùng, thuốc có tác dụng kích thích, điều hòa, phục hồi lại nhu động đường tiêu hóa đã bị “ỳ”... do đó làm giảm triệu chứng bệnh. Tuy nhiên, thuốc có một số tác dụng không mong muốn như tiêu chảy, buồn ngủ, phản ứng ngoại tháp - loạn trương lực cơ cấp, mệt mỏi, yếu cơ [đối với metoclopramid], hay đau đầu, buồn nôn [đối với cisaprid]...

Thuốc hỗ trợ tiêu hóa

Được dùng trong trường hợp tiêu hóa thức ăn kém [do thiếu men tiêu hóa] gây đầy bụng, khó tiêu. Thường dùng các men như neopeptin, alipase, festal... để hỗ trợ sự tiêu hóa thức ăn ở dạ dày dễ dàng hơn.

Men tiêu hóa là một hỗn hợp các enzym khác nhau với công dụng chuyển hóa thức ăn chủ yếu là các chất đạm, đường, bột và chất béo. Mặc dù men tiêu hóa có tác dụng tốt trong các trường hợp trên, nhưng phải dùng đúng cách: Không dùng vào lúc dạ dày rỗng [lúc đói], sẽ gây kích ứng niêm mạc dạ dày, dẫn đến viêm loét dạ dày; không dùng vào thời điểm trước bữa ăn, tốt nhất nên dùng sau bữa ăn khoảng 1 giờ. Thời gian dùng tối đa là 2 tuần. Vì việc dùng men tiêu hóa kéo dài không những thêm lợi ích còn làm thay đổi chức năng cơ quan tiêu hóa, tác động vào các cơ quan và bộ phận tiết men, làm các cơ quan này giảm tiết dịch tiêu hóa và mất chức năng.


DS. Hoàng Thu Thủy

Nên dùng men vi sinh sau khi dùng kháng sinh?

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Có nhiều bằng chứng cho thấy việc uống men vi sinh khi đường ruột đang yếu không phải là một ý tưởng hay

Uống một đợt kháng sinh có thể làm hại đến vi khuẩn có lợi sống bên trong chúng ta. Vì vậy, chúng ta có nên uống men vi sinh sau khi dùng kháng sinh? Câu trả lời có thể là không đơn giản.

Men vi sinh đang được quảng cáo là phương pháp điều trị cho một loạt bệnh, từ béo phì đến các vấn đề tâm thần. Một trong những công dụng phổ biến của nó là bổ sung hệ vi sinh vật đường ruột sau một đợt điều trị bằng kháng sinh. Sự lý giải là - kháng sinh quét sạch cả vi khuẩn đường ruột lẫn vi khuẩn có hại gây nhiễm trùng cho bạn, vì vậy một loại men vi sinh có thể giúp khôi phục lại ruột bạn như cũ.

Nhưng trong khi nghe có vẻ hợp lý, có rất ít bằng chứng vững chắc cho thấy men vi sinh thực tế có tác dụng nếu dùng theo cách này. Các nhà nghiên cứu thấy rằng men vi sinh dùng sau thuốc kháng sinh thực tế làm chậm quá trình phục hồi đường ruột.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Người ta tin rằng kháng sinh quét sạch cả vi khuẩn đường ruột của bạn lẫn vi khuẩn có hại có thể gây nhiễm trùng cho bạn

Một phần của vấn đề, khi cố tìm hiểu xem men vi sinh có hoạt động tốt hay không, là vì con người ta là khác nhau nên men vi sinh cũng phải có nhiều loại. Đối với nhà khoa học, nó có thể được coi là sự nuôi cấy các vi sinh vật mà chúng sống trong ruột của con người khỏe mạnh bình thường. Nhưng các vỉ thuốc bột con nhộng trên các kệ ở siêu thị có thể không hẳn giống so với định nghĩa trên.

Quảng cáo

Ngay cả khi các nhà nghiên cứu sử dụng các loại vi khuẩn đang sống trong nghiên cứu thì sự pha trộn các loài này cũng thay đổi tùy theo từng phòng thí nghiệm nên rất khó so sánh.

"Đây chính là vấn đề - không có đủ số lượng nghiên cứu về bất kỳ một loại men vi sinh cụ thể nào để nói rằng loại này có tác dụng và loại kia thì không," Sydne Newberry của tập đoàn Rand, người đã thực hiện một việc phân tích tổng hợp lớn về việc sử dụng men vi sinh để điều trị tiêu chảy phải dùng kháng sinh năm 2012, nói.

Những tìm tòi của Newberry, khi xem xét 82 nghiên cứu của gần 12.000 bệnh nhân, có phát hiện thấy tác dụng tích cực của men vi sinh trong việc giúp làm giảm nguy cơ bệnh tiêu chảy phải dùng kháng sinh. Nhưng do sự thay đổi - và đôi khi là sự thiếu rõ ràng - về các chủng loại vi khuẩn đã được sử dụng, nên không có loại men vi sinh hoặc một sự pha trộn vi sinh đặc biệt nào có thể được xác định chính xác, và được khuyến nghị, là có hiệu quả.

Kể từ nghiên cứu năm 2012 nói trên, các bằng chứng hỗ trợ cho việc sử dụng men vi sinh sau khi dùng kháng sinh đã không tiến triển được mấy.

"Đó là điều rất đáng lo ngại," Newberry nói. "Có thêm một vài nghiên cứu nữa khi chúng đánh giá, nhưng không đủ để nói một cách dứt khoát là men vi sinh có tác dụng hay không. Và không đủ để nói loại men nào có tác dụng.

Một mối lo ngại đặc biệt là việc thiếu nghiên cứu về an toàn khi dùng men vi sinh. Mặc dù chúng thường được coi là an toàn với những người khỏe mạnh, nhưng đã có những báo cáo về trường hợp đáng lo ngại về men vi sinh gây ra rắc rối - chẳng hạn như nấm lây lan vào máu - đối với những bệnh nhân dễ bị tổn thương hơn.

Một nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học tại Viện Khoa Học Weizmann ở Israel cho thấy ngay cả trong số những người khỏe mạnh, việc uống men vi sinh sau khi dùng kháng sinh không phải là vô hại. Trên thực tế, men này đã cản trở chính các quá trình phục hồi mà ta thường nghĩ rằng nó sẽ cải thiện.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Men vi sinh sẽ không tác động giống nhau đối với mọi người vì hệ vi khuẩn đường ruột của họ là khác nhau

Các nhà nghiên cứu, do Eran Elinav chỉ đạo, đã điều trị cho 21 người bằng rất nhiều loại kháng sinh trong một tuần. Sau đó, họ được nội soi ruột kết và dạ dày đường ruột phía trên để điều tra tình trạng hệ vi khuẩn dọc đường ruột.

"Như dự đoán, rất nhiều thay đổi lớn đã xảy ra với chức năng của các vi khuẩn - trong đó nhiều vi khuẩn chết vì kháng sinh," Elinav nói.

Các tình nguyện viên được chia thành 3 nhóm. Nhóm 1 là nhóm không có sự can thiệp nào sau khi dùng kháng sinh, chờ xem xét. Nhóm 2 được dùng men vi sinh trong một tháng. Nhóm 3 chịu một lựa chọn ít thú vị nhất: cấy ghép phân. Nhóm này có một mẫu nhỏ phân của chính mình - được lấy trước khi điều trị bằng kháng sinh - và được đưa trở lại vào đại tràng sau khi điều trị kháng sinh.

Phát hiện đáng ngạc nhiên là nhóm người dùng men vi sinh có kết quả về hệ vi sinh là kém nhất. Nhóm này là nhóm chậm nhất để có được trở lại đường ruột khỏe mạnh. Ngay cả khi kết thúc nghiên cứu - sau 5 tháng theo dõi - nhóm này vẫn chưa đạt được sức khỏe đường ruột như trước dùng kháng sinh.

"Chúng tôi đã tìm thấy một tác động có hại có thể là đáng báo động," Elinav nói.

Tin tốt lành, thật bất ngờ, là nhóm đã được cấy ghép phân có kết quả rất tốt. Sau vài ngày, nhóm này đã phục hồi lại hệ vi sinh ban đầu của họ.

"Rất nhiều người đang dùng thuốc kháng sinh trên khắp thế giới," Elinav nói. "Chúng ta có thể tìm cách để hiểu rõ hơn về tác động có hại rất quan trọng này mà trước đây chúng ta không nghĩ là nó tồn tại."

Và ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc uống men vi sinh khi đường ruột đang yếu không phải là một ý tưởng hay. Một nghiên cứu khác gần đây đã cho thấy men vi sinh không có tác dụng tốt gì đối với trẻ em vào bệnh viện do bị viêm dạ dày/đường ruột. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát ở Mỹ, 886 trẻ bị viêm dạ dày/ruột tuổi từ 3 tháng đến 4 năm đã được điều trị một đợt 5 ngày, hoặc là bằng men vi sinh, hoặc là bằng giả dược.

Tỷ lệ bị viêm tiếp tục ở mức từ trung bình đến nặng trong vòng 2 tuần là cao hơn một chút [26,1%] ở nhóm dùng men vi sinh so với nhóm dùng giả dược [24,7%]. Và không có sự khác biệt giữa hai nhóm này về thời gian tiêu chảy hoặc nôn mửa.

Mặc dù có bằng chứng như vậy, nhưng nhu cầu về men vi sinh là lớn và ngày càng tăng. Năm 2017, thị trường men vi sinh là hơn 1,8 tỷ đô la và được dự đoán sẽ tới 66 tỷ đô la vào năm 2024.

"Với sự tham gia rất mạnh mẽ của ngành men vi sinh này, các kết luận rõ ràng về việc liệu nó có thực sự hữu ích cho con người hay không còn phải được chứng minh," Elinav nói. "Đây là lý do tại sao các cơ quan soạn quy chế như Cục Quản Lý Thuốc Và Thực Phẩm của Mỹ và các cơ quan soạn quy chế Châu Âu vẫn chưa phê duyệt men vi sinh để điều trị lâm sàng.

Nhưng điều đó không phải là để loại bỏ hoàn toàn men vi sinh. Vấn đề có thể không phải là ở bản thân men vi sinh, mà là ở cách chúng ta đang sử dụng chúng. Thông thường men vi sinh được chế tạo sẵn - người mua có thể không biết chính xác nó gồm cái gì, hoặc thậm chí liệu mẻ vi khuẩn đó còn sống không.

Elinav và các đồng nghiệp của ông cũng đã thực hiện nghiên cứu về việc ai dùng men vi sinh thì có lợi và ai thì không. Bằng cách đo biểu hiện của một số gien liên quan đến miễn dịch, nhóm nghiên cứu này đã có thể dự đoán ai sẽ tiếp nhận được vi khuẩn sinh học để chúng sinh sôi trong ruột mình, và với ai vi khuẩn chỉ đi qua ruột và không ở lại.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Việc uống men vi sinh khi đường ruột của bạn đang yếu có thể không phải là một điều hay

"Điều này rất thú vị và quan trọng vì nó cũng gợi ý rằng hệ thống miễn dịch của chúng ta tham gia vào các tương tác với vi khuẩn của men vi sinh," Elinav nói.

Điều này mở ra cơ hội phát triển các phương pháp điều trị bằng men vi sinh được cá nhân hóa dựa trên hồ sơ di truyền của một người cụ thể. Một hệ thống như vậy là "hiện thực và có thể được phát triển tương đối sớm", Elinav nói, nhưng ở giai đoạn này, nó vẫn chỉ là một bằng chứng về khái niệm. Để trở thành hiện thực, nó sẽ cần nhiều nghiên cứu hơn về điều chỉnh men vi sinh và thử nghiệm nhiều loại vi khuẩn hơn trong các nhóm người lớn hơn.

Kiểu cá nhân hóa này có thể giải phóng toàn bộ tiềm năng của các phương pháp điều trị bằng men vi sinh cho sức khỏe đường ruột. Hiện tại, sự thiếu nhất quán trong các phát hiện về men vi sinh một phần là do chúng đang được xử lý như các thuốc thông thường. Khi bạn uống một viên thuốc paracetamol, bạn có thể ít nhiều chắc chắn rằng thành phần hoạt tính của nó sẽ thực hiện nhiệm vụ và sự tác động lên các thụ thể trong não bạn, làm bạn bớt đau. Đó là vì hầu hết thụ thể cảm nhận đau của con người là đủ giống nhau để phản ứng theo cùng một cách với thuốc.

Nhưng hệ vi sinh không chỉ là một thụ thể - nó gần giống như một hệ sinh thái, và đôi khi được ví như một khu rừng nhiệt đới đầy phức tạp.

Vì vậy, việc tìm kiếm và điều chỉnh một phương pháp điều trị bằng men vi sinh sẽ hoạt động trên một thứ phức tạp và riêng lẻ như hệ sinh thái bên trong cơ thể bạn không phải là nhiệm vụ dễ dàng. Và với suy nghĩ đó, chẳng có gì là quá ngạc nhiên khi một gói vi khuẩn khô trên kệ siêu thị có thể không làm nên chuyện gì.

Bài tiếng Anh trên BBC Future

Video liên quan

Chủ Đề