Nghiên cứu mô tả cắt ngang là gì

Nghiên cứu khoa học

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU MÔ TẢ

Nghiên cứu mô tả là nghiên cứu chỉ quan sát mà không tác động vào đối tượng nghiên cứu, mục đích:

  • Mô tả hiện trạng sức khỏe cộng đồng hoặc một chương trình y tế, lĩnh vực y tế.
  • Cung cấp cơ sở để xây dựng kế hoạch y tế  để giải quyết các vấn đề được xác định từ các nghiên cứu mô tả.
  • Xác định các vấn đề, hình thành giả thiết, gợi ý thực hiện các nghiên cứu phân tích tiếp theo .

Nghiên cứu tương quan:

Nghiên cứu tương quan mô tả mối tương quan của bệnh với một yếu tố mà người nghiên cứu quan tâm, không nhằm mục đích xác định mối quan hệ nhân-quả. Để tiến hành nghiên cứu tương quan nhà nghiên cứu đo lường các biến số lựa chọn trong quần thể và sử dụng phương pháp thống kê tương quan để xác định mức độ tương quan giữa các biến số nghiên cứu.

Hệ số tương quan kí hiệu là r, chạy từ -1 đến +1, nếu r=0 nghĩa là không có sự tương quan, nếu r=-1 nghĩa là tương quan tỷ lệ nghịch, nếu r=+1 nghĩa là tương quan tỷ lệ thuận. Nghiên cứu tương quan giúp giải thích mối quan hệ giữa 2 hay nhiều biến số từ đó gợi ý thực hiện nghiên cứu thực nghiệm để xác định mối quan hệ nhân quả.

Mô tả 1 trường hợp bệnh hoặc 1 chùm bệnh:

Nghiên cứu này nhằm mục đích tăng thêm sự hiểu biết về bệnh và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến bệnh. Thường được áp dụng đối với các bệnh lạ hiếm gặp hoặc các bệnh mới xuất hiện chưa có sự hiểu biết nhiều về bệnh. Các thông tin như tuổi, giới, thời gian, địa điểm, tiền sử, hành vi sức khỏe trước khi mắc bệnh được điều tra kỹ lưỡng, cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng được kết hợp trong nghiên cứu mô tả ca bệnh.

Nghiên cứu cắt ngang:

Là nghiên cứu tỷ lệ mắc bệnh trong toàn bộ quần thể, trong đó tình trạng bệnh và yếu tố phơi nhiễm được nghiên cứu đồng thời, tại một thời điểm xác định. Nghiên cứu này cung cấp hình ảnh về hiện trạng sức khỏe của cộng đồng ở một thời điểm. Có 2 loại nghiên cứu cắt ngang: nghiên cứu tại 1 thời điểm [ thường được tiến hành trên 1 mẫu đại diện cho quần thể hoặc toàn bộ quần thể nghiên cứu] và nghiên cứu cắt ngang giai đoạn. Kết quả nghiên cứu cắt ngang là tỷ lệ hiện mắc, đưa ra các giả thiết về mối tương quan giữa bệnh và yếu tố nguy cơ.

Tài liệu tham khảo:

-       Research process: research design , Burapha Univerity

-       Phạm Đức Mục [2016]. Nghiên cứu điều dưỡng. Trung tâm tư vấn và dịch vụ Điều dưỡng hỗ trợ cộng đồng.

                                                                                                                 Người viết: Nguyễn Thị Hồng Hạnh

Nghiên cứu cắt ngang là một loại nghiên cứu quan sát phân tích và so sánh các quần thể mà không cần thao tác các biến trong môi trường nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu thực hiện các nghiên cứu cắt ngang tại một thời điểm cụ thể. Khoa học xã hội, giáo dục và tâm lý học là những lĩnh vực thường xuyên sử dụng các nghiên cứu cắt ngang.

Các nghiên cứu cắt ngang cho phép các nhà nghiên cứu điều tra nhiều biến số cùng một lúc, chẳng hạn như giới tính, thu nhập, trình độ học vấn và tuổi tác. Các nhà nghiên cứu áp dụng kết quả của những nghiên cứu này để xác định mức độ phổ biến của các kết quả liên quan đến sức khỏe trong dân số, chẳng hạn như tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ cụ thể. Bởi vì chúng mất một thời gian ngắn và tương đối rẻ tiền, nghiên cứu cắt ngang là cách phổ biến để mô tả các nhóm nhỏ hoặc toàn bộ quần thể liên quan đến một tập hợp các yếu tố nguy cơ.

Các nhà lập kế hoạch sức khỏe cộng đồng nhận thấy các nghiên cứu cắt ngang rất hữu ích trong việc tìm hiểu nguyên nhân của các bệnh khác nhau và phát triển giả thuyết cho các nghiên cứu trong tương lai. Tuy nhiên, chúng không được sử dụng để thiết lập mối quan hệ nguyên nhân - kết quả giữa các biến quan tâm. Trong các nghiên cứu cắt ngang, một ảnh chụp nhanh của dân số được thực hiện. Do đó, các nghiên cứu giống hệt nhau cung cấp các kết quả khác nhau khi chọn khung thời gian khác.

Các nghiên cứu cắt ngang cũng có thể dẫn đến sai lệch về tỷ lệ hiện mắc, trong đó loại trừ kết quả gây chết người, đặc biệt là khi điều tra các bệnh mãn tính. Hơn nữa, những nghiên cứu này không hiệu quả trong việc nghiên cứu các bệnh hiếm gặp và chỉ ra chuỗi các sự kiện, chẳng hạn như phơi nhiễm, khởi phát bệnh và kết quả.

Các yếu tố phơi nhiễm [exposures] và kết cục đều ghi nhận vào cùng một thời điểm [biểu đồ 1] vì vậy khó xác định được mối liên hệ nhân quả [bệnh và phơi nhiễm cái nào xảy ra trước]. Tuy vậy, loại nghiên cứu này khá hữu dụng vì thực hiện nhanh, ít tốn kém.

PN: Phơi nhiễm

Biểu đồ 1 Thiết kế nghiên cứu cắt ngang

Nghiên cứu cắt ngang [NCCN] rất hữu dụng trong nghiên cứu các vấn đề sức khỏe, thu thập các thông tin, các dữ liệu ban đầu cần cho các chương trình y tế can thiệp như: [1]

1. Điều tra các chỉ số Kiến thức- Thái độ- Thực hành [KAP]

2. Điều tra mức độ sử dụng các dịch vụ y tế của người dân

3. Điều tra các bệnh tật phổ biến trong cộng đồng [tăng huyết áp, bướu cổ, bệnh tim mạch, suy dinh dưỡng, đái tháo đường …]

4. Điều tra các thông tin về nhân khẩu học như giới, tuổi, nghề nghiệp, thu nhập…

5. Tìm các yếu tố nguy cơ để xác định nguyên nhân bệnh hoặc đặt ra một giả thuyết cho một nghiên cứu thực nghiệm.

NCCN điển hình thường được thực hiện thường xuyên tại bệnh viện là điều tra nhiễm trùng bệnh viện [NTBV]. Mục đích thông thường của điều tra NTBV là xác định tỉ lệ hiện hành [prevalence] và tìm các yếu tố nguy cơ gây NTBV [Ví dụ: người già, trẻ sơ sinh, có phẫu thuật, nằm tại khoa ICU, có sử dụng các dụng cụ xâm nhập…].

Phân biệt tỉ lệ hiện hành [prevalence] và tỉ lệ phát sinh [incidence]: Trong NCCN ta chỉ tính được tỉ lệ hiện hành, không tính được tỉ lệ phát sinh. Một ví dụ minh họa để phân biệt 2 tỉ lệ này: Một cuộc điều tra NTBV được tiến hành trong một ngày gồm 100 bệnh nhân có phẫu thuật đang nằm điều trị tại khoa Chấn thương chỉnh hình. Nếu ghi nhận có 10 bệnh nhân bị NTBV thì tỉ lệ hiện hành là 10/100= 10%. Nếu ta tiếp tục theo dõi tất cả 100 bệnh nhân này cho đến khi ra viện và phát hiện thêm có 8 bệnh nhân bị NTBV. Như vậy từ khi nhập viện đến khi ra viện có 18 bệnh nhân bị NTBV và tỉ lệ phát sinh được tính là 18/100=18%. Như vậy, tỉ lệ hiện hành được đo lường tại một thời điểm [1 ngày trong ví dụ trên] còn tỉ lệ phát sinh được đo lường trong suốt khoảng thời gian từ khi bệnh nhân nhập viện đến khi xuất viện.

Sau đây là một số ví dụ NCCN thường được thực hiện trong bệnh viện và cộng đồng. Ngoài xác định tỉ lệ hiện hành, nhà nghiên cứu thường kết hợp tìm các yếu tố phơi nhiễm [nguy cơ] có liên quan đến bệnh. Bởi vì yếu tố phơi nhiễm và bệnh đều thu thập chung một lần nên giảm bớt sai lệch nhớ lại [recall bias], tuy nhiên mối quan hệ thời gian giữa yếu tố phơi nhiễm và bệnh rất khó xác định, liệu yếu tố phơi nhiễm xảy ra trước bệnh và có liên quan đến bệnh?

Tuy vậy, NCCN sử dụng rất nhiều trong lâm sàng vì dễ thực hiện, góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị bệnh tại BV hoặc giúp đưa ra các giả thuyết cho các nghiên cứu thực nghiệm tiếp theo.

Tài liệu tham khảo:

1. Stephen Polgar, Shane A. Thomas. Surveys and quasi-experimental designs, in Introduction to research in the health sciences, Edinburgh,New York, Elsevier 2008, pp 65-73.

2. Gravel D. et al. Point prevalence survey for health-care associated infections within Canadian adult acute-care hospitals. Journal of Hospital Infection. 2007. 66:2243-2248

3. Nguyen BV, Nguyen KG, Phung CD, Kremp O, Kalach N, Dupont C, Raymond J, Vidal-Trecan G.Prevalence of and factors associated with Helicobacter pylori infection in children in the north of Vietnam. Am J Trop Med Hyg. 2006 Apr;74[4]:536-9.

4. Khassawneh M, Khader Y, Amarin Z, Alkafajei A. Knowledge, attitude and practice of breastfeeding in the north of Jordan: a cross-sectional study. Int Breastfeed J. 2006 Sep 23;1:17.

Nguồn Bvag.com.vn

[Lưu ý: Việc đáp ứng với các liệu trình điều trị, máy, thiết bị trợ giúp là khác nhau tùy thuộc cơ địa mỗi người !
Những thông tin y học trên website chỉ mang tính tham khảo, bạn không được tự ý áp dụng nếu chưa được sự chỉ dẫn của thầy thuốc !]

Phòng khám Cột sống | 589 Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội | Phụ trách chuyên môn: BS Mai Trung Dũng | Bác sĩ chuyên khoa cấp II [Đại học y Hà hội - 2015] |Trưởng Khoa Phục hồi chức năng Bệnh viện Quân y 354 |Uỷ viên BCHTW Hội Phục hồi chức năng Việt Nam

3/21/2022 10:30:00 PM

Trong nghiên cứu cắt ngang, nhà nghiên cứu đo mức độ phơi nhiễm và bệnh tật đồng thời trong một mẫu đại diện của dân số. Bằng cách lấy một mẫu đại diện, có thể tổng quát hóa các kết quả thu được trong mẫu cho tổng thể.

Các nghiên cứu quan sát, trong đó thiết lập mối quan hệ [mối liên hệ] giữa "yếu tố nguy cơ" [tác nhân căn nguyên] và kết quả [bệnh] là mục tiêu chính, được gọi là phân tích. Trong loại nghiên cứu này, kiểm tra giả thuyết là công cụ chính để suy luận. Cách tiếp cận cơ bản trong nghiên cứu phân tích là phát triển một giả thuyết cụ thể, có thể kiểm tra được và thiết kế nghiên cứu để kiểm soát bất kỳ biến ngoại lai nào có khả năng làm nhiễu mối quan hệ quan sát được giữa yếu tố được nghiên cứu và bệnh tật. Cách tiếp cận khác nhau tùy theo chiến lược cụ thể được sử dụng.

Trong nghiên cứu cắt ngang, nhà nghiên cứu đo mức độ phơi nhiễm và bệnh tật đồng thời trong một mẫu đại diện của dân số. Bằng cách lấy một mẫu đại diện, có thể tổng quát hóa các kết quả thu được trong mẫu cho tổng thể. Các nghiên cứu cắt ngang đo lường mối liên quan giữa biến số phơi nhiễm và bệnh hiện có [tỷ lệ hiện mắc], không giống như các nghiên cứu thuần tập, đo lường tỷ lệ phát triển bệnh [tỷ lệ mắc bệnh].

Các bệnh hiếm gặp, tình trạng có thời gian ngắn hoặc các bệnh có tỷ lệ tử vong cao thường không được phát hiện bằng dữ liệu thu thập nhanh một lần của nghiên cứu cắt ngang. Do đó, các nghiên cứu cắt ngang thích hợp hơn để đo lường mối quan hệ giữa các đặc điểm khá lâu dài ở các cá thể và các bệnh mãn tính hoặc tình trạng ổn định.

Thiết kế

Nghiên cứu cắt ngang thường bắt đầu với một quần thể tham chiếu, từ đó một mẫu ngẫu nhiên được lấy. Dữ liệu được thu thập đồng thời về yếu tố rủi ro hoặc đặc điểm và vấn đề.

Ưu điểm của nghiên cứu cắt ngang

Nghiên cứu cắt ngang có lợi thế lớn hơn các nghiên cứu bệnh chứng là bắt đầu với một dân số tham chiếu để từ đó rút ra nhóm bệnh và đối chứng.

Có thể là ngắn hạn, và do đó ít tốn kém hơn so với các nghiên cứu tiền cứu.

Là điểm khởi đầu trong các nghiên cứu thuần tập tiền cứu để sàng lọc các tình trạng bệnh hiện có.

Cung cấp nhiều dữ liệu có thể được sử dụng nhiều trong nghiên cứu hệ thống y tế.

Cho phép đưa ra tuyên bố rủi ro, mặc dù điều này không chính xác.

Nhược điểm của nghiên cứu cắt ngang

Không đưa ra ước tính trực tiếp về rủi ro.

Dễ bị sai lệch khỏi sự sống sót có chọn lọc.

Vì mức độ phơi nhiễm và bệnh được đo tại cùng một thời điểm, nên không thể xác định tính thời gian [tức là liệu sự phơi nhiễm hoặc sự hiện diện của một đặc điểm có trước sự phát triển của bệnh hoặc vấn đề hay không].

Video liên quan

Chủ Đề