Nội dung cuốn sách búp sen xanh là gì

Hồ Chí Minh là niềm cảm hứng muôn thở của văn học Việt Nam, bởi sức sống cũng như tâm hồn đẹp đẽ của người. Song không phải ai cũng có thể viết về Bác với đầy đủ những hình ảnh lịch sử lẫn tính nghệ thuật như trong “Búp sen xanh”. Đây là một tác phẩm hiếm hoi thể hiện sự giao thoa tài tình giữa lịch sử và văn học, vẫn giữ được chất chân thức khi viết về một nhân vật lịch sử vĩ đại, đồng thời vẫn có sự lồng ghép các chi tiết hư cấu rất tự nhiên, không xa rời thực tại.

Thước phim về Việt Nam những năm bị thực dân Pháp xâm lược

Chiến tranh Pháp–Đại Nam hoặc chiến tranh Pháp-Việt, hay còn được gọi là Pháp xâm lược Đại Nam là cuộc chiến giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và Đế quốc thực dân Pháp, diễn ra từ năm 1858 đến năm 1884. Cuộc chiến kết thúc bằng thắng lợi của Đế quốc thực dân Pháp, người Pháp xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Đại Nam và thiết lập bộ máy cai trị, bắt đầu thời kỳ Pháp thuộc trong lịch sử Việt Nam. Đây là thời kì đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam. Bác Hồ là người sinh ra trong thế kỉ đất nước bị xâm lược, hơn ai hết, thấm thía nỗi đau mà dân tộc đang chịu đựng.

“Búp sen xanh” là những thước phim sống động, chân thực về hình ảnh đất nước Việt Nam thời kì Pháp thuộc với góc nhìn khác biệt, góc nhìn từ những con người yêu nước. Tác phẩm không tập trung đặc tả nước ta với muôn trùng những khó khăn khi phải chịu ách đô hộ, không dành nhiều lời văn để viết về cái đói, cái mặc mà tập trung vào suy nghĩ của những người dân khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan. Đặc biệt là qua góc nhìn của những nhà nho yêu nước, chính kiến của họ khi cố gắng tìm ra con đường cứu nước, để từ đó dẫn dắt đến quyết định của chàng thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành khi quyết định sang Tây phương là hoàn toàn đúng đắn.

Theo bước chân của Bác, người đọc lại biết đến kinh thành Huế cổ kính, dòng sông Hương lững lờ, với đình Dương Nổ, trường Pháp – Việt Đông Ba, trường Quốc học hay Bến Nhà Rồng. Những phong tục tập quán, lời ăn tiếng nói… mỗi một vùng đất Bác đi qua cũng được tác giả thể hiện một cách tự nhiên, chân thật. Sự đan xen giữa đất nước Việt Nam lãng mạn, trù phú với một đất nước lầm than, chịu cảnh đô hộ là vẽ nên sự xung đột chủ yếu của đất nước lúc bấy giờ. Đặc biệt tác phẩm chú trọng rất nhiều vào hai chữ “ Tự do”, nó trở thành ám ảnh, từ thời ông Nguyễn Sinh Sắc đến thời của Bác, “ Tự do” chính là lí tưởng tồn tại duy nhất.

Đồng thời tác phẩm cũng khát quát được cả một giai đoạn lịch sử với sự xuất hiện của những vị anh hùng dân tộc như Phan Bội Châu, Đào Tấn... , những người đã có ảnh hưởng lớn đến lí tưởng của Bác Hồ. Đây là một tác phẩm có sự lồng ghép giữa yếu tố nghệ thuật và yếu tố lịch sử.

Những nét phác họa chân thực nhất về tuổi thơ của Bác Hồ

Cuốn sách được nhà văn chia làm 3 chương: “Thời thơ ấu”, “Thời niên thiếu” và “Tuổi hai mươi”. Những biến thiên của lịch sử, của gia đình nội ngoại hai bên và quá trình định hình nhân cách, ra đi tìm đường giải phóng dân tộc của vĩ nhân Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành trong khoảng 20 năm, cuộc chia tay trên Bến Nhà Rồng ngày 5 tháng 6 năm 1911 giữa Út Huệ và Nguyễn Tất Thành, được tác giả kể lại bằng những trang văn xúc động.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, một trong những nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng lớn nhất mọi thời đại, hóa ra cũng có một tuổi ấu thơ bình thường như bao người khác. Một người cũng năng động, nghịch ngợm, phá phách như bao đứa trẻ cùng trang lứa. Mỗi một trang sách giúp tôi thấy rõ hơn chân dung, hình ảnh Bác kính yêu của thời thơ ấu, thời niên thiếu, tinh thần vượt khó, luôn làm việc hết mình và học hỏi hết mình. Người đọc nhận ra những phẩm chất người qua từng cử chỉ, lời nói đầy tình thương, kính yêu của cậu bé Côn với ông bà, cha mẹ, anh chị em trong nhà, với bạn bè cùng trang lứa, cô bác nơi hàng xóm láng giềng. Tuổi thơ của Bác trải qua những “đoạn trường” khổ ải, thiếu thốn trăm bề nhưng đã vươn lên, vượt qua dông tố, mãi là bài học về tình thương, nhân cách, nghị lực sống. Và bao, bao trang viết xúc động như thế… mãi neo đậu trong tâm hồn người đọc những ấn tượng sâu sắc, khó quên…

Lựa chọn đoạn thời gian là thời thơ ấu của Bác, Sơn Tùng đã góp phần đem lại hình ảnh khác về Bác Hồ trong nhận thức của người đọc. Một tuổi thơ có cả những điều bình thường giản dị, chất phác và hạnh phúc; có cả những nhọc nhằn, những trải nghiệm phi thường của một con người phi thường.

Lời khẳng định cho truyền thống yêu nước

Với ba phần:I.Thời thơ ấu, II.Thời niên thiếu; III.Tuổi hai mươi, cuốn sách đã tái dựng thành công quãng đời đầy nhọc nhằn nhưng đẹp đẽ, thơ mộng cùng bao hoài bão, khát vọng cao đẹp của lãnh tụ. Quá trình trưởng thành của Bác có dấu chân của rất nhiều anh hùng dân tộc, những người đã thổi vào lòng Bác trái tim nhiệt thành của một con người yêu nước. Đặc biệt, truyền thống yêu nước được truyền từ đời cha ông đến đời con cháu, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là tấm gương sáng về tinh thần hiếu học cũng như lòng yêu nước sâu sắc. Sớm nhận ra tư chất khác thường của đứa con trai thứ, ông dành nhiều tâm huyết để dạy đạo làm người cho con trai của mình, cũng như luôn định hướng con phải có hoài bão lớn, lí tưởng lớn vì độc lập tự do cho dân tộc. Chính truyền thống cao đẹp của gia đình từ trí tuệ, cốt cách thanh cao của cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc; từ tình yêu thương vô bờ, sự hy sinh thầm lặng của bà, của mẹ Hoàng Thị Loan, của chị Thanh, anh Khiêm…; chính mảnh đất xứ Nghệ “một nắng hai sương” có làng Sen, làng Trù thân thương bình dị nhưng giàu truyền thống yêu nước, mang đậm phong vị quê hương, bản sắc dân tộc… là mạch nước ngầm ngọt ngào, là cái nôi để nuôi dưỡng tâm hồn Bác, ngọn nguồn để hình thành nên nhân cách vĩ nhân.

Truyền thống được nuôi dưỡng từ thầy chuyển qua trò, Bác Hồ đã may mắn khi được nhận sự giáo dục từ những người có cốt cách thanh cao, những nhà nho già biết sức mình hèn mọn, không đủ sức chiến đấu đành gửi gắm khát vọng tự do cho thế hệ sau. Dòng chảy truyền thống yêu nước là dòng chảy của thế hệ, bắt rễ rất sâu trong từng gia đình, chảy qua từng cuộc đời của con cháu, sự nối tiếp không ngừng của tinh thần yêu nước đã tạo thành truyền thống của dân tộc.

“Búp sen xanh” là quãng đời trong sáng nhất, nhiệt huyết nhất của tuổi trẻ con người vĩ đại, đánh dấu những bước chân đầu tiên trên hành trình chinh phục những ước mơ lớn. Tác phẩm khẳng định vai trò của gia đình, tầm ảnh hưởng của thời đại lên quyết định ra đi tìm đường cứu nước của Bác, mở ra kỉ nguyên mới về độc lập tự do cho dân tộc.

Thảo Nguyên

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn

Nhắc đến sen, bạn sẽ nghĩ đến điều gì? Một loài hoa sinh ra ở nơi vũng bùn, đầm lầy nhưng vẫn kiên quyết mạnh mẽ đứng lên, mặc cho những vấy bẩn, vẫn “ rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, tỏa sáng và đẹp đẽ hơn bao giờ hết? Đúng là sen rất đẹp nhưng chẳng phải tự nhiên mà sen đẹp như thế, để có thể mạnh mẽ như vậy, búp sen đã phải lớn lên và vươn cao, nói không ngoa chính sự rèn rũa từ búp đã tạo nên vẻ đẹp không thể nhầm lẫn của sen. Nếu như sen là những bậc hiền tài thì búp sen sẽ là đứa trẻ tạo nên những bậc hiền tài đó và “Các bậc thiên tài không có sẵn. Chính truyền thống gia đình, quê hương là khởi thủy tạo nên những tính cách đầu tiên của mỗi con người và đi vào đời…”

Giống như một bông hoa sen, cao quý và thanh khiết, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại luôn đặt đất nước lên trên hết, vì hai chữ quê hương mà sống, vì no ấm của hàng triệu người con mà quên đi bản thân mình. Người không ham một cuộc sống sung túc, người giỏi giang, giản dị, mạnh mẽ, kiên cường,…. Người luôn tỏa sáng với nhân cách cao đẹp, tư tưởng của Người, tình cảm lớn lao của Người luôn sống mãi trong người dân Việt Nam. Và cũng giống như một đóa sen, vẻ đẹp ấy không tự dưng mà có, nó được hun đúc từ búp, từ những ngày Bác còn thơ, rồi từng ngày, từng ngày trưởng thành, nó hoàn thiện dần và tạo nên một con người cứu sống cả một dân tộc.

Giới thiệu tên Bác trong từng giai đoạn

     1.     Tên khai sinh [tên sử dụng lúc nhỏ]: Nguyễn Sinh Côn [Nguyễn Sinh Cung]

     2.     Tên tự [tên sử dụng trong thời niên thiếu]: Nguyễn Tất Thành 

     3.     Tên Bác sử dụng trước khi tìm ra đi tìm đường cứu nước: Anh Ba

Thời thơ ấu

Nói các bạn có tin không, cũng giống như chúng ta, khi còn bé Bác cũng là một đứa trẻ nghịch ngợm, luôn ở trong lớp đầu têu những trò quậy phá. Trèo mái nhà phá tổ chim, trèo cây hái quả, ghẹo chó nhà hàng xóm, rủ cả lớp đang học đi câu cá,… tất cả những việc đó, Bác đều trải qua nhưng có lẽ chính nhờ những lần lỡ “ nghịch dại” ấy cùng một tuổi thơ đầy vất vả mà Bác trưởng thành. Suốt những năm tháng thơ ấu, thầy, u, anh, chị, bạn bè, hàng xóm, bà ngoại,vi sư, gì,…là những người gắn liền với Bác, họ chính là những tác động tích cực tạo nên nhân cách của một vĩ nhân lịch sử.

Trong số những người kể trên, có lẽ cha là người ảnh hưởng tới Bác nhiều nhất. Ông là một quan phó bảng, đỗ kì thi Hương. Dù làm quan nhưng cả đời ông luôn hướng tới một cuộc sống giản dị, tự do, tự tại, bốc thuốc cứu người, luôn vì hai chữ thanh liêm mà sống, tất cả vì nhân dân. Tuổi thơ của ông vốn cũng là một tuổi thơ nhiều biến động. Cha mẹ đều mất sớm, ở cùng với anh, may mắn được thầy mình nhận nuôi sau lại gả con gái lớn cho, ông luôn chăm chỉ học tập, đi thi nhưng không phải để làm quan, học tập để cứu giúp con người. Ông luôn sống liêm minh, chính trực. Mặc dù gia cảnh rất bình thường, được thưởng đất vì đỗ tú tài, ông cũng chỉ lấy một ít, còn lại chia hết cho nhân dân. Ông chẳng bao giờ tự cao, sống hòa đồng cùng bà con, chòm xóm. Ông luôn răn dạy các con của mình phải chăm chỉ đọc sách bởi sách là nhãn tự. Đối với những trò nghịch ngợm của đứa trẻ Nguyễn Sinh Côn, ông nghiêm khắc nhưng cũng dịu dàng giải thích lí lẽ cho con hiểu thấu. Ông dạy con thật nhiều mà hi vọng vào con lại càng lớn, hi vọng vào con đường con đi, hi vọng rằng con sẽ thay cha thực hiện ước nguyện mà ông đã bỏ lỡ. Chính nhân cách cao đẹp của ông đã tác động lớn đến con người của Bác.

Con đã thuộc bài, các bạn của con chưa thuộc mà con rủ bạn đi câu cá là phạm lỗi. Cái lỗi ấy là: con chỉ thấy phần mình đã xong, không nghĩ đến phần người khác, như vậy là ích kỷ. Con đã rõ chưa?

Côn! Vì đang ở trên đường, nếu ở nhà thì cha bắt con nằm xuống đánh mười roi vì tội bất đễ. Anh con có nói sai, xử sự sai với con  thì đã có cha phân xử, hoặc con phải nói với anh bằng một thái độ lễ phép. Con không được nói với anh câu nói của nhà vô giáo dục như vậy. Con khoanh tay xin lỗi anh đi con.

Sự suy nghĩ của con cũng giống sự suy nghĩ của cha về công cuộc cứu nước cứu dân. Người xoay chuyển được cuộc thế có lẽ… lớp các con chứ lớp ông nghè, ông cử như cha không gánh nổi đâu. Âu đành… Mặc khách tâm minh Chung Sơn thạch, bất bình sự phó Cả giang lưu.

Không chỉ cha, mẹ cũng là người có ảnh hưởng không nhỏ đến Bác. Bà là một người phụ nữ luôn hết lòng ủng hộ, thương yêu, hi sinh vì chồng con. Bà không quản ngại làm đồng vất vả nuôi chồng học, âm thầm đứng đằng sau, ủng hộ cho sự nghiệp của chồng. Nuôi con từ những lời ru à ơi, bà luôn dạy các con rằng “Chữ là mắt. Người không có chữ coi như người mù ở thế gian”. Nếu như cha là người dạy bé Côn kiến thức vào đời, rèn luyện cho Côn những đức tính cao đẹp thì mẹ chính là người bồi đắp cho Côn một trái tim đầy tình thương. Tuy ra đi ở tuổi đời vẫn còn trẻ nhưng những gì bà mang đến cho Côn không chỉ là một tình mẫu tử thiêng liêng, mà còn là nhân cách, những bài học làm người giá trị, hoàn thiện nên một tâm hồn vĩ đại.

Bên cạnh cha mẹ, xung quanh Côn còn thật nhiều những con người đáng quý. Họ là anh chị, bà ngoại, bạn bè, hàng xóm,… Đó là những con người không có nhiều quyền thế nhưng hết mực yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Chính họ cũng tác động một phần không nhỏ vào cuộc đời của bé Côn. Ở họ, ta có thể thấy cái gọi là tình bạn, cái gọi là tình chòm xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”,… để từ đó ta thêm yêu con người, ta tin tưởng nhiều hơn về tình nhân ái.

      -   Tội nghiệp bà cử! Cha con ông cử vẫn chưa về

      -   Tội nghiệp thân anh em bé Côn! Mệ chết mà chẳng có một ai thân thích ở gần!

     -   Giữa lúc năm hết, tết đến mà mệ chết, cha vắng nhà, ở giữa đất khách quê người này, liệu anh em bé Côn sẽ sống ra sao đây?

      -   Vậy ra… ông bà cử nghệ không có ai là người ruột thịt ở miệt ni à?

      -   Chẳng có một người nào cả.

      -   Vậy thì, chị em xa, ta là láng giềng gần, mỗi người một tay để đưa bà cử về nơi an nghỉ cuối cùng.

Trong tác phẩm, ta cũng có thể thấy sự hiện diện của những nhà hoạt động cách mạng, họ là bạn của cha Côn. Có lẽ chính nhờ sự xuất hiện sớm của những con người ấy mà từ nhỏ, Côn đã được tiếp xúc với những con đường cứu nước để từ đó ngẫm nghĩ và có suy nghĩ trưởng thành hơn tuổi.

Tuy yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lớn tới con người và nhân cách Bác nhưng nó chưa đủ, yếu tố chính tạo nên một vĩ nhân lịch sử sau này nằm ở chính sự nghị lực và kiên cường trong Bác. Những năm tháng ấu thơ, tuy nghịch nhưng Côn rất chăm chỉ, chịu khó, biết nghe lời, yêu thương mọi người và lập trường quan điểm chín chắn. Không khó để nhìn thấy sự nghị lực của Bác trong những ngày tháng vô cùng khó khăn, mẹ mất, một mình nuôi em, theo cha sống xa quê từ những ngày bé,…Bác luôn không ngừng học hỏi với một trái tim đầy yêu thương để từ đó tự trưởng thành và sống với nhân cách đáng ngưỡng mộ, giống như cái tên của mình, trở thành “ loài cá hóa chim bằng”.

Với cái tuổi lên mười, Côn đã phải nấu cháo, sắc thuốc, chăm sóc bệnh tình của mẹ. Hằng ngày, Côn còn phải bế em sang hàng xóm xin những bà mẹ đang nuôi con thơ cho em được bú nhờ.

Cái cảm giác sợ hãi đã bay biến khi nỗi cô đơn bao trùm lấy tâm trí Côn lúc cả kinh thành bay lên theo tiếng pháo giao thừa. Côn phải dỗ em bằng kẹo, bánh của các bạn đến cho. Tuy em Xin chưa biết nói, Côn vẫn trò chuyện với em như nó đã tiếp nhận được mọi điều…

Thời niên thiếu

Thời niên thiếu của Bác là những ngày tháng sống ở kinh thành Huế, học tập tại đây, sau đó trở thành thấy giáo ở Phan Thiết rồi chuyển vào Sài Gòn.

Bắt đầu từ những ngày sửa soạn theo cha lên đường vào kinh đô Huế lần hai. Cùng với cha và anh , Côn bận rộn chuẩn bị mọi thứ để tạm biệt mọi người. Sự xa quê lần này của ba cha con diễn ra trong những lời thân thương của mọi người nơi quê nhà

Ba cha con phó bảng Sắc bước từng bước bin rịn, chốc chốc ngoái về phía sau. Những người thân và dân làng đi tiễn đứng rải rác dưới bóng tre nhìn theo cha con ông đang đi xa dần.

Họ sống ở nhờ nhà người bạn, trên đường đi, với lối suy nghĩ của những người từng trải, cậu bé Côn năm nào giờ được gọi với cái tên Tất Thành chiêm nghiệm được nhiều thứ:

…Bên tai anh văng vẳng lời ca mà anh thuộc từ nhiều năm trước:

Nước Nam ta sao lại có Tây

…Tất Thành cảm thấy ở đất “ thần kinh” này đang có một sự chuyển động âm ỉ ở bên trong,…

Ở nhờ nhà bạn cha, Tất Thành tỏ rõ mình là một con người được giáo dục tử tế với phong cách và kinh nghiệm sống đáng học hỏi.

Bữa cơm khách đầu tiên, ăn xong Thành tự đi lấy tăm đặt lên miệng chén trà cho từng người. Thành thu dọn bát đĩa và đi rửa….

Đến ở ngày hôm trước, hôm sau Thành đã đi chợ đong gạo, mua thức ăn. Thành biết rành từng loại cơm ở chợ Đông Ba như gạo lốc dâu, gạo chăm, gạo té, gạo hẻo…

Với những tư tưởng sống tiến bộ “…Muốn biết rõ cội nguồn của người Tây là thế nào thì phải biết chữ của họ, tiếng nói của họ, nền văn minh của họ. Và càng không thể bỏ qua việc học loại chữ mới…”, Tất Thành đăng kí học vào trường Đông Ba. Ở đây, Thành gặp lại những người bạn cũ đã không quản ngại khó khăn giúp đỡ mình năm xưa. Cùng với bạn của mình, trong một lần nhân dân ta nổ ra biểu tình, Thành đi trong đội ngũ những người đấu tranh đòi quyền sống. Giữa biển người ào ạt, Thành thấy một người trạc tuổi anh bị thương nặng, anh chẳng kịp suy tính mà cứu lấy người đó. Sau này, chính người ấy lại trở thành một người anh em cùng Tất Thành trải qua tuổi hai mươi. Sau cuộc nổi dậy đó, Tất Thành bị cảnh sát săn đuổi, anh đã có thể trở lại trường học nhưng không, để lại cái danh người học trò xuất sắc, anh đã ra đi, ra đi theo tiếng gọi của con tim, ra đi để viết lên trang sử mới.

Dấu chân Nguyễn Tất Thành in xuống cực nam trung bộ. Nghe theo lời cha, anh đến dạy ở trường Dục Thanh. Ở đây anh hết lòng chỉ dạy cho những học trò nhỏ, lại không ngại giúp đỡ những em gặp khó khăn. Tuy chỉ ở lại một thời gian nhưng ấn tượng và bài học mà anh để lại trong lòng học sinh là những điều quý giá không phải ai cũng làm được. Các bạn còn nhớ người mà Bác đã cứu khi tham gia biểu tình không, đó là anh Tư Lê và đây chính là khoảng thời gian anh gặp lại người đó. Nhờ gặp được Tư Lê, Nguyễn Tất Thành lại một lần nữa ra đi, vào trong nam, đi tìm con đường giải cứu đất nước, thực hiện chí lớn của bản thân mà cũng là kì vọng mà cha anh để lại:

Cha tưởng con đi theo cha thì đáng buồn. Con phải tự tìm ra cho mình một hướng đi, một con đường. Đời cha không có con đường chỉ có một ngõ cụt. Cha đã không làm được điều mà mình hằng ước nguyện: vì Tổ quốc mà ngã giữa trận tiền, vì công bằng mà rơi đầu trước đám cường quyền bạo ngược… Con cứ mạnh dạn làm, một khi lòng đã quyết…

Anh ra đi lặng lẽ, chỉ để lại một lá thư xin lỗi cùng lời nhắn gửi tới các học trò nhỏ. Chí lớn của anh mang tên “ Hồn nước gọi chúng ta lên phía trước!”.

Tuổi hai mươi

Theo chân Tư Lê, anh Ba đến Sài Gòn. Nơi đây anh gặp được cụ già Đờn, cô Út – con gái ông và những người bạn ở xóm chợ. Anh không ngại khó, không ngại khổ, tự nguyện làm nghề phu vất vả chỉ để tìm được hướng đi ra một phương trời khác thực hiện ước mơ lớn. Tương lai anh tìm kiếm nhưng không vì lẽ đó mà bỏ quên thực tại, quên đi những con người đang nhiệt thành giúp đỡ mình hoàn thành ước mơ. Anh mở lớp dạy học, nơi mà “ Chữ anh Ba  thắp sáng lên trong trái tim những người thợ.”, thương cô Út không có khăn buộc tóc, anh ghé vào tiệm tạp hóa mua cho cô; thương ông già Đờn mỗi lần lên dây nhị phải lựa lựa đoạn day tơ không có nút nối và cái cần rung đã nứt dọc, anh mua thêm một bộ dây nhị và cái vĩ; anh mua thêm cả hai chai Cô-nhắc cho anh em xóm thợ;… Đó là những món quà anh dành tặng cho những người anh biết ơn trước khi người ra đi tìm đường cứu nước.

Trong những thời gian làm thợ, anh biết đến tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin, anh đăng kí một chân làm bồi tàu. Trước ki đi, anh hỏi bạn mình – anh Tư Lê về việc đi cùng anh và chắc hẳn mọi người còn nhớ đúng không, câu nói nổi tiếng của Bác khi được anh Tư Lê hỏi tiền đâu mà đi.

Đây, - anh Ba giọng cương quyết, chìa hai tay ra giữa bóng đêm – tiền đây. Chúng ta sống bằng bàn tay, bằng cái đầu của chúng ta.

Trước khi đi, anh không quên đến tìm gặp cha, người đã truyền dạy anh thật nhiều thứ. Cuộc chia tay lúc này đây trở nên thật ngột ngạt và bi thương bởi trong hai người họ, ai biết, đây có phải lần cuối gặp nhau?

Anh Ba lau nước mắt, đỡ lấy tay cha, anh thốt lên:

-     Cha!

Ông phó bảng ngăn lại:

-      Đừng! Con đừng gọi cha lúc này! Con phải gọi Tổ quốc! Đồng bào! Đi…đi con!

Ngày 5/6/1911, Người ra đi tìm đường cứu nước, trên con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin, mở đường cho một hành trình dài đầy gian khổ nhưng vinh quang. Con tàu rẽ sóng, rẽ ra một tương lai mới cho dân tộc, quê hương.

Lúc này đây, búp sen xanh không còn chỉ là một đứa trẻ trên con đường trưởng thành nữa mà búp sen xanh còn là cái nôi, là tiếng gọi quê hương, là một thời để nhớ, thúc giục con người ta hướng về tương lai. Đó là nguồn cội của một vĩ nhân lịch sử.

Tác giả: Hama - Bookademy

----------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: //www.facebook.com/bookademy.vn

Tham gia Bookademy Team để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị, đăng ký CTV tại link: //goo.gl/forms/7pGl3eYeudJ3jXIE3

3,389 người xem

Video liên quan

Chủ Đề