Quỳnh cư là ai

Tiểu dãn các điển tích

kiến trúc nơi Tòa Thánh

[tiếp theo]

Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh   [1888-192]

Ngài Cao quỳnh Cư sanh năm Mậu Tý [1888] tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh thượng, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là Ông Cao quỳnh Tuân, Thân mẫu là Trịnh thị Huệ, bào huynh là Cao quỳnh Diêu, đắc phong Bảo Văn Pháp Quân. Năm 1907, Ngài Cư lập gia đình với Cô Nguyễn thị Hiếu, sau đắc phong Nữ Đầu Sư [1968].

Năm 1915, Ngài làm Thơ ký tại Sở Hỏa Xa Sài gòn.  [Việc Xây bàn, tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, Vọng Thiên Cầu Đạo, việc thọ phong chức Thượng Phẩm, xin xem nơi phần Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc].

Nhờ sự hướng dẫn của Đức Lý Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm cùng Hội Thánh mua được miếng đất rừng ở làng Long Thành để cất Tòa Thánh. Việc tổ chức di chuyển từ Chùa Từ Lâm ở Gò Kén về đất mới mua, do Đức Cao Thượng Phẩm đảm nhiệm.  Đức Cao Thượng Phẩm chỉ huy những người Miên làm công quả lo khai hoang, chặt cây phá rừng, để cất Tòa Thánh tạm, cất Hậu Điện, Đông Lang, Tây Lang, Trù phòng, Trường học, đều làm bằng cây, vách đất, lợp tranh, tạm thời có chỗ làm việc cho Hội Thánh. Tạo dựng đâu đó xong xuôi, Ngài bị bọn xấu vu oan cho Ngài nhiều việc xấu và buộc Ngài phải rời Tòa Thánh, trở về tư gia của Ngài ở gần chợ Tây Ninh. Tại đây, Ngài dựng nên Thảo Xá Hiền Cung làm nơi tu dưỡng. Ngài buồn phiền nên sanh bịnh và thoát xác đăng Tiên vào ngày 1-3-Kỷ Tỵ [1929], lúc 11 giờ trưa, hưởng 42 tuổi.  Đức Phạm Hộ Pháp cho biết, nguyên căn của Đức Cao Thượng Phẩm là Đại Tiên Hớn Chung Ly trong Bát Tiên.

Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang [1901-1971]

Ngài Cao hoài Sang, sanh ngày 11-9-1901 [Tân Sửu] tại làng Thái Bình tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là Cao Hoài Ân, Thân mẫu là Hồ thị Lự, sau đắc phong Nữ Đầu Sư hàm phong [1968], bào huynh là Thời Quân Tiếp Đạo Cao đức Trọng.

Buổi xây bàn đầu tiên để tiếp xúc với các vong linh được tổ chức tại nhà Ngài Sang ở phố Hàng dừa Sàigòn. [Việc Xây bàn, tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, Vọng Thiên Cầu Đạo, việc thọ phong chức Thượng Sanh, xin xem nơi phần Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc].

Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong sang Cao Miên năm 1956, Hội Thánh thiếu người trực tiếp cầm giềng mối Đạo, nên thỉnh Đức Cao Thượng Sanh, từ Sàigòn về Tòa Thánh Tây Ninh đặng điều hành nền Đạo.  Từ đây, Ngài trọn phế đời hành đạo. Ngài tiếp nối Đức Phạm Hộ Pháp, xây dựng thêm các cơ quan trong đạo, như Nhà Hội Vạn Linh, Cơ quan Phát thanh Giáo lý, Văn phòng Ban Thế Đạo, Bắc Tông Đạo, Tần Nhơn, Nam Đầu Sư Đường, Học Đường Bộ Nhạc, vv . và phát huy việc phổ thông giáo lý Đại Đạo.

Đức Cao Thượng Sanh có tài năng đặc biệt về Cổ nhạc Việt Nam, nhờ vậy mà nền Âm Nhạc của Đạo Cao Đài được Ngài chỉnh đốn hoàn hảo. Tuổi già sức yếu, công việc Đạo đa đoan, Đức Cao Thượng Sanh ngọa bịnh và đăng Tiên ngày 26-3-Tân Hợi, lúc 5 giờ chiều, hưởng thọ 71 tuổi. 

[LƯU Ý : Muốn biết Tiểu sử chi tiết của 5 vị Chức sắc Đại Thiên Phong kể trên, xin xem quyển sách : Danh Nhân Đại Đạo].

2- Đạo kỳ

là lá cờ đạo, tượng trưng Đạo Cao Đài, gồm 3 màu : Vàng, Xanh, Đỏ. Do đó, lá cờ đạo nầy còn được gọi là Cờ Tam Thanh, vì Thái Thanh có màu vàng, Thượng Thanh có màu xanh và Ngọc Thanh có màu đỏ. Tại bao lơn trước Tòa Thánh, trong những ngày lễ của Đạo đều có treo lá cờ Đạo rất lớn, hình chữ nhựt, có màu vàng ở bên trên, màu xanh ở giữa và màu đỏ ở dưới chót. Trên phần nền vàng, có thêu 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, trên phần nền xanh ở giữa có thêu một Thiên Nhãn và Cổ Pháp Tam giáo : Bình Bát Du, Cây Phất Chủ và quyển Kinh Xuân Thu. Trên phần màu đỏ không có thêu gì cả. Ý nghĩa của lá cờ Đạo Cao Đài được Đức Phạm Hộ Pháp giải thích , xin tóm tắt như sau :

-         Màu vàng là của phái Thái, tượng trưng Phật giáo.

-         Màu xanh là của phái Thượng, tượng trưng Tiên giáo.

-         Màu đỏ là của phái Ngọc, tượng trưng Thánh giáo tức Nho giáo. 

Ghép 3 màu lại trong một khuôn hình chữ nhựt, với 3 phần đều bằng nhau, tượng trưng tôn chỉ của Đạo Cao Đài là Tam Giáo Qui Nguyên.  Thiên Nhãn là biểu tượng của Đức Chí Tôn, thờ Thiên Nhãn là thờ Đức Chí Tôn. Thêu Thiên Nhãn và Cổ Pháp Tam giáo trên Đạo Kỳ, dưới 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là để chỉ rằng, Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn lập ra trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ Tam giáo qui nguyên, nghĩa là đem 3 nền Tôn giáo lớn ở Á Đông qui về một gốc Đại Đạo do Đức Chí Tôn làm chủ.

3-. Cổ Pháp Tam giáo

Trên lá cờ Đạo, hay trên lan can lầu Phi Tưởng Đài, đều có hình Cổ Pháp Tam giáo.
Cổ Pháp Tam giáo gồm : Bình Bát Vu, Cây Phất Chủ và Quyển Xuân Thu. Bình Bát Vu đặt ở giữa, Phất Chủ và Xuân Thu đặt ở 2 bên. 

  •   Bình Bát Vu tượng trưng Phật giáo.

  • Cây Phất Chủ tượng trưng Tiên giáo.

  • Sách Xuân Thu tượng trưng Nho giáo.

Ghép 3 món ấy lại với nhau để tượng trưng tôn chỉ của Đạo Cao Đài là : Tam giáo qui nguyên, tức là đem 3 nền tôn giáo lớn ở Á Đông [Phật giáo, Tiên giáo và Nho giáo] hiệp trở về một gốc, gốc đó là Đại Đạo, do Thượng Đế làm chủ.

Phật Mẫu Chơn Kinh : Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu, Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn.

Bát Vu : Bát Vu là cái bình bát đựng đồ ăn của các tăng ni Phật giáo, phái Khất Sĩ, dùng để đi khất thực. Mỗi vị sư, sau khi thọ giới cụ túc, được vị Hòa Thượng nhơn danh Giáo Hội, truyền cho một cái bát, hoặc khi cái bát bị bể, thì Giáo Hội cũng phát cho cái khác.

Lúc thọ lãnh bát, vị sư nguyện 3 lần bài chú sau đây : " Thiện tai Bát-đa-la, Như Lai ứng lượng khí : Phụng trì dĩ tư thân, trưởng dưỡng trí mạng. Án chỉ rị chỉ rị phạt nhựt ra hồng phấn tra." Nghĩa là : Lành thay cái Bát-đa-la, món đồ ứng lượng của Phật. Tôi nay phụng trì để nuôi thân và nuôi lớn cái mạng trí huệ. Sau cùng là Câu Thần chú bằng tiếng Phạn. Bát-đa-la là phiên âm từ tiếng Phạn :PATRA, có nghĩa là cái bát, cái bình bát hay Bình bát vu. Bình Bát Vu còn là một trong 2 tín vật của Phật giáo mà các Tổ Sư gìn giữ làm bảo vật để truyền kế ngôi Tổ Sư. Hai tín vật đó là : Y và Bát. Y là cái áo cà sa và Bát là cái Bình Bát vu. Nguyên 2 tín vật nầy là của đức Phật Thích Ca xử dụng trong lúc Đức Phật còn sanh tiền. Khi Đức Phật tịch, Phật truyền 2 món nầy lại cho Ma-Ha Ca-Diếp làm tín vật để giữ ngôi Nhứt Tổ Phật giáo Ấn Độ. Sau đó, Ma-Ha Ca-Diếp truyền Y Bát lại cho A-Nan làm Nhị Tổ Phật giáo Ấn Độ. Y Bát nầy truyền dần xuống đến đời Tổ Sư thứ 28 là Bồ-Đề-Đạt-Ma, thì Đạt-Ma Tổ Sư đem Y Bát sang Trung Hoa để mở mang Phật giáo tại nước nầy. Đat-Ma Tổ Sư trở thành Sơ Tổ của Phật giáo Trung Hoa. Đạt-Ma Tổ Sư truyền Y Bát lại cho 4 đời Tổ Sư nữa thì đến đời Lục Tổ Huệ Năng.

Sau đời Lục Tổ Huệ Năng, không còn lệ truyền Y Bát nữa, vì theo lời di chúc của Đạt-Ma Tổ Sư, 200 năm sau kể từ ngày Ngài lên Ngôi Tổ thì Y Bát không được truyền nữa. Vì sự hệ trọng của Y và Bát như thế, nên Đạo Cao Đài chọn Bình Bát Vu làm Cổ Pháp tượng trưng Phật giáo.

Phất Chủ : Phất là quét, chủ là con chủ. Con chủ là loài thú thuộc loài nai, hình dáng như con hươu nhưng lớn hơn, lông đuôi dài chấm đất, khi đi thì cái đuôi phẩy qua phẩy lại để quét cho sạch bụi.  Do đó, Phất chủ là cái chổi quét bụi làm bằng lông đuôi con chủ, nên cũng gọi là Phất trần [quét bụi]. Các vị Tiên thường dùng lông đuôi chủ để làm chổi quét bụi.

Nhưng đây là cây chổi Tiên, nên nó có rất nhiều phép tắc mầu nhiệm, nó dùng để quét sạch bụi trần bám vào che lấp cái Tâm, để cho cái Tâm được trong sạch sáng tỏ.  Nguồn gốc cây Phất chủ là của Đức Thái Thượng Lão Quân. Do đó, Phất chủ là bửu bối của Tiên gia. Đạo Cao Đài chọn Phất chủ làm Cổ Pháp tượng trưng Tiên giáo.

Xuân Thu : Xuân Thu là tên của một quyển sách do Đức Khổng Tử sáng tác vào lúc cuối cuộc đời của Ngài, sau khi Ngài đã san định xong Ngũ Kinh. " Xuân Thu là tên của một bộ sử nước Lỗ do Đức Khổng Tử ghi chép những việc quan trọng xảy ra hằng năm, từ đời Lỗ Ân Công nguyên niên, tức là từ năm thứ 49 đời vua Chu Bình Vương, đến đời Lỗ Ai Công năm thứ 14, tức là năm thứ 39 đời vua Chu Kinh Vương, trong thời gian 242 năm.

Đây là một giai đoạn lịch sử Trung Hoa, thời kỳ mạt điệp nhà Chu [Châu], ngôi Thiên tử suy nhược, bị bọn Ngũ Bá : Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Tống Tương Công, Sở Trang Công, nổi lên lấn át quyền Thiên tử, các nước chư Hầu tranh chiếm lẫn nhau, các sử gia gọi là thời đại hỗn loạn , nên người đời sau mượn tên Kinh Xuân Thu để gọi thời đại ấy là thời Xuân Thu [722-480 trước Tây lịch].

Mặc dầu Kinh Xuân Thu là một cuốn sách lịch sử, nhưng khi ghi chép, Đức Khổng Tử vận dụng văn tự và bút pháp để khen chê, để phân biệt kẻ thiện người ác hết sức minh bạch và đanh thép, nên người đời sau đã phải công nhận đó là búa rìu trong Kinh Xuân Thu [Xuân Thu phủ việt], cũng như nói: Đức Khổng Tử làm Kinh Xuân Thu mà bọn loạn thần tặc tử sợ [Khổng Tử tác Xuân Thu nhi loạn thần tặc tử cụ]. Vì thế Kinh Xuân Thu đã có tác dụng về Đạo lý, đã giữ địa vị quan trọng trong nền văn hóa Đông phương nói chung và Nho giáo nói riêng, trong sự biểu dương học thuyết "Chính danh, Nhất quán, Trung Dung, Đại Đồng" của vị Vạn Thế Sư Biểu mà dân tộc Việt nam đã chịu ảnh hưởng hơn 2000 năm nay. Kinh Xuân Thu còn có tính cách điển hình gương mẫu cho người đời sau phải tôn trọng danh dự và nhiệm vụ trong khi viết sử, và được liệt vào 5 Bộ Kinh căn bản của Nho giáo : Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu." [Theo Ông Lê phục Thiện, chuyên viên Hán học, TTHL].

Xem như thế, Kinh Xuân Thu là một bộ sách rất quan trọng, tiêu biểu cho Đức Khổnng Tử, mà cũng tiêu biểu cho Nho giáo. Đức Quan Thánh thuở sanh tiền lấy Kinh Xuân Thu làm sách gối đầu. Do đó, Đạo Cao Đài lấy Kinh Xuân Thu làm Cổ Pháp tượng trưng Nho giáo.

4- Hội Long Hoa

Phía dưới bao lơn trước Tòa Thánh có 4 cây cột, mỗi bên 2 cây đứng kế nhau, một cây quấn rồng đỏ, một cây quấn bông sen. Hai cây cột đứng kế nhau ấy tượng trưng 2 chữ LONG HOA. Long là rồng, Hoa là cái bông]. Tượng trưng như vậy là có ý nói rằng, Đại Hội Long Hoa kỳ nầy sẽ mở ra tại Tòa Thánh Tây Ninh , và Đức Di-Lạc Vương Phật ngự trên nóc Phi Tưởng Đài sẽ làm Giáo chủ, với 8 khuôn hình chung quanh bao lơn tượng trưng 8 hạng người của nhơn loại [Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục], tức là tượng trưng nhơn loại tụ họp về Tòa Thánh để tham dự Đại Hội Long Hoa.

Những người tham dự Đại Hội Long Hoa là những người đã được Đức Di-Lạc Vương Phật chấm đậu trong kỳ thi công đức và sẽ được thăng thưởng vào các phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật. Từ khi có nhơn loại đến nay, Đức Chí Tôn đã mở 2 kỳ Đại Hội Long Hoa : Kỳ nhứt và Kỳ nhì. Sắp tới, Đức Chí Tôn sẽ mở Đại Hội Long Hoa Kỳ ba : 

Cuối Chuyển thứ nhứt, tức là cuối Hạ nguơn Nhứt Chuyển, có Đại Hội Long Hoa kỳ nhứt, gọi là Thanh Vương Đại Hội, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật làm Giáo Chủ. [Kể từ khi có nhơn loại đến nay đã trải qua 3 Chuyển : Nhứt Chuyển, Nhị Chuyển, Tam Chuyển. Mỗi Chuyển có 3 Nguơn : Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn. Hiện nay, nhơn loại đang ở vào cuối Hạ nguơn của Tam Chuyển, sắp bước qua Thượng nguơn của Tứ Chuyển].

Cuối Chuyển thứ nhì, tức là cuối Hạ nguơn Nhị Chuyển, có Đại Hội Long Hoa kỳ thứ nhì, gọi là Hồng Vương Đại Hội, do Đức Phật A-Di-Đà làm Giáo Chủ.

Cuối Chuyển thứ ba, tức là cuối Hạ nguơn Tam Chuyển, sẽ có Đại Hội Long Hoa kỳ thứ ba, gọi là Bạch Vương Đại Hội, do Đức Di-Lạc Vương Phật làm Giáo Chủ.

Đạo ví Đời là một trường học vĩ đại, có đủ các bài học từ thấp đến cao, từ ác tới thiện, từ vật chất đến tinh thần, để các chơn linh đầu kiếp xuống đây học hỏi, chiêm nghiệm và tiến hóa. Người làm thiện thì tiến hóa hơn người làm ác; người ăn chay thì tiến hóa hơn người ăn mặn ; người tu hành đạo đức thì tiến hoá hơn người không tu. Đại Hội Long Hoa là một cuộc thi tuyển sau một Chuyển học hỏi và tiến hoá của nhơn loại.

Ai đạt được trình độ tiến hóa cao thì được chấm đậu, sẽ lãnh được những cấp bằng làm Thần Thánh Tiên Phật tương ứng với trình độ tiến hóa của mình. Ai rớt thì phải ở lại cõi trần để tiếp tục học hỏi và tiến hóa, chờ kỳ thi tuyển được mở ra vào cuối Chuyển tiếp theo. Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ [tức là Đạo Cao Đài] là để chuẩn bị cho con cái của Ngài trước kỳ thi tuyển vào Đại Hội Long Hoa kỳ thứ ba.

" Người dưới thế nầy, muốn giàu có, phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần Thánh Tiên Phật, muốn cho đắc đạo, phải có công quả. Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình, thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ." [TNHT. I. 27].

Trong Đại Hội Long Hoa kỳ thứ ba nầy, người được chấm đậu sẽ được tưởng thưởng xứng đáng bằng những phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật, và sẽ được đưa vào những thế giới tiến hóa cao siêu hơn. Những người có công đức ít sẽ được sống sót tại quả địa cầu nầy và trở thành giống dân Thần Thông Nhơn để lập đời Thượng Nguơn Thánh đức.

Còn những người thi rớt ở Đại Hội Long Hoa nầy , họ phải ở đó chờ đợi cho đến khi nào lớp thú cầm tiến hóa lên phẩm nhơn loại thì họ mới nhập vào, để cùng bắt đầu một chu trình tiến hóa mới. Sự chờ đợi đó đôi khi phải mất hằng triệu năm thì lớp thú cầm mới tiến hóa lên được phẩm người.   Hội Long Hoa sa thải những kẻ gian ác [kém tiến hóa] tức là những kẻ thi rớt bằng cách nào?

Bằng những tai Trời ách nước như : Bão tố, lụt lũ, núi lửa, động đất, bịnh chướng sát hại. Mười phần nhơn loại rớt hết 9 phần, chỉ đậu 1 phần. Do đó, trước ngày khai Đại Hội Long Hoa, sẽ có một cuộc tang thương vĩ đại, để loại trừ 9 phần 10 nhơn loại kém tiến hóa đó, mà nhiều tôn giáo gọi đó là Tận Thế, là cuộc Phán Xét cuối cùng.

TNHT.I. 87 : "Kỳ Hạ nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tan, 10 phần chỉ còn lại 1 mà thôi. Than ôi ! Buồn thôi ! Nghĩ vì Thiên cơ định vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện ăn năn sám hối, lo việc tu hành, đồng với nhau cả quốc dân mà quì lụy khẩn cầu coi Trời có đoái tưởng đến chăng ? Bởi thế nên Đức Ngọc Đế và chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, mới lập Hội Tam Kỳ Phổ Độ đặng cứu vớt chúng sanh đương linh đinh nơi bể khổ. Nếu gặp thuyền Bát Nhã mà không xuống, không theo thì chắc thế nào cũng chơi vơi mé biển."

Sau cuộc biến động dữ dội gọi là Tận Thế đó, thì quả Địa cầu trở lại yên tĩnh, thời tiết trở lại điều hòa tốt đẹp, trược khí được thổi tan, nhơn loại còn lại là những người hiền lương đạo đức với hình dáng tốt đẹp, mạnh khỏe sống lâu. Đó là khởi đầu của giống dân Thần Thông Nhơn lập đời Thượng nguơn Thánh đức. Chư Tiên Phật sẽ giáng trần hướng dẫn nhơn loại tiếp tục tiến hóa lên cao hơn nữa. Do đó, Đức Chí Tôn có nói :

Chừng nào đất dậy Trời thay xác, Chư Phật, Thánh, Tiên, xuống ở trần.

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Đại Hội Long Hoa, xin trích ra sau đây: " Long Hoa Hội là gì ? Long Hoa Hội là một ngày, một buổi khảo lựa của toàn thể các chơn hồn, dầu Quỉ vị hay trong Thần vị cũng vậy, định khoa mục đặng lập vị thiêng liêng. Chúng ta hiểu rằng, mỗi Chuyển, tức nhiên là mỗi khoa mục. Hễ cuối một Chuyển, tức nhiên Hạ nguơn, là ngày định vị của các đẳng linh hồn. Thánh giáo Gia-Tô đã nói rằng : " Ngày xét đoán cuối cùng ", mà kỳ thật là ngày định vị cho chư Phật đó vậy.


Có một điều trọng hệ đương buổi nầy là buổi náo nhiệt, tại sao ? Tại mãn Hạ nguơn Tam Chuyển, Thiên thơ đã định Long Hoa Hội. Thánh giáo Chí Tôn nói : " Các con phải chung cùng nhau, tức nhiên lập Long Hoa Hội, định vị cho các chơn linh trong kỳ Hạ nguơn Tam Chuyển nầy, định vị cho họ đặng mở Thượng nguơn Tứ Chuyển cho các chơn linh." Ngài mở Long Hoa Hội ấy, tức nhiên Ngài định chấm đậu rớt cho các chơn linh vậy. Vì cớ cho nên, chúng ta ngó thấy có huyền vi bí mật nơi mặt thế nầy : Đức Chí Tôn đến mở Đạo ngày nay, chúng ta thấy oan gia nghiệp chướng trả liền buổi nầy, không cho thiếu, trả mãn mới thôi. "

Video liên quan

Chủ Đề