So sánh điểm giống và khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học

Phân biệt và so sánh chủ nghĩa xã hội không tưởng và khoa học [giống nhau và khác nhau].

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [137.49 KB, 10 trang ]

Câu 1-Phân biệt và so sánh chủ nghĩa xã hội không tưởng và khoa
học [giống nhau và khác nhau].
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một hệ thống các tư tưởng, các học
thuyết phản ánh ước mơ, khát vọng của con người về một xã hội tương lai tốt
đẹp, nhưng có tính chất không tưởng - thể hiện ở chỗ nó không chỉ ra được
con đường và lực lượng xã hội cũng như điều kiện và phương thức để thực
hiện ước mơ khát vọng đó. Tuy nhiên chủ nghĩa xã hội không tưởng lại có
một giá trị vô cùng to lớn, làm nền tảng để các nhà triết học như Cac Mac,
Ang ghen, Lê Nin phát triển thành khoa học, thành chủ nghĩa xã hội khoa
học.Những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng được xuất hiện từ thời
kỳ cổ đại, được phát triển và trở thành một học thuyết vào thời kỳ hình thành
chủ nghĩa tư bản và phát triển tới đỉnh cao là chủ nghĩa xã hội không tưởng
phê phán đầu thế kỷ XIX.
Ph. Angghen đã cho rằng chủ nghĩa xã hội khoa học là sự tiếp nối
Hangri Xanh Ximong [1760 – 1825], Sáclo phurie [1772 –1837] và Rôbot
Owen [ 1771- 1858] - 03 nhà tư tưởng tiêu biểu của chủ nghĩa xã hội không
tưởng TK19- mặc dầu tất cả tính chất ảo tưởng và không tưởng trong các học
thuyết của họ- thuộc về những trí tuệ vĩ đại nhất…. và đã tiên đoán được một
cách thiên tài vô số những chân lý mà ngày nay chúng ta đang chứng minh sự
đúng đắn của chúng một cách khoa học.
Có thể thấy sự hình thành và phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa là
một dòng chảy liên tục của lịch sử nhân loại. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa xuất
phát từ những ước mơ lâu đời trong quá trình đấu tranh giai cấp của đông đảo
những người lao khổ, nạn nhân của những chế độ người áp bức, bóc lột người
về một xã hội công bằng, bình đẳng, không có tình trạng người áp bức bóc lột
người và quan niệm về những con đường, giải pháp và những điều kiện tiến
tới xã hội tương lai tốt đẹp.
CNXHKH
Có thể nói chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có một quá trình phát triển
lâu dài và đạt đến đỉnh cao cào cuối TK XVIII, đầu TK XIX, với các nhà tư
tưởng tiêu biểu là Cơlôđơ Hăngri Đơ Xanh Ximông [1769 - 1825], Sáclơ


Phuriê [1772 - 1837] và Rôbớt Ôoen [1771 - 1858].
- Cơlôđơ Hăngri Đơ Xanh Ximông [1769 - 1825] Một trong những nội
dung quan trọng trong học thuyết của C.H. Xanh Ximông là lý luận về giai
cấp và xung đột giai cấp. Ông có sự nhận xét khá độc đáo về cuộc Cách mạng
tư sản Pháp. Tai họa của nó là ở chổ giai cấp tư sản đã thay thế giai cấp phong
kiến và giành quyền thống trị xã hội, nó chưa thiết lập được một chế độ phù
hợp với quyền lợi “giai cấp đông đảo nhất và nghèo khổ nhất”. Ông đòi hỏi
phải làm một cuộc cách mạng mới vì hạnh phúc của toàn xã hội nhằm xóa bỏ
những điều kiện bất công và phi lý, song ông lại chủ trương giải quyết bằng
con đường thuần túy hòa bình, thực hiện sự tuyên truyền để thúc đẩy các vua
chúa sử dụng quyền lực mà nhân dân giao phó cho họ để thực hiện những
biến đổi. Ông muốn xây dựng xã hội mới trên nguyên tắc điều hòa giai cấp và
không chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu. Nhưng với những tư tưởng bình đẳng
xã hội, nhân đạo chủ nghĩa và nhiều dự kiến độc đáo về xã hội tương lai mà
C.H. Xanh Ximông được thừa nhận là một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng
vĩ đại.
- Sáclơ Phuriê [1772 - 1837] là một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng,
một nhà phê phán và lên án xã hội tư sản một cách xuất sắc, một nhà tư tưởng
tiến gần đến chủ nghĩa Mác. Một trong những tư tưởng nổi bật của chủ nghĩa
Phuriê là sự phê phán và lên án xã hội tư sản một cách sâu sắc. Ph.S. Phuriê
thẳng tay lột trần cảnh khốn cùng, sự nghèo nàn về vật chất và tinh thần của
xã hội tư sản. Ông cho rằng, sự nghèo khổ sinh ra từ chính bản thân sự dồi
dào, hạnh phúc của thiểu số người này gây ra sự khổ ải cho đa số người khác.
Từ đó, Ph.S. Phuriê đòi hỏi phải thay thế xã hội tư sản bằng một xã hội mới
cao hơn. Xã hội mới, trong đó có sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân với lợi
ích tập thể, mỗi con người riêng biệt chỉ có thể tìm thấy điều có lợi cho họ
CNXHKH
trong cái lợi của toàn thể mọi người, mọi người đều có quyền lao động và
quyền sống.
Ph.S. Phuriê là người đầu tiên đã cho rằng, trình độ giải phóng phụ nữ

là mực thước tự nhiên để đo trình độ giải phóng chung. Ông quan niệm về
lịch sử xã hội phát triển qua bốn giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng,
văn minh. Ph.S. Phuriê chủ trương xây dựng xã hội mới vẫn còn chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất. Ông phản đối bạo lực cách mạng, xã hội mới hình
thành bằng thực hiện việc tuyên truyền cho người ta hiểu biết những “dục
vọng” của mình.
- Rôbớt Ôoen [1771 - 1858] R. Ôoen là một nhà tư tưởng nổi tiếng, một
nhà nhân đạo chủ nghĩa, một nhà cộng sản thực nghiệm. Khác với C.H. Xanh
Ximông và S. Phuriê, điểm nổi bật của học thuyết Ôoen là khuynh hướng phủ
nhận và lên án chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất một cách toàn diện và sâu sắc
nhất. Ông cho rằng, chế độ tư hữu đã và đang là nguyên nhân của vô số tội
phạm và tai họa mà con người phải chịu đựng. Nó là nguyên nhân gây ra sự
lừa đảo, gian lận, nạn mãi dâm, đói nghèo, tội lỗi, đau khổ và bao nhiêu tệ nạn
xã hội khác. Đó là một xã hội bất chính và bất hợp lý trong thực tiễn cần phải
xóa bỏ, thay thế bằng một xã hội hoàn mỹ - xã hội xã hội chủ nghĩa. R. Ôoen
đã tiến hành thực nghiệm xã hội, bằng cách xây dựng các công xã lao động.
Nổỉ bật là ở Niu La Nác [Anh] và Inđiana [Mỹ]. Trong tổ chức cơ sở của xã
hội mới, mọi thành viên sẽ sống như trong một gia đình. Nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của công xã được xây dựng trên cơ sở lao động tập thể, cộng
đồng sở hữu, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa tất cả các thành viên
Nhưng để có xã hội mới tốt đẹp, R. Ôoen cho rằng, cần phải có sự giúp đỡ
của những người lãnh đạo đất nước, những người giàu có.
Trên cơ sở những tư tưởng trên của chủ nghĩa xã hội không tưởng,
cùng với triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh, thông qua
hoạt động lý luận và thực tiễn, để Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và và
CNXHKH
phát triển hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học - những tư tưởng xã hội chủ
nghĩa và CSCN của nhân loại.
Chủ nghĩa xã hội khoa học hoàn toàn không phải là sự tiếp tục đơn giản
các tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa không tưởng, không phải

là sự sao chộp lại những tư tưởng quan điểm, những dự kiến của các nhà xã
hội chủ nghĩa không tưởng trước đây. chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở
thành khoa học, từ mơ ước đã trở thành hiện thực, chẳng những có cơ sở tất
yếu kinh tế - lịch sử, mà còn là kết quả của cuộc cách mạng trọng đại trong
khoa học xã hội được đánh dấu bằng tên tuổi của C,Mác và Ph.Ăngghen.
Các Mác và Ph.Ăngghen chuyển từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang
chủ nghĩa xã hội, từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Sự chuyển biến ấy được phản ánh trong các tác phẩm tiêu biểu như: Lời nói
đầu của Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Bản thảo kinh
tế - triết học 1844, Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh, Gia đình thần thánh,
Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng của triết học
Sự xuất hiện tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản vào đầu năm
1848 do Các Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo đánh dấu sự hình thành về cơ bản
chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý cơ bản được nêu ra trong tác
phẩm này đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa xã hội khoa học, nó thừa nhận sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là
người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó chứng minh cách mạng xã hội chủ
nghĩa là điều kiện tất yếu để chuyển chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, để
giai cấp công nhân từ giai cấp bị bóc lột trở thành giai cấp thống trị cả về
chính trị và kinh tế. Nó thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong
cuộc đấu tranh vì một xã hội mới. Nó cũng chứng minh sự cần thiết phải thực
hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản trong phong trào cộng sản và công nhân…Lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học được phát triển phong phú thêm nhờ tổng kết
kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân.
CNXHKH
Các Mác đã rút ra kết luận hết sức quan trọng là: để giành lại quyền
thống trị về chính trị, giai cấp công nhân cần đập tan bộ máy nhà nước quan
liêu tư sản, xây dựng một nhà nước mới, nhà nước chuyên chính vô sản. Các
nhà sáng lập chủ nghĩa khoa học đã xây dựng học thuyết về cách mạng không
ngừng, về liên minh giai cấp của giai cấp công nhân, về chiến lược, sách lược

đấu tranh giai cấp, về lựa chọn các phương pháp và hình thức đấu tranh trong
các thời kỳ phát triển và suy thoái của cách mạng, v.v
Có thể nói, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả của quá
trình hoạt động lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn của Các Mác và Ph.
Ăngghen từ buổi đầu những năm 40 của thế kỷ 19. Các Mác đã vận dụng và
phát triển thành công những quan điểm duy vật và phương pháp biện chứng
từ nền triết học cổ Hy Lạp đến nền triết học cổ điển đức; nhờ vậy đã phát hiện
ra các quy luật vận động của lịch sử, trước hết là quy luật về sự chuyển biến
của các hình thái kinh tế xã hội và sự kế tiếp nhau giữa các hình thái này. Và
Các Mác, Ph. Ăngghen đã sáng lập ra Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp theo đó
Các Mác đã vận dụng những quan điểm duy vật về lịch sử và những yế tố hợp
lý của nền kinh tế học cổ điển Anh vào nghiên cứu phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa một cách toàn diện và mang tính phê phán triệt để. Và hai ông
đã sáng lập ra Học thuyết về giá trị thặng dư.
Chính hai phát kiến vĩ đại ấy, quan niệm duy vật về lịch sử và dùng giá
trị thặng dư để bóc trần bí mật của sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã khiến cho
chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học. Sự ra đời của Tuyên ngôn Đảng cộng
sản với sự bắt đầu từ luận điểm “từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, lịch
sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp,”
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được phát hiện và thừa nhận. Đó là
sứ mệnh tự giải phóng mình và giải phóng cho toàn xã hội thoát khỏi tình
trạng phân chia thành giai cấp, áp bức, bóc lột giai cấp và đấu tranh giai cấp
thông qua cuộc cách mạng xã hội [CMVS]. Tuyên ngôn Đảng cộng sản được
thừa nhận là cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong trào cộng sản và công
CNXHKH
nhân quốc tế. Kể từ đây chủ nghĩa xã hội không còn bị xem là một phát hiện
ngẫu nhiên của một khối óc “kiệt xuất”, nhiệm vụ của nó cũng không phải
“nặn” ra từ đầu óc một chế độ “toàn mỹ” mà là ở chỗ phải nghiên cứu quá
trình kinh tế, lịch sử đã sản sinh ra giai cấp tư sản và công nhân cũng như mâu
thuẫn không thể điều hòa giữa hai giai cấp này. Với tư cách là một hệ thống

lý luận khoa học, chủ nghĩa xã hội KH không phải chỉ có nhiệm vụ dự kiến
những mục tiêu lý tưởng mà còn là ở chỗ tạo ra được những điều kiện vật
chất và tinh thần cần thiết để giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình.
Sự giống nhau
So sánh chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học do
Các Mác và Ăngghen sáng lập, ta thấy ở chúng có nhiều điểm giống nhau, đó
là:
- Chúng đều phản ánh những nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ
nghĩa : trong đó quan niệm về một chế độ xã hội mà mọi tư liệu sản xuất
thuộc về mọi thành viên, thuộc về toàn xã hội; tư tưởng xây dựng một chế độ
xã hội mà ở đó ai cũng có việc làm và ai cũng lao động, mọi người đều bình
đẳng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, Mọi người đều có điều kiện để
lao động, cống hiến, hưởng thụ và phát triển toàn diện.
- Thể hiện tinh thần nhân đạo chủ nghĩa cao cả, hướng tới con người, vì
nhân dân lao động, mong ước về một xã hội tốt đẹp hơn.
- Góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần chúng lao động,
đóng góp và thúc đẩy lịch sử tiến bộ, đặt một dấu mốc ghi nhận về sự phát
triển tư duy của loài người.
Có thể nói, tư tưởng nhân đạo và những quan điểm đúng đắn của các
nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng về lịch sử, về đặc trưng của xã hội tương
CNXHKH
lai đã trở thành một trong những tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của
chủ nghĩa xã hội khoa học.
a] chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phê phán và tiếp cận gần bản chất
của chủ nghĩa tư bản , vạch trần sự xấu xa, bất bình đẳng của các xã hội có
giai cấp, nhất là xã hộiTB. Giúp mọi ngừoi nhận thức được chế dộ tư hữu là
nguồn gốc của mọi tội lỗi và bất công trong xã hội.
b] Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã phác họa và dự đoán thiên
tài những nét chủ yếu trong xã hội mới ở tương lai. Đó là tư tưởng về một xã

hội công bằng, bình đẳng, mọi người sống, lao động và hưởng thụ như nhau.
Trong xã hội có sự thống nhất giữa những cá nhân và tập thể, tổ chức CT-xã
hội do dân cử, đề cao sự tiến bộ của KHKT và công nghiệp, gia đình có vai
trò quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội, thực hiện sự nghiệp giải
phóng phụ nữ,…Những tư tưởng đó sau này đã được các nhà sáng lập chủ
nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có chọn lọc và chứng minh chúng
trên cơ sở khoa học.
c] Các tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng đã chứa đựng nhiều
yếu tố của chủ nghĩa nhân đạo. Đó là những tư tưởng giải phóng con người,
tạo điều kiện để co người phát triển toàn diện, thể hiện tinh thần nhân đạo chủ
nghĩa vượt qua khỏi khuôn khổ hệ tư tưởng tư sản.
Đó là những luận điểm nguồn gốc về giai cấp và mâu thuẫn giai cấp,
về hạn chế của CMTS, về tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội; về
vai trò của công nghiệp và khoa học - kỹ thuật; về tư tưởng giải phóng toàn xã
hội, xoá bỏ sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, tạo điều kiện
cho con người phát triển toàn diện; về sự nghiệp giải phóng phụ nữ; về vai trò
lịch sử của nhà nước, xóa bỏ sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn.v.v
Cũng cần nhận thấy rằng tư tưởng, học thuyết của chủ nghĩa xã hội
không tưởng còn nhiều hạn chế so với chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây cũng
CNXHKH
chính là những điểm khác biệt lớn nhất giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng và
chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là:
- Về cơ bản, những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng chưa thoát khỏi
quan niệm duy tâm về lịch sử, do đó, đã không giải thích được nguyên nhân
của tình trạng bất công, bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản. Trong khi đó
thế giới quan của chủ nghĩa xã hội khoa học là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng được xây dựng chủ yếu từ những ước mơ từ
lòng nhân đạo của các nhà tư tưởng tiến bộ đương thời chứ không phải từ
những căn cứ thực tiễn và khoa học. Còn chủ nghĩa xã hội khoa học được xây
dựng trên những căn cứ khoa học. Đó là điều kiện kinh tế chín muồi của chủ

nghĩa tư bản và những tinh hoa trí tuệ của nhân loại đa đạt được đầu thế kỷ
XIX. Chủ nghĩa xã hội không tưởng không giải thích được bản chất của chế
độ nô lệ làm thuê, không phát hiện được quy luật vận động của chủ nghĩa tư
bản còn chủ nghĩa xã hội khoa học đa giải thích được đúng đắn bản chất của
chế độ tư bản chủ nghĩa qua việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư. Từ đó
chủ nghĩa xã hội khoa học đã có được những luận cứ khoa học để khảng định
sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa
xã hội.
- Hầu hết các nhà không tưởng đều có khuynh hướng đi theo con
đường ôn hòa để cải tạo xã hội bằng pháp luật và thực nghiệm xã hội. chủ
nghĩa xã hội không tưởng chưa vạch ra được phương pháp, con đường lối
thoát đúng đắn cho xã hội đương thời. Còn chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ
rõ con đường tất yếu và đúng đắn là con đường đấu tranh giai cấp, đấu tranh
cách mạng để xoá bỏchủ nghĩa tư bản thối nát và xây dựng thành công xã hội
mới - xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản .
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng chưa nhận thức được vai trò của quần
chúng nhân dân và cũng chưa nhìn ravị trí to lớn của giai cấp vô sản trong
việc xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và kiến tạo một trạt tự xã hội mới còn chủ nghĩa
xã hội khoa học đã nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng quan trọng hơn
CNXHKH
là thấy rõ sức mạnh và vị trí trung tâm của giai cấp vô sản trong cuộc đấu
tranh xoá bỏ xã hội tư bản lỗi thời và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
văn minh nhân đạo.
Có thể nói sự khác biệt về cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với
chủ nghĩa xã hội không tưởng là ở chỗ nếu chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa
trên những ý tưởng tốt đẹp, những mong muốn sẽ có một xã hội tương lai tươi
sáng nhưng không dựa trên cơ sở những quy luật vận động khách quan của
lịch sử, và sự luận chứng thiếu cơ sở khoa học, thì chủ nghĩa xã hội khoa học
dựa trên cơ sở của hiện thực thực tế, trên sự hiểu biết khoa học về quy luật
phát triển của xã hội cũng như về bản chất của con người.

Tuy nhiên tại thời điểm hình thành và phát triển tư tưởng xã hội chủ
nghĩa không tưởng- phê phán, sự phát triển của phương thức SX tư bản chủ
nghĩa và cùng với nó là sự đối lập giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản chưa
thực sự rõ rệt. Tương ứng với một trình độ chưa trưởng thành của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi là một lý
luận chưa chín muồi. Do đó, những hạn chế của chủ nghĩa xã hội không
tưởng là không thể tránh khỏi.
Như mọi hệ thống khoa học khác, chủ nghĩa Mác nói chung, chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng là một hệ thống chỉnh thể tri thức. Trong hệ thống
ấy, có các tri thức về các nguyên lý cơ bản phản ánh các quy luật vận động
biến đổi của xã hội là những tri thức phản ánh bản chất của khách thể, chúng
tồn tại mãi mãi với thời gian và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Các
tri thức về cách thức, biện pháp và phương pháp vận dụng các quy luật ấy có
thể thay đổi và cần phải thay đổi theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều
này, với tư cách là những nhà khoa học chân chính, sinh thời chính Các Mác
và Ph. Ăngghen cũng đã căn dặn chúng ta. Điều quan trọng là không thể và
không bao giờ được cho rằng những hạn chế, nhược điểm thậm chí cả sai lầm
trong các cách thức, biện pháp tác động mà các ông nêu ra là những sai lầm
của cả các tri thức phản ánh quy luật đã được nhận thức. Điều này cũng giống
CNXHKH
như, không thể vì những thất bại của hàng nghìn thí nghiệm của Êđixơn nhằm
sáng chế ra đèn điện mà lại nói rằng nguyên lý về sự có thể chuyển điện năng
thành nhiệt năng là sai lầm.
CNXHKH

So sánh sự giống và khác nhau của chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học

Mục lục

Từ nguyên

Thuật ngữ "chủ nghĩa cộng sản" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung "共產主義 cộng sản chủ nghĩa". Thuật ngữ "cộng sản chủ nghĩa" trong tiếng Trung được vay mượn từ tiếng Nhật. Trong tiếng Nhật chủ nghĩa cộng sản được gọi là "kyōsan-shugi" [âm đọc được ghi bằng Rōmaji], khi viết được ghi lại bằng bốn chữ Hán là "共產主義" [âm Hán Việt: cộng sản chủ nghĩa, xem bài Kanji để biết thêm thông tin về việc dùng chữ Hán trong tiếng Nhật]. "共產主義" là từ người Nhật đặt ra để dịch từ tiếng Anh "communism".[5] Ý của hai chữ "共產 cộng sản" là "共有財產 cộng hữu tài sản" [tài sản thuộc về sở hữu chung].[6] Tiếng Trung Quốc vay mượn "共產主義" của tiếng Nhật nhưng không đọc bốn chữ Hán đó theo âm đọc của chúng trong tiếng Nhật mà đọc theo âm đọc của chúng trong tiếng Trung Quốc.[5]

Từ chủ nghĩa cộng sản trong tiếng Anh "communism" bắt nguồn từ tiếng Pháp "communisme" [trong tiếng Pháp có nghĩa là chủ nghĩa cộng sản].[7]

Nguyên lý cơ bản

Chủ nghĩa cộng sản là một khái niệm rộng cần phải được hiểu như một tổng hợp các lý luận chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với các phong trào xã hội, phong trào chính trị rộng lớn - bắt đầu từ thế kỷ XIX, nở rộ và thoái trào trong thế kỷ XX - nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Trong đó mọi người là bình đẳng, không có hiện tượng "người bóc lột người" và tiến tới xóa bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới đại đồng" không có biên giới quốc gia khi người với người là bạn, thương yêu lẫn nhau. Tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra dồi dào tới mức phân phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Trong xã hội cộng sản, mỗi cá nhân được tự do phát huy mọi khả năng của mình theo triết lý "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người", tự do làm những điều không ảnh hưởng đến lợi ích và quyền tự do của người khác trên cơ sở tư liệu sản xuất chung để đảm bảo quyền tự do của tất cả mọi người. Các ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản đã có trước Marx từ rất lâu tại các nền văn minh khác nhau và được nhiều nhà tư tưởng đề cập đến. Có thể tìm thấy các ý tưởng này trong Công giáo, Đạo giáo, Nho giáo và nhiều tôn giáo khác. Marx là người đưa ra khả năng hiện thực hóa các ý tưởng đó trong tương lai dựa trên nền tảng kinh tế - xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra và xem đó như một sự tiến hóa của xã hội loài người.

Theo chủ nghĩa Marx thì trong lịch sử loài người đã và sẽ tuần tự xuất hiện 05 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao [các phân tích dưới đây dựa trên lịch sử châu Âu, ở các châu lục khác thì có thể sai biệt về niên đại hoặc thiếu hẳn 1 giai đoạn nào đó]:

  • Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản nguyên thủy [công xã nguyên thủy]: thời nguyên thủy lực lượng sản xuất rất thô sơ, lạc hậu, chủ yếu là săn bắt, hái lượm. Của cải vật chất thu được ít, bấp bênh, người kiếm được người thì không, do đó của cải đều là của chung và phải được phân chia đều giữa các thành viên bộ lạc để đảm bảo bộ lạc có thể duy trì sự tồn tại [đó chính là "cộng sản" thời nguyên thủy]. Quan hệ sản xuất đặc trưng: hợp tác sản xuất, công hữu tài sản trong mỗi bộ lạc.
  • Hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ: với sự ra đời của nông nghiệp và chăn nuôi thời kỳ đầu [khoảng 6.000 năm trước], bắt đầu có của cải dôi dư. Bắt đầu xuất hiện một nhóm người muốn chiếm lấy phần dôi dư đó, từ đó hình thành tư hữu và quý tộc. Các bộ lạc cũng bắt đầu gây chiến với nhau để tranh giành của cải và nhân lực, kẻ thua bị bắt phải trồng trọt, chăn nuôi cho kẻ thắng, từ đó hình thành chiếm hữu nô lệ. Quan hệ sản xuất đặc trưng: Chủ nô - nô lệ phục vụ không công cho chủ nô.
  • Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến: trình độ nông nghiệp và chăn nuôi phát triển hơn, đến cách đây khoảng 1800 năm, hình thức chiếm hữu nô lệ không đảm bảo năng suất cao như hình thức địa chủ - nông nô [do nông nô được giữ lại một phần sản phẩm cho mình nên sẽ có động lực lao động cao hơn nô lệ], đồng thời nô lệ bị áp bức mạnh hơn nên cũng dễ nổi loạn hơn nông nô. Chế độ chiếm hữu nô lệ dần biến mất, thay vào đó là phong kiến với các lãnh chúa cai quản nông dân. Quan hệ sản xuất đặc trưng: Địa chủ, lãnh chúa - nông dân canh tác và nộp địa tô cho địa chủ, lãnh chúa.
  • Hình thái kinh tế-xã hội chủ nghĩa tư bản: với sự ra đời của công nghiệp [từ thế kỷ XVI], của cải vật chất làm ra dần vượt xa nông nghiệp và chăn nuôi. Nhờ tích lũy được của cải, thế lực của các chủ xưởng công nghiệp ngày càng cao, dần lấn át cả địa chủ và vua chúa phong kiến. Giai cấp tư bản dần dần không chịu quy phục các lãnh chúa phong kiến, họ tiến hành các cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, thay thế vào đó là hình thái tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất đặc trưng: Chủ tư bản - công nhân làm thuê cho chủ tư bản.
  • Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa: hình thái này chưa tồn tại. Theo Marx, khi lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển, tất yếu dẫn tới nền sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa do nó đòi hỏi sự hợp tác của nhiều người khiến tư hữu mất vai trò đối với lực lượng sản xuất, thay vào đó lực lượng sản xuất cần được quản lý vì lợi ích xã hội. Theo Marx: "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên"[8] Quan hệ sản xuất đặc trưng: quan hệ hợp tác sản xuất bình đẳng với nhau, lực lượng sản xuất được quản lý vì lợi ích của xã hội.

Ý tưởng ban đầu của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa tự do với mục tiêu giải phóng con người và xã hội. Vì lý tưởng nhân đạo của nó, học thuyết này đã thu hút được sự chú ý của các tầng lớp quần chúng của thế giới trong thế kỷ XX, tạo nên một phong trào xã hội to lớn mà cuộc đấu tranh của nó là một nhân tố chủ đạo trong lịch sử loài người trong thế kỷ XX.[9] Tuy vậy, xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn nhà nước, quân đội, tư hữu, giai cấp, tôn giáo, xóa bỏ các mâu thuẫn sắc tộc đến nay vẫn chỉ là lý tưởng đẹp, chưa trở thành hiện thực.

Theo Marx, một con người sống ở thời đại của một hình thái kinh tế-xã hội cũ sẽ rất khó hình dung hình thái kinh tế-xã hội mới sẽ ra sao, họ thường không tin xã hội loài người sẽ biến chuyển sâu sắc như vậy [ví dụ: một người sống ở thời phong kiến thế kỷ XVI sẽ cho rằng một xã hội không có vua chúa chỉ là chuyện hoang đường, nhưng 400 năm sau điều đó đã trở thành sự thực ở đa số các nước trên thế giới]. Cũng như vậy, vào thời của Marx, người ta chưa thể mường tượng một xã hội không có các ông chủ tư bản sẽ tổ chức sản xuất ra sao, và làm thế nào mà mọi công dân đều có thể hưởng các phúc lợi xã hội [giáo dục, y tế, nhà ở, ăn mặc...] một cách miễn phí. Nhiều người nghĩ mô hình do Marx tiên đoán chỉ là viển vông. Nhưng đến đầu thế kỷ XXI thì những yếu tố ban đầu đã có thể nhận thấy: các công ty cổ phần ngày càng chiếm ưu thế so với công ty một chủ sở hữu, các công nghệ mới như robot, tin học, nano, lượng tử... bắt đầu hình thành. Khi được nghiên cứu hoàn chỉnh, các công nghệ mới sẽ đẩy khả năng sản xuất lên rất cao, vượt xa nền sản xuất công nghiệp truyền thống trong khi chi phí sản xuất sẽ rất rẻ [Ví dụ: chỉ cần 1 nhóm vài người, với sự trợ giúp của robot tự động có thể làm ra lượng sản phẩm tương đương hàng vạn công nhân hiện nay; hoặc một lít nước có thể tạo ra năng lượng bằng hàng triệu tấn than thông qua phản ứng hợp hạch nhân tạo]. Do sản lượng rất lớn và chi phí ngày càng thấp, các mặt hàng cơ bản sẽ được giảm giá tới mức chúng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng thu nhập của người lao động. Khi đó một người lao động không cần bỏ nhiều công sức cũng có thể nuôi sống cả gia đình ở mức sung túc.

Bên cạnh đó người lao động cũng có thể sở hữu cổ phần của chính công ty mình đang làm việc. Đồng thời hoạt động quản trị công ty cổ phần cũng bị tách ra khỏi quyền sở hữu của cổ đông. Đó chính là bằng chứng cho thấy tư bản ngày càng mang tính xã hội, do đó cần được quản trị chuyên nghiệp khiến nhà tư bản mất khả năng kiểm soát đối với lực lượng sản xuất. Đó là quá trình "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa" mà Marx tiên đoán. Tuy nhiên sự tách rời giữa sở hữu và quản trị cũng tạo ra xung đột lợi ích giữa ban quản trị và cổ đông được gọi là vấn đề ông chủ và người đại diện [agency problem] ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trong mô hình kinh tế Stalinist, các công ty nhà nước cũng gặp vấn đề này khi nhà nước là chủ sở hữu tư liệu sản xuất còn những người trực tiếp quản lý không sở hữu tư liệu sản xuất do đó có lợi ích khác với nhà nước. Giải pháp cho vấn đề này là tăng cường giám sát thông tin, chủ sở hữu nắm quyền kiểm soát và tăng quyền lợi cho ban quản trị.

Sở hữu

Trong xã hội cộng sản không còn sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, không còn sự phân phối thu nhập xã hội dựa trên lao động, không còn sự tha hóa của lao động là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Con người được giải phóng khỏi phân công lao động do nền sản xuất công nghiệp tạo ra để phát huy hết sở trường của mình. Đặc điểm khác biệt của chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa xã hội chỉ đạt mục đích tư liệu sản xuất thuộc về toàn dân thông qua Nhà nước quản lý, [hay hình thức sở hữu tập thể, hợp tác, công xã hoặc sở hữu xã hội hóa - quản lý kiểu vô chính phủ], còn không hướng đến sự xóa bỏ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, xóa bỏ sự phân phối thu nhập xã hội theo lao động.

Phân phối

Trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa nền sản xuất chưa phát triển đến mức đủ sức thỏa mãn nhu cầu của tất cả mọi thành viên trong xã hội nên nguyên tắc phân phối của cải trong chủ nghĩa xã hội là "Làm theo năng lực, hưởng theo lao động"[10] có nghĩa là làm đúng với khả năng, và được hưởng theo đúng đóng góp cho xã hội. Do có sự chênh lệch kỹ năng, trí tuệ, thể lực giữa các thành viên trong xã hội nên sẽ có sự bất bình đẳng trong phân phối của cải xã hội. Sự bất bình đẳng của cải sẽ được xóa bỏ khi lực lượng sản xuất phát triển cao đủ sức thỏa mãn nhu cầu của tất cả mọi người. Việc phân phối thu nhập xã hội theo lao động bị thay thế bằng phân phối theo nhu cầu. Theo Marx "Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng đang chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.[11]".

Giai cấp

Trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa, vẫn còn có sự phân công lao động do đó vẫn tồn tại giai cấp theo phân công lao động là công nhân và nông dân, và tầng lớp trí thức. Sự phát triển của trình độ sản xuất sẽ dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất, đưa đến sự xóa nhòa giai cấp, và xóa nhòa ranh giới lao động trí óc - chân tay. Sau khi giành được chính quyền, quốc hữu hóa các tư liệu sản xuất, giai cấp vô sản công nông tự tổ chức xã hội mới, xây dựng con người mới có đủ trình độ, ý thức để làm chủ xã hội, có trách nhiệm với xã hội, với cộng đồng trên tình thân ái, giúp đỡ lẫn nhau, với tư liệu sản xuất chung, dần xóa nhòa ranh giới giàu - nghèo trên tinh thần cộng đồng, bác ái, bằng lao động chân chính [chứ không phải người nghèo "nhận bố thí" của người giàu trong các mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu an sinh hay thiện nguyện]. Cách mạng xây dựng xã hội mới thông qua lao động mà Lenin cho rằng "Đó là bước đầu của một cuộc cách mạng khó khăn hơn, căn bản hơn, triệt để hơn, quyết liệt hơn là việc lật đổ giai cấp tư sản, vì đó là một thắng lợi đối với bệnh thủ cựu của chúng ta, đối với tình trạng lơi lỏng của chúng ta, đối với bệnh ích kỷ tiểu tư sản của chúng ta, đối với những tập quán của chủ nghĩa tư bản tệ hại đã để lại cho công nhân và nông dân[12]".

Nhà nước

Theo phương pháp luận của Marx [duy vật lịch sử] thì khi xóa bỏ giai cấp và tư hữu, thì Nhà nước tự diệt vong, vì cơ sở tồn tại của nó là tư hữu và giai cấp không còn nữa. Lúc đó chế độ cộng sản được xây dựng dựa trên nền tảng sở hữu công cộng và làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Lenin cũng cho rằng "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được."[13] Chính vì thế theo Lenin "Mục đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi, là thủ tiêu nhà nước, nghĩa là thủ tiêu mọi bạo lực có tổ chức và có hệ thống, mọi bạo lực, nói chung, đối với con người. Chúng ta không mong có một chế độ xã hội mà trong đó nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số sẽ không được tuân theo. Nhưng khi hướng đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta tin chắc rằng chủ nghĩa xã hội sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng sản, và do đó, nói chung sẽ không còn cần thiết phải dùng bạo lực đối với con người, không cần thiết phải buộc người này phục tùng người khác, bộ phận dân cư này phục tùng bộ phận dân cư khác, vì người ta sẽ quen tuân theo những điều kiện thông thường của đời sống tập thể, mà không cần có bạo lực và không cần có phục tùng".[13]

Lenin quan niệm chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản, là giai đoạn chuyển tiếp đi lên chủ nghĩa cộng sản mà ở đó vẫn còn nhà nước để lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Vai trò nhà nước và pháp luật mờ dần đi khi nhân dân tự gánh vác các công việc xã hội, điều hòa lợi ích, giảm thiểu mâu thuẫn, trên cơ sở tư liệu sản xuất chung, phân phối công bằng và đầy đủ, thỏa mãn. Giai cấp vô sản giành quyền lực trên toàn thế giới, giai cấp vô sản các nước tiên tiến hơn giúp đỡ giai cấp vô sản các nước lạc hậu hơn tiến kịp. Như vậy cùng với sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cộng sản trong mỗi nước, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới là sự nghiệp chung của vô sản toàn nhân loại. Khi các nước hoàn thành xây dựng chủ nghĩa cộng sản, toàn bộ Nhà nước và hệ thống pháp luật trên toàn thế giới không còn cần thiết nữa, các quốc gia biến mất. Chủ nghĩa đại đồng cũng là để bảo đảm công bằng chiếm hữu tài nguyên của các dân tộc khác nhau trên toàn thế giới, và triệt tiêu chủ nghĩa đế quốc.

Video liên quan

Chủ Đề