Thuốc hay TAY ĐẢM có nghĩa là gì

Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao.

Việc nói thành ngữ là một tập hợp từ cố định có nghĩa là thành ngữ không tạo thành câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, cũng không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ. Thành ngữ thường bị nhầm lẫn với tục ngữ và quán ngữ. Trong khi tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý nhằm nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, hay phê phán sự việc, hiện tượng. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tác phẩm văn học khá hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, và chức năng thẩm mỹ, cũng như chức năng giáo dục. Còn quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành.

Định nghĩa - Khái niệm

mát tay hơn hay thuốc có ý nghĩa là gì?

Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của câu mát tay hơn hay thuốc trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ mát tay hơn hay thuốc trong Thành ngữ Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ mát tay hơn hay thuốc nghĩa là gì.

Chăm sóc chu đáo, cẩn thận còn hơn là thuốc tốt.
  • làm cỗ sẵn cho người ăn là gì?
  • lạc đường nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu là gì?
  • nghĩa tử là nghĩa tận là gì?
  • một đời kiện, chín đời thù là gì?
  • con vua tốt, vua dấu; con tôi xấu, tôi yêu là gì?
  • nắng tháng ba chó già lè lưỡi là gì?
  • giả nhân giả nghĩa là gì?
  • muốn ăn, gắp bỏ cho người là gì?

Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu "mát tay hơn hay thuốc" trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt

mát tay hơn hay thuốc có nghĩa là: Chăm sóc chu đáo, cẩn thận còn hơn là thuốc tốt.

Đây là cách dùng câu mát tay hơn hay thuốc. Thực chất, "mát tay hơn hay thuốc" là một câu trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt được cập nhập mới nhất năm 2022.

Kết luận

Hôm nay bạn đã học được thành ngữ mát tay hơn hay thuốc là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập tudienso.com để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.

Lòng vả cũng như lòng sung

Câu truyền miệng “Lòng vả cũng như lòng sung” ám chỉ một điều lòng ta thế nào thì lòng người cũng thế. Ta sao người vậy, chớ vội chê người mà không xét mình.

Ông chẳng bà chuộc

Thành ngữ “ông chẳng bà chuộc” biểu thị sự chủng chẳng không ăn khớp, không hợp nhau về ý nghĩa cũng như việc làm giữa người này và người khác.

Hàng tôm hàng cá

Thành ngữ hàng tôm hàng cá trong tiếng Việt “chỉ những người hay cãi lộn nhau một cách nhỏ nhen” [Đào Văn Tập - Từ điển Việt Nam].

Há miệng chờ sung

Với thành ngữ "Há miệng chờ sung", nhân dân ta nhằm đả kích những kẻ lười biếng chực ăn sẵn bằng cầu may.

Giàu làm kép hẹp làm đơn

Trong tiếng Việt, “kép” và “đơn là hai từ trái nghĩa, “kép” là “đôi, hai, cặp”, trái với “đơn” là “một”.

Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương

Trong tiếng Việt, câu tục ngữ khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương được hiểu là khôn thì phải khôn hẳn, khôn đến mức khiến người ta phải sợ, phải kính nể, còn nếu dại thì cũng phải biết thân, biết phận để người khác dễ thông cảm, bỏ qua mà tỏ lòng kính mến, yêu thương.

Đa nghi như Tào Tháo

Ở nước Trung Hoa thời Tam Quốc có viên quan Thừa tướng nổi tiếng đa nghi họ Tào, tên Tháo. Hắn đa nghi đến mức không tin bất kì ai trên dời dù người đó là tướng có tài hay người lính đã hết lòng phục vụ và bảo vệ hắn.

Niêu cơm Thạch Sanh

Câu thành ngữ chỉ của cải vật chất không bao giờ hết, hết lại có, vơi lại đầy.

Như vợ chồng sam

Câu thành ngữ chỉ vợ chồng chung thủy, sống chết bên nhau, luôn luôn cùng nhau.

Gửi chứng cho ác

Con quạ còn được gọi là ác. Gửi trứng cho ác tức là gửi trứng cho quạ, mà trứng là món ăn quạ thèm khát. Câu thành ngữ ở đây hàm ý nói kẻ khờ dại, thật thà tin tưởng cậy nhờ vào kẻ bất lương, gửi gắm niềm tin, tình cảm của mình vào kẻ ác mà không biết.

Chết đuối vớ được cọc

Câu thành ngữ chỉ việc gặp may mắn, đang lúc nguy ngập lại có chỗ bám víu, thoát khỏi tình trạng tuyệt vọng.

Chữ như gà bới

Thành ngữ này ý chê người viết chữ xấu, nguệch ngoạc, thiếu nét, chẳng có hàng lối.

Ốc không nổi mình ốc lại mang cọc cho rêu

Câu thành ngữ ý nói về việc lo liệu cho mình chẳng xong lại còn ôm đồm, cáng đáng cho người khác.

Ông Tơ bà Nguyệt

Thành ngữ chỉ những người mối lái trong việc dựng vợ gả chồng, xe duyên cho đôi lứa.

Cốc mò cò xơi

Câu thành ngữ nói đến việc làm uổng công, vô ích, làm cho người khác hưởng.

Mưa không khắp

Câu thành ngữ ý nói về việc phân phát không đều, kẻ được người không, nơi ít nơi nhiều.

Một miệng thì kín, chín miệng thì hở

Câu thành ngữ ý nói bất cứ chuyện gì đã đến người thứ hai biết thì khó giữ được bí mật.

Mất bò mới lo làm chuồng

Câu thành ngữ chỉ kẻ không biết lo liệu đề phòng trước, để việc hỏng rồi mới ứng cứu, lo liệu phòng thân. Cũng hàm ý chỉ kẻ dốt nát.

Lừa ưa nặng

Lừa cũng có ích như ngựa, người ta dùng để chở hàng hoặc cưỡi. Đặc điểm của lừa là khi trên lưng không thồ hàng hoặc thồ quá nhẹ thì quất thế nào cũng cứ ỳ ra. Thành thử người ta phải chất lên lưng lừa hàng nặng hoặc cưỡi lên thì lừa ta mới chịu cất bước. Từ đặc điểm trên, người ta suy ra với nghĩa bóng ám chỉ người nào đó không chịu nghe lời nói nhẹ nhàng, chỉ khi nặng lời hoặc dùng roi vọt, vũ lực mới nghe theo.

Một nghề thì sống đống nghề thì chết

Câu thành ngữ ý nói một nghề mà giỏi thì thành đạt, một nghề mà chắc chắn thì sống, đừng có hời hợt, nghề gì cũng biết nhưng không chuyên một nghề gì thì sẽ đổ vỡ không thành.

Mèo già hóa cáo

Câu thành ngữ ý nói đến kẻ tinh ranh càng lâu ngày càng thêm tinh khôn ranh mãnh.

Lươn ngắn lại chê chạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm

Câu thành ngữ hàm ý chỉ kẻ không biết người, biết mình, chỉ biết chê người chứ không biết mình cũng có tật như người.

Thả mồi bắt bóng

Câu thành ngữ ý nói bỏ đi cái đã nắm chắc trong tay để chạy theo cái chỉ là hy vọng viển vông không thực tế.

Tham thì thâm

Câu thành ngữ hàm ý chê trách kẻ tham lam sẽ gặp điều xấu, hám lợi, dễ bị lừa, bị hại.

Ma ăn cỗ

Chưa ai rõ ma hình dạng thế nào nhưng theo quan niệm trong dân gian thì ma là linh hồn người chết đi lang thang. Câu thành ngữ ý nói không thể biết được việc xấu người ta làm vụng trộm, giấu giếm.

Như vợ chồng ngâu

Câu này hàm ý chỉ cảnh vợ chồng xa cách, biệt ly.

Qua cầu rút ván

Câu thành ngữ có ý ám chỉ những người vô ơn, bội nghĩa.

Xui nguyên giục bị

Câu thành ngữ chỉ việc xúi bẩy, kích động cả hai bên kiện cáo nhau.

Lấy thúng úp voi

Câu thành ngữ ngụ ý nói về một việc làm khó khăn, không thể thực hiện được cố che giấu một việc lộ liễu.

Chuồn chuồn đạp nước

Câu thành ngữ ý nói về việc làm ăn lớt phớt, chiếu lệ qua loa cho xong chuyện, không sâu sắc, kỹ càng.

Hằng Hà sa số

Câu thành ngữ nói đến sự nhiều được ví như cát sông Hằng Hà. Nhiều vô kể không đếm xuể.

Gan cóc tía

Câu thành ngữ chỉ sự gan góc, lì lợm, dám đương đầu với thế lực lớn hơn. Người nào không biết sợ hiểm nguy ta ví người đó có gan, gan như cóc tía.

Một mất mười ngờ

Câu thành ngữ ý nói về việc khi người ta mất của dễ nghi ngờ lung tung, thường ngờ vực cho kẻ này, người nọ.

Ruột để ngoài da

Câu thành ngữ chỉ người vô tâm vô tính, bộp chộp, không giấu ai điều gì.

Phúc họa khó lường

Cái họa cái phúc ở đời khó lường được, may thành rủi, rủi thành may.

Mũ ni che tai

Ý nghĩa của câu thành ngữ nói về thái độ bàng quang, tiêu cực, gác bỏ ngoài tai mọi sự đời, trốn tránh đấu tranh.

Giậu đổ bìm leo

Câu thành ngữ có ý muốn nói đến việc lợi dụng người ta gặp điều không hay hoặc khó khăn, hoạn nạn để lấn lướt, áp đảo.

Chuột sa chĩnh gạo

Câu thành ngữ ý nói may mắn gặp được nơi sung sướng, đầy đủ một cách tình cờ, ngẫu nhiên, ví như chuột lọt được vào chĩnh đựng gạo, tha hồ mà ăn không phải khổ công tìm kiếm hàng ngày.

Bàn tay có ngón ngắn ngón dài

Câu thành ngữ muốn nhắc nhở con người ta không nên đánh đồng tất cả cùng loại, tất cả giống nhau vì mỗi người mỗi vẻ, mỗi việc mỗi khác.

Cá chậu chim lồng

Câu thành ngữ ám chỉ cảnh sống bó buộc, tù túng, mất tự do.

Đẽo cày giữa đường

Câu thành ngữ này hàm ý chỉ kẻ hành động ngu ngốc, không có chủ kiến, luôn bị động nên hay thay đổi theo ý kiến người khác, cuối cùng chẳng đạt được kết quả gì. Còn có câu: Đồ ba phải. Mười rằm cũng ư, mười tư cũng gật.

Yêu nên tốt, ghét nên xấu

Giải nghĩa: Khi yêu thì cái gì cũng đẹp, cũng hay, thậm chí là khi có lỗi cũng cho là tốt. Khi ghét thì ghét đến chân tơ kẽ tóc, người ta có tốt cũng cho là xấu. Vì vậy còn có câu: “Khi yêu thì củ ấu cũng tròn, khi ghét thì bồ hòn cũng méo”. Sự yêu ghét làm cho người ta mất cả cái đúng đắn, đối xử thiên lệch, thiếu khách quan, đến mức “Chanh cũng khen ngọt mà hồng chê chua”.

Quạ nào mà chẳng đen đầu

Khẳng định đầu con quạ nào cũng đen. Đen ở đây là ý xấu xa. Thành ngữ ví von cùng một giuộc, cùng bản chất xấu xa như nhau cả. Còn có câu: Giống quạ đen đầu. Đen như quạ.

Nằm gai nếm mật

Nằm trên gai nhọn, nếm mật đắng để tự đầy ải thân mình nhằm nuôi chí phục thù. Ý nói chịu đựng mọi gian khổ để mưu việc lớn. Còn có câu: Nấm mật nằm gai. Ăn sương nằm gió. Nằm sương gối đất. Gối đất nằm gai. Dãi gió dầm mưa cũng hàm chỉ ý trên.

Chắp cánh liền cành

Con chim bị lìa cánh được chắp lại, cây cành bị gẫy lại liền. Ý nói: Đôi trai gái gắn bó với nhau, tình nghĩa vợ chồng khăng khít. Còn có câu: “Chim liền cánh, cây liền cành” gần nghĩa với “gương vỡ lại lành”.

Đứt đuôi con nòng nọc

Ếch nhái ở giai đoạn mới sinh trưởng, sống dưới nước, thở bằng mang và có đuôi. Nòng nọc là cóc mới nở từ trứng ra, sống thành đàn ở đám ruộng, ao. Đến kỳ hạn, nó đứt đuôi nhảy lên bờ sống trên cạn. Còn có câu: Nòng nọc đứt đuôi, chính là giống cóc. Ý của câu này là: Rõ ràng dứt khoát, việc nào ra việc ấy, cái nào ra cái ấy.

Gương vỡ lại lành

Hàm ý chỉ sự chia lìa, tan vỡ, sau đó lại được hàn gắn, đoàn tụ. Câu này thường vận để nói đến tình duyên vợ chồng.

Lá lành đùm lá rách

Thành ngữ chỉ sự đùm bọc, cưu mang giúp đỡ nhau trong khó khăn, gian nan, hoạn nạn. Còn có câu: Ăn mày thương lấy nhau. Lá rách ít đùm lá rách nhiều.

Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo

Thành ngữ chỉ: Người thiếu trung thực, điêu toa, lật lọng. Còn có câu: Lắt léo như miệng lưỡi.

Đồ Sở Khanh

Sở Khanh, một nhân vật trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Nghĩa bóng: kẻ phản trắc, lừa lọc, đĩ bợm, bạc tình.

Của ít lòng nhiều

Ý nói: Của đem cho tặng, không đáng là bao nhưng tình cảm thì chân thành, nặng nghĩa tình. Còn có câu: Của một đồng, công một nén.

Nước chảy chỗ trũng

Nước là chất lỏng nên chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp là quy luật tự nhiên. Nghĩa bóng câu này chỉ của cải, lợi lộc cứ dễ dàng rơi vào tay kẻ giàu có, đã giàu lại càng thêm giàu. Còn có câu: Của cải vào cả nhà giàu.

Cha truyền con nối

Nghĩa là kế tục chức tước, địa vị, cha trước con sau nối tiếp từ đời này sang đời khác. Đây là một tục lệ của chế độ quân chủ chuyên chế. Thời phong kiến, không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước trên thế giới đều có hiện tượng này. Câu thành ngữ này chỉ rõ cha làm vua, làm quan sẽ truyền ngôi, truyền chức vị lại cho con. Còn có câu: “Con nối cha truyền. Phụ truyền tử kế”.

Rồng đến nhà tôm

Rồng là con vật huyền thoại được dân gian tôn thờ, từ cá chép hóa thành. Trước kia, rồng cùng sinh sống dưới nước với tôm. Hàm ý: Người cao quý đến thăm kẻ thấp hèn. Lời nói nhún nhường của chủ nhà với khách. Còn có câu: Sàn hoang được thấy rồng lượn.

Môi hở răng lạnh

Môi và răng là hai bộ phận của cơ thể, gắn liền với nhau, có liên quan với nhau. Hành động của người này có ảnh hưởng đến người khác. Ý nói anh em tình nghĩa ruột già, nghĩa tình đồng bào một nước nên che chở đùm bọc lấy nhau. Còn có câu: Máu chảy ruột mềm. Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ...

Muỗi đốt chân voi

Nghĩa bóng: Không ăn thua, không tác dụng gì, tốn công vô ích. Còn có câu: Như muỗi đốt chân voi. Như muỗi đốt cột đình. Muỗi đốt sống trâu.

Học vẹt

Thành ngữ chỉ: Học ra rả, học thuộc làu làu nhưng không hiểu cái gì. Còn có câu: Học như vẹt. Học như cuốc kêu.

Văn hay chữ tốt

Thành ngữ chỉ: Người học giỏi, thông minh, tài hoa. Còn có câu: Chữ tốt văn hay. Ngược với câu: Văn dốt võ nát.

Ngang như cua

Do cấu trúc cơ thể, nên cua bò ngang chứ không tiến thẳng như con vật khác. Còn có câu: Ngang như cành bứa. Nghĩa bóng: Rất ngang bướng, nói năng, cư xử khác lẽ thường, khăng khăng không chịu nghe theo người khác.

Nhanh như cắt

Cắt: Loài chim dữ, cánh có lông cứng và nhọn, bay nhanh, hay đánh loài chim khác. Còn có câu: Nhanh như bay. Nhanh như điện. Nhanh như sói. Nhanh như tên bắn.

Mỗi cây mỗi hoa

Thực tế, cây nào hoa ấy là do tạo hóa sinh ra. Nói một cách giản dị là “cây nào hoa ấy”, “chẳng hoa nào giống hoa nào”. Từ đó, suy ra vế hai “mỗi nhà mỗi cảnh”, không mấy ai giống ai.

Của người phúc ta

Nghĩa bóng: Ban phát hay sử dụng tiền bạc, đồ vật của người khác để lấy ơn cho mình. Câu gần nghĩa: Lấy xôi làng đãi ăn mày.

Tương cà gia bản

Tương là loại nước chấm làm bằng đỗ, cà là thức ăn dễ làm đối với nông dân. Người nông dân coi những thức ăn này làm cơ bản trong sinh hoạt. Vì thế, mới có câu: “Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản”. Ý nói: Cuộc sống, ăn uống thanh đạm, không cao lương mĩ vị, nhưng bền chắc, lâu dài.

Nước mắt cá sấu

Khi nuốt con mồi xong, cá sấu thường thải ra một lượng muối thừa qua khóe mắt. Lượng muối đó dễ bị nhầm với nước mắt. Thành ngữ hàm ý: Khóc lóc giả dối, vờ vịt che đậy dã tâm của mình, hòng giấu bộ mặt thật.

Thuốc đắng dã tật

Thuốc trị bệnh có nhiều vị, tất phải có vị đắng. Vị đắng khó uống hơn vị ngọt, nhưng tan bệnh. Còn vị ngọt đánh lừa cái lưỡi chứ không khỏi bệnh được. Ý nói: Thuốc có vị đắng mới trị lành được bệnh.

Cháy nhà mới ra mặt chuột

Sự kiện cháy nhà làm cho chuột lộ mặt là một hiện thực làm cho người dễ nhận biết. Cũng từ hiện thực này mà suy ra theo hàm ý của thành ngữ là: Nhân khi có biến cố mới phát hiện ra tung tích của kẻ xấu, kẻ phá hoại, bộc lộ bộ mặt thật của kẻ giả nhân giả nghĩa.

Cá không ăn muối cá ươn

Tự phụ, tự cao, cái bệnh ấy khác gì cá không ăn muối [ướp muối]. Lắng nghe theo lời người trên, làm theo cái phải ấy là người biết. Cha ông đúc rút kinh nghiệm quả là tài tình.

Cá hóa rồng

Con Rồng là truyền thuyết, là sự tưởng tượng của dân gian, cho rằng nó từ cá chép mà thành. Rất có thể từ một truyền thuyết mà có câu chuyện trên, rồi từ chuyện đó mà nên thành ngữ “cá chép hóa rồng” để răn dạy sự học hành, thi tài của người đời, nếu chịu khó, quyết tâm sẽ thành đạt, trở nên danh giá… Tuy nhiên cũng có kẻ may mắn, gặp thời mà “lên xe xuống ngựa”, nhưng phải nhớ rằng gốc gác, cội rễ của mình cũng chỉ từ sự bình thường mà nên. Chớ lấy cái danh giá của hiện tại mà coi thường người khác.

Cá chuối đắm đuối vì con

Cá chuối: Một loài cá nước ngọt [còn có nơi gọi là cá quả, cá lóc] rất chăm con. Nghĩa bóng: Cha mẹ chịu mọi khó khăn, gian khổ, quên mình vì con cái. Còn có câu: Cá chuối đắm đuối về con.

Máu ghen Hoạn Thư

Đã đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du mấy ai quên được Hoạn Thư, con người “Ở ăn thì nết cũng hay. Nói điều ràng buộc thì tay cũng già”. Mà nhớ nhất là sự đánh ghen của người đàn bà họ Hoạn này, cái ghen sâu sắc, âm thầm mà độc địa, tàn khốc.

Lá thắm chỉ hồng

Những câu nói trong dân gian như lá thắm, tơ hồng vương vấn hoặc nguyệt lão xe tơ đều lấy trong điển tích ông tơ bà nguyệt...

Bọ ngựa chống xe

Hình ảnh con bọ ngựa giương càng lên như lưỡi gươm trước cỗ xe lớn mà không hề run sợ thì thật đáng phục, nhắc kẻ nhút nhát soi mình. Tuy nhiên, thành ngữ này còn chỉ sự đấu tranh không cân sức, dẫn đến tình thế nguy hiểm, thường là lâm vào thất bại. Đó là điều không nên làm.

Ăn lông ở lỗ

Chuyện này dựa theo “Biên niên lịch sử”. Tuy vậy, thành ngữ “Ăn lông ở lỗ” giờ đây chỉ dành để nói những người sống theo kiểu hoang dã, sống chui rúc, bẩn thỉu, ăn sống nuốt tươi mất vệ sinh, thiếu sự hiểu biết, thiếu văn hóa.

Bàn tay không che nổi mặt trời

Sự ngộ nhận là căn bệnh của kẻ gian dối, lừa bịp. Nhiều kẻ vụng trộm, biển thủ của công và của người khác cứ tưởng bàn tay che được mặt trời, nhưng ở đâu cũng có ánh sáng tường tận, trước sau gì rồi sự lừa dối ấy cũng được đưa ra ánh sáng giống như: “Vải thưa không che được mắt thánh” vậy.

Ngựa quen đường cũ

Chuyện với nghĩa đen thì con ngựa tài tình, giúp chủ tìm lại đường về, đó là do khứu giác. Vận dụng vào cuộc sống, dân gian đã nói chệch đi, lại chỉ ra rằng: Quen cái mùi cũ, cái việc cũ mà không dứt ra được, tật nào vẫn chứng ấy, khó hòng mà cải sửa, cứ lao đầu vào. Vận như thế quả thật tài tình.

Tấc đất tấc vàng

Đất làm ra lúa gạo ngô khoai quý như vàng vậy. Hãy biết tận dụng và trân trọng từng tấc đất...

Bóc ngắn căn dài

 “Bóc ngắn cắn dài”, lệ thường chỉ hành vi tham ăn tục uống. Nhưng người đời thì lấy cái sự ấy để chỉ những kẻ “Làm thì ít, mà muốn hưởng thụ nhiều, rộng ra là phê phán kẻ làm ăn cò con, hám lợi, bỏ sức bỏ vốn thì ít nhưng muốn thu lợi nhiều, điều đó dễ dàng dẫn đến những vi phạm đạo đức, pháp luật, hòng che đậy hành vi “quá tay” của mình.

Lòng vả cũng như lòng sung

Câu truyền miệng “Lòng vả cũng như lòng sung” ám chỉ một điều lòng ta thế nào thì lòng người cũng thế. Ta sao người vậy, chớ vội chê người mà không xét mình.

Hồng nhan bạc mệnh

Từ Truyện Kiều, người đời vận vào cuộc sống, cảm thương xót xa cho số phận của người con gái xinh đẹp nhưng chịu nhiều cay đắng, tủi cực hoặc cuộc đời ngắn ngủi.

Đẹp như Tiên

Tiên thì ai cũng mơ tưởng tới. Nhưng có hay không và cái giá phải trả để có được tiên mới là cái cần bàn. Ước mơ hão huyền chỉ có ở những người thiếu thực tế. Nhưng theo trí tưởng tượng của người đời thì nàng tiên vẫn là người đẹp nhất, thường sống ở trên trời, bay thướt tha mọi nơi, vì thế truyện cổ tích thường nhắc đến tiên là vậy.

Dốt hay nói chữ

Chuyện dốt hay sính chữ không chỉ chuyện xưa. Nay có kẻ dốt làm quan, nhất là quan pháp đình thì thiên hạ khổ lắm lắm! Một phán quyết sai làm hại cả nhà, thậm chí cả một cộng đồng xã hội. Vì vậy truyện “Tam đại con gà” chính là hiểu được kẻ dốt nói chữ là như thế nào. Chuyện này âu cũng cho đời một bài học.

Công cha nghĩa mẹ

Quả thật là cha sinh mẹ dưỡng. Công cha mẹ sinh thành dưỡng dục to lớn như núi, mãi mãi mát trong dồi dào như nước trong nguồn chẳng bao giờ cạn. Con cái phải luôn ghi nhớ điều đó để phụng dưỡng đền ơn cha mẹ. Thế mới là người có hiếu, có nhân đức.

Giật gấu vá vai

Giật gấu vá vai là chỉ việc làm ăn luẩn quẩn cò con, không tạo ra được sự thay đổi lớn, lâu dài mà chỉ có tính chắp vá nhất thời. Chuyện cái vai và cái gấu trên đây là hình ảnh của kẻ khó làm ăn tạm bợ, nhưng cũng có ý chỉ tình cảnh cần giúp đỡ nhau.

Đất có thổ công, sông có hà bá

Ở đâu làm gì cũng cần tôn trọng luật lệ chung, không thể tự ý, tự quyền bất chấp quy định.

Bán lợi mua danh

Bán lợi, lợi đây không chỉ cái vật chất mà có cả tinh thần, để mua lấy một sự danh giá. Bây giờ nâng cao hơn một bước là mua danh, trục lợi người ta khái quát thành chữ “chạy”. Cái sự mua danh trục lợi, chạy chức, chạy quyền tồn tại trong xã hội đối với những kẻ phàm phu.

Bán trời không văn tự

Bông lông, khoác lác dành cho những kẻ “Bán trời không văn tự”. Những con người như thế ắt chẳng làm nên tích sự gì. Vậy mà lắm kẻ vẫn dùng miệng lưỡi ấy mà lừa gạt được thiên hạ mới hay.

Ăn mày đánh đổ cầu ao

Đi ăn mày xin được chút ít lại đánh đổ mất cả ở cầu ao không vớt vát được gì. Thành ngữ này chỉ sự khốn cùng lại gặp đen đủi, không may liên tiếp.

Ăn vóc học hay

Ăn khỏe, chăm làm, lại học hay học giỏi, ngược với “dài lưng tốn vải” chỉ người học trò học chẳng hay, cày chẳng giỏi lại yếu ớt. Trên thực tế, có ăn mới học được. Cũng có người quan niệm học trò thường là kẻ lười nhác vì thế nên có câu: Ai ơi chớ lấy học trò Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.

Ăn chay niệm phật

 “Ăn chay niệm phật từ bi. Nói lời thanh lịch, lòng thì tĩnh tâm”, cũng là đức tính cần học. Nhưng không thiếu gì kẻ giả danh làm cho đạo phật bị ô uế. Dựa vào câu thành ngữ này, thời nay, người đời suy diễn rằng người ăn chay niệm phật là người sống thanh tịnh, hiền lành...

Cháy nhà ra mặt chuột

Trong nghĩa bóng của thành ngữ này, chuột tượng trưng cho thành phần xấu, thành phần phá hoại ngấm ngầm, mà mọi người không thể phân biệt khi chưa có chuyện. .. Lúc trong nhà có chuyện, hay trong một tập thể nào đó có vấn đề khó khăn nguy biến xảy ra, những kẻ xấu mới lộ mặt. Và trong trường hợp đó người ta dùng thành ngữ: cháy nhà ra mặt chuột.

Ăn cơm chúa, múa tối ngày

Chúa cho ăn, chúa cho mặc, thì cứ hát, cứ múa cho vui tai thích mắt chúa trọn ngày! Đó là tư tưởng phục vụ và trả công của những người "nghệ sĩ chuyên nghiệp" ngày xưa. Họ được chúa nuôi để đàn hát, nhảy múa làm trò tiêu khiển mà lại! Tinh thần đó được phản ánh qua câu thành ngữ ăn cơm chúa múa tối ngày. Chúa trong câu thành ngữ này là ông chủ quyền quý nói chung, mà trước hết là các bậc vua chúa.

Lệnh ông không bằng cồng bà

Nói về quyền quyết định mọi việc của người phụ nữ trong gia đình, chúng ta có thành ngữ “Lệnh ông không bằng cồng bà”.

Áo gấm đi đêm

Áo gấm về làng là mang vinh hiển trở về quê hương, áo ấy mặc vào ban ngày. Còn như áo gấm mà đi đêm thì ắt là sự sang trọng ấy hẳn có sự mờ ám, khuất tất. Câu thành ngữ còn muốn phê phán sự không hợp lý, không đúng lúc, đúng chỗ của một hành động nào đó xét cho cùng là sự lãng phí, là không có tác dụng nếu không muốn nói là hành động ấy còn mang mục đích thiếu trong sáng như anh chàng ở chuyện trên.

Tha phương cầu thực

Thoạt tiên, tha phương cầu thực phản ánh việc bỏ quê hương, bản quán đến với phương trời xa lạ để kiếm ăn.

Tiền trảm hậu tấu

Tiền trảm hậu tấu có nghĩa là chém trước tâu sau [tiền: trước, trảm: chém, hậu: sau, tấu: tâu, thưa]. Trong tiếng Việt thành ngữ tiền trảm hậu tấu thường dùng để chỉ những việc làm không chờ đợi cấp trên, cứ làm, cứ hành động trước, xong xuôi mọi chuyện rồi mới báo cáo, thưa gửi.

Sức dài vai rộng

Thành ngữ sức dài vai rộng thường được dùng để chỉ những người đang ở độ tuổi trẻ, khoẻ và sung sức.

Nát như tương

Với việc miêu tả trực quan trạng thái nát nhừ, bể vụn của vật thể, thành ngữ nát như tương có nghĩa gần giống như thành ngữ nát như cám. Tuy nhiên, nát như tương còn có ý nghĩa trừu tượng hơn. Trong đời sống ngôn ngữ hàng ngày, thành ngữ này thường dùng để biểu thị sự hư hỏng, đổ nát của một tổ chức, một thể chế…

Lo bò trắng răng

Nếu ai đó hay lo lắng vu vơ, lo những chuyện không đâu, những chuyện không đáng phải lo, thì sẽ được coi là người “lo bò trắng răng”.

Trướng rủ màn che

Trướng là bức màn che cửa, có thêu hình trang trí, đẹp, sang trọng, ngày trước nhà quyền quý hay dùng. Và thành ngữ trướng rủ màn che được dùng để chỉ cuộc sống đài các, êm đềm, được nuông chiều trong sự vinh hoa phú quý của tầng lớp thượng lưu trong xã hội phong kiến, nhất là đối với các lớp con cái của họ.

Quýt làm cam chịu

Khi một người làm việc gì mà nguời khác phải gánh chịu hậu quả của việc ấy [thường là hậu quả không hay], thì trong tiếng Việt, nguời ta thường nói là “quýt làm cam chịu”.

Vừa ăn cướp vừa la làng

Thành ngữ vừa ăn cướp vừa la làng, vừa đánh trống vừa ăn cướp được sử dụng với nghĩa khái quát hơn hàm chỉ những hành vi cố ý làm việc ác lại còn lớn tiếng vu cáo kẻ khác, làm ra vẻ như mình là nạn nhân. Đó là hành vi đổi trắng thay đen, đánh lừa dư luận.

Đười ươi giữ ống

Khi có người nào khờ dại mà bị mắc lừa, phải làm một việc vô ích nguời ta hay ví với “đười ươi giữ ống”.

Đồng không mông quạnh

Với người Việt Nam, ý nghĩa chung của thành ngữ đồng không mông quạnh không có gì là phức tạp khó hiểu. Trong mọi trường hợp, thành ngữ này đều được dùng để chỉ một không gian trống trải, vắng lặng đến mức gây cho con người cảm giác choáng ngợp vì cô đơn.

Thành ngữ tục ngữ: Ăn cháo đái bát

Một ai đó, khi được người khác giúp đỡ thoát khỏi khó khăn, hoạn nạn mà sau đó lại phụ ơn, bội nghĩa thậm chí phản lại ân nhân của mình, thì dân gian thường phê phán, chỉ trích bằng thành ngữ ăn cháo đái bát.

Thành ngữ tục ngữ: Như nước đổ đầu vịt

Với một số đối tượng, thì có khuyên bảo, dạy dỗ đến đâu cũng vô ích, không có tác dụng gì. Công sức dạy bảo khuyên nhủ đó cũng như "nước đổ đầu vịt" mà thôi.

Sống để dạ chết mang theo

Sống để dạ chết mang theo và các biến thể của nó như sống để bụng chết chôn đi, sống để bụng chết mang theo, sống để dạ chết đem theo... đều phản ánh hai ý nghĩa:

Nói nhăng nói cuội

Trong dân gian Việt Nam “Cuội” vốn đã mang cái tiếng xấu là hay nói dối, “nói dối như Cuội” mà lại! “Bắc thang lên đến tận mây, hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời ? Cuội nghe hỏi thế Cuội cười. Bởi hay nói dối lên ngồi ấp cây” [Ca dao]. Và những người nói lăng nhăng, không thật thì gọi là nói nhăng nói cuội.

Thành ngữ tục ngữ: Ướt như chuột lột

Người ta chỉ thấy chuồn chuồn, cua cáy, rắn rết lột xác, chứ có ai thấy chuột lột bao giờ. Thế mà trong tiếng Việt vẫn tồn tại thành ngữ “Ướt như chuột lột” để chỉ sự ướt át đến thảm hại của kẻ ăn sương lội nước.

Tham bát bỏ mâm

Trong cuộc sống, đôi khi chỉ vì tham những lợi lộc nhỏ mọn, trước mắt mà người ta bỏ qua những nguồn lợi lâu dài, to lớn hơn. Vậy là tham bát bỏ mâm.

Thành ngữ tục ngữ: Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa

Khi biết trước một sự bất lợi nào đó, con người tìm cách tránh nó, song họ lại gặp phải một sự bất lợi khác mà đôi khi nó còn lớn hơn so với bất lợi lúc đầu. Ý của câu tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa là như thế.

Thành ngữ tục ngữ: Tứ cố vô thân

Ngoảnh lại nhìn bốn phương nào có ai thân thích với mình! Tứ cố vô thân là vậy.

Len lét như rắn mùng năm

Theo dân gian, ngày năm tháng năm âm lịch là ngày “diệt sâu bọ”. Người ta làm bánh trái, đồ xôi, nấu chè, bày hoa quả cúng tế để tẩy trừ “sâu bọ” có hại cho cây cối, mùa màng và đời sống nói chung.

Thành ngữ tục ngữ: Thua keo này bày keo khác

Trong cuộc sống không phải bao giờ cũng thuận chiều suôn sẻ. Con người không dễ dàng tránh khỏi những thất bại đắng cay. Người không có chí, gặp thất bại là nản lòng, là bỏ cuộc. Người có chí, khi thất bại phải tìm cách khôi phục, không chịu thua thiệt, thua keo này bày keo khác.

Nợ như chúa Chổm

Hễ ai mắc nợ nhiều, nợ người này chưa kịp trả đã phải đi vay người khác, cứ thế chồng chất, nợ đìa ra… thì được gọi là “nợ như chúa Chổm”. Vậy chúa Chổm là ai?

Dốt có đuôi

Những người kém thông minh, chậm hiểu, dốt nát, khờ dại thường bị chế giễu bằng thành ngữ “dốt có đuôi”. Thành ngữ này có xuất phát điểm và quá trình chuyển dịch rất thú vị.

Xác như vờ, xơ như nhộng

Vờ là một loại côn trùng sinh ra ở mặt nước và có kiếp sống chưa trọn một ngày. Khi chết, xác vờ phơi trên các bãi sông, mỏng dính, lép kẹp, trông thật thảm hại. Còn nhộng thì sau khi đã kéo hết tơ vẫn còn một lớp xơ mỏng bọc quanh mình. Xơ nhộng vừa dai nhách vừa tớp túa. Những hiểu biết này giúp chúng ta thấy rằng, có lẽ thành ngữ xác như vờ xơ như nhộng là dạng rút gọn từ cách nói xác như xác vờ, xơ như xơ nhộng để chỉ sự lép kẹp, mỏng dính và tớp túa của sự vật được đem ra so sánh.

Thành ngữ tục ngữ: Ba chìm bảy nổi

Thành ngữ ba chìm bảy nổi dùng để ví cảnh ngộ của một người khi lên xuống, phiêu giạt, long đong vất vả nhiều phen.

Nói có sách, mách có chứng

Nói có sách mách có chứng, nghĩa là nói điều gì đó xác thực, có chứng cứ rõ ràng, có thể kiểm chứng được. Nói có sách, mách có chứng có nghĩa là không nói vu vơ kiểu ăn ốc nói mò, không thêu dệt, không nói kiểu tung tin thất thiệt, bịa đặt dựng chuyện, vu oan giá hoạ để bóp méo, xuyên tạc sự thật hay đổ lỗi cho người khác.

Thành ngữ tục ngữ: Có nếp có tẻ

Trong đời sống thực tế, nếp thường được coi trọng hơn tẻ. Cơm tẻ là món ăn thường ngày, còn nếp thì chỉ đôi khi, vào những dịp nào đấy mới có. Về mặt giá trị, nếp quí hơn tẻ. Đem so sánh nếp với tẻ thì chắc chắn là có sự đánh giá trọng khinh, hơn kém.

Thành ngữ tục ngữ: Năm tao bảy tuyết

Trong tiếng Việt để diễn tả ý nhiều lần gặp lại [của một sự việc nào đó], người ta thường dùng thành ngữ năm tao bảy tiết [tuyết].

Chó mái chim mồi

Trong đời sống hàng ngày, ta thường dùng thành ngữ chó mái chim mồi để chỉ bọn người cam tâm làm tay sai cho kẻ thù.

Thành ngữ tục ngữ: Vàng thau lẫn lộn

Vàng, thau là hai kim loại khác nhau. Vàng thuộc loại kim loại quý, hiếm, có giá trị cao. Còn thau chỉ là hợp chất giữa đồng và kẽm, có màu vàng lợt. Về hình thức, vàng và thau có màu sắc như nhau, dễ nhầm lẫn. Nhưng về bản chất, vàng, thau hoàn toàn khác nhau, không thể đánh đồng cùng một hạng, một thang giá trị.

Ăn chay niệm phật nói lời từ bi

Thành ngữ Ăn chay niệm Phật, nói lời từ bi được lưu truyền rộng rãi trong Phật giáo nói riêng, trong nhân dân nói chung để chỉ sự ăn uống thanh đạm: tụng kinh thờ Phật, nói năng hiền từ, không độc địa trong lời nói cửa miệng.

Thành ngữ tục ngữ: Cạn tàu ráo máng

Thành ngữ cạn tàu ráo máng được dùng để chỉ sự đối xử tàn tệ, không còn tình nghĩa giữa những con người với nhau

Thành ngữ tục ngữ: Ếch ngồi đáy giếng

Trong "Truyện ngụ ngôn Việt Nam" có câu chuyện kể về một chú ếch hợm hĩnh, nông nổi, đáng thương.

Giải thích thành ngữ: Nhạt phấn phai hương

Người phụ nữ bao giờ cũng có thời xuân sắc, trẻ trung, lọt vào mắt xanh bao chàng trai, và làm cho họ say mê, đeo đuổi. Nhưng thời đó cũng phải qua, nhan sắc cũng tàn tạ theo thời gian năm tháng, đó là lúc nhạt phấn phai hương

Thành ngữ tục ngữ: Tức nước vỡ bờ

Trong những vùng ven sông, kênh rạch, người nông dân thường đắp đê, đắp bờ để ngăn chặn nước lớn tràn vào ruộng vườn quá mức cho phép gây ngập úng. Hoặc đắp bờ để giữ nước trong ao hồ, cho việc cần sử dụng. Nếu lượng nước lưu trữ hoặc chảy quá lớn quá mạnh, bờ không thể giữ được phải vỡ, nước tràn.

Giải thích Thành ngữ - Tục ngữ: Chờ được mạ, má đã sưng

Mạ, tiếng địa phương là mẹ. Thành ngữ "chờ được mạ, má đã sưng" có nghĩa là chờ được mẹ ra thì đã bị đánh sưng má rồi. Câu này có ý khuyên không nên ỷ lại, phải biết tự lực trong cuộc sống. Chờ được sự giúp đỡ của người khác, có khi đã bị thiệt hại rồi.

Thành ngữ tục ngữ: Chim sa cá lặn

Ngày nay mọi người đều hiểu thành ngữ này là một cách nói ngoa dụ để chỉ người đàn bà rất đẹp, giống như cách hiểu thành ngữ "hoa hờn nguyệt thẹn", tức đẹp tới mức hoa phải hờn vì kém sắc, trăng phải thẹn vì kém tươi. Nhưng thực ra ý nghĩa ban đầu của thành ngữ này không phải như vậy.

Giải thích thành ngữ: Cõng rắn cắn gà nhà

Thành ngữ cõng rắn cắn gà nhà được dùng trong tiếng Việt với ý nghĩa hàm chỉ hành động phản bội Tổ quốc, phản lại nhân dân, đem giặc về giết hại đồng bào, đồng chí, anh em bạn bè thân thíc

Giải thích thành ngữ: Dở dở ương ương

Trong tiếng Việt, khi nói về những người có tính khí không bình thường, không ra khôn mà cũng chẳng ra dại, người ta nói đó là người “dở dở ương ương”: “Khôn cho người ta sợ, dại cho người ta thương, dở dở ương ương cho người ta ghét” [tục ngữ].

Giải thích thành ngữ: Bóc ngắn cắn dài

Về ý nghĩa thành ngữ bóc ngắn cắn dài, các cuốn sách như “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên [Nxb. KHXH 1988], “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của Nguyễn Lân [Nxb. VH 1989] đều giải thích là nói đến, hoặc chê việc “làm được ít mà tiêu dùng lại quá nhiều”.

Giải thích thành ngữ: Đèo heo hút gió

Nếu chỉ xem xét ý nghĩa chung, ý nghĩa tổng thể thì thành ngữ đèo heo hút gió là một thành ngữ đơn giản, dễ hiểu. Trước hết, người Việt thường dùng thành ngữ này để chỉ nơi rừng núi hoang vu, thiếu vắng người qua lại.

Thành ngữ " Con cà con kê"

Con cà con kê Trong giao tiếp hàng ngày chúng ta thường gặp một số người có thói quen nói dài, nói dai, nói hết chuyện này đến chuyện khác. Thói quen đó đã được dân gian đúc kết lại bằng một thành ngữ rất cô đọng: “Con cà con kê”

Tục ngữ "Có công mài sắt, có ngày nên kim"

Câu tục ngữ “có công mài sắt, có ngày nên kim” được lưu truyền rộng rãi như một lời dạy, lời giáo huấn mọi người về ý chí bền bỉ trong công việc nói riêng, trong cuộc đời nói chung.

Thành ngữ "Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào”

Nghĩa đen của thành ngữ này là chưa biết con mèo nào sẽ cắn con mèo nào, và nghĩa bóng đều được hiểu là chưa biết ai sẽ hơn ai, ai sẽ thắng ai đây.

Thành ngữ "Chạy như cờ lông công"

Thành ngữ “chạy như cờ lông công” trước hết được hiểu là “chạy rối rít, chạy loạn xạ”... Thành ngữ này còn có một sắc thái nghĩa nữa là “chạy rông, chạy rối rít, chạy không đạt kết quả gì”.

Thành ngữ "Ăn ốc nói mò"

Giữa "ăn ốc" và "nói mò" không có quan hệ nhân quả. Vậy thì, "ăn ốc" và "nói mò" kết hợp với nhau theo quan hệ gì? Và thành ngữ "ăn ốc nói mò" đã xuất hiện như thế nào?

Rách như tổ đỉa

Trong lời ăn tiếng nói của nhân dân ta, thành ngữ rách như tổ đỉa thường được dùng để chỉ sự rách nát, nham nhở của các thứ đồ dùng bằng vải, bằng lá, nhất là đối với quần áo.

Ba hồn bảy vía - Ba hồn chín vía

Ai đã đọc “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, hẳn không quên hình ảnh chị Dậu chạy ra ngõ hú gọi ba hồn bảy vía anh Dậu “về với vợ con” trong khi anh bị bọn cường hào đánh trói nằm bất tỉnh nhân sự trong nhà. Còn trong dân gian, theo mê tín, khi xem bói bài tây hoặc chữa bệnh bằng mẹo, người ta thường bắt buộc phải tráo quân bài hoặc làm một động tác quy ước nào đó bảy lần [với nam] và chín lần [với nữ]. Ấy là do “đàn ông có bảy vía, đàn bà có chín vía”, theo sự mê tín của dân gian.

Thành ngữ - tục ngữ: Sơn cùng thủy tận

Thành ngữ sơn cùng thủy tận được tạo thành nhờ các từ Hán Việt: sơn [núi], thủy [nước], cùng, tận [cuối hết]. Trước tiên, thành ngữ sơn cùng thủy tận chỉ những nơi, những địa điểm xa xôi hẻo lánh.

Đi một ngày đàng, học một sàng khôn

Ông cha ta thường khuyên con cháu phải biết giao thiệp rộng, tiếp xúc với nhiều người để học hỏi, nâng cao tầm hiểu biết của mình, đặc biệt cần phải tránh, không nên thu mình một chỗ, một xó kẻo rồi khi ra cáng đáng việc đời lại bỡ ngỡ, choáng ngợp trước một cuộc sống đa dạng, muôn màu muôn sắc mà hoàn cảnh hạn hẹp theo lối ếch ngồi đáy giếng chưa cho phép một lần được trông thấy, nghĩ tới. Câu tục ngữ đi một ngày đàng, học một sàng khôn là một trong những lời khuyên sâu sắc và quý giá đó.

Hàng tôm hàng cá

Thành ngữ hàng tôm hàng cá trong tiếng Việt “chỉ những người hay cãi lộn nhau một cách nhỏ nhen” [Đào Văn Tập. Từ điển Việt Nam].

Hồn xiêu phách lạc

Hồn và phách [cũng gọi là vía] theo quan niệm dân gian, là phần tinh thần, phần linh hồn của con người ta đối với thể xác. Hồn và phách luôn tồn tại cùng thể xác khi người ta còn sống. Khi người ta chết thì hồn bay lên không, phách nặng, phụ thuộc vào phần hình của con người, thì tiêu xuống cõi âm.

Nói toạc móng heo

Nói toạc móng heo là nói thẳng, nói thật không úp mở quanh co.

Lá mặt lá trái

Thành ngữ này được dùng để chỉ lòng dạ đổi thay tráo trở của con người.

Bách phát bách trúng

Trên thao trường hay ngoài mặt trận, những tay thiện xạ thường được ca ngợi là người có tài “bách phát bách trúng” hay “trăm phát trăm trúng”. Vì sao người ta lại ưa thích ca ngợi người bắn giỏi theo cách như vậy?

Chén tạc chén thù

Trong cuộc rượu đãi khách, trước tiên chủ nhà thường rót chén mời khách uống. Chén rượu từ tay người chủ rót để mời khách ấy gọi là chén thù. Uống xong, khách lại tự tay rót chén rượu nâng lên mời chủ để đáp lại tấm lòng thân tình, nồng thắm của người chủ dành cho mình. Chén rượu do khách rót nâng lên mời chủ ấy là chén tạc. Dân gian đã chớp lấy một chi tiết nhỏ trong cuộc tạc thù giao tiếp nhau để biểu trưng cho toàn cuộc vui với không khí thân mật, cởi mở giữa chủ và khách, giữa những người dự tiệc với nhau.

Ông chẳng bà chuộc

Thành ngữ “ông chẳng bà chuộc” biểu thị sự chủng chẳng không ăn khớp, không hợp nhau về ý nghĩa cũng như việc làm giữa người này và người khác.

Kín cổng cao tường

Kín cổng cao tường là những nơi mà người thường không thể đặt chân tới, đó là những nơi thâm nghiêm, cơ mật.

Há miệng mắc quai

Ý nghĩa của thành ngữ há miệng mắc quai thường được người Việt nhận diện dễ dàng. Ai cũng hiểu thành ngữ này được dùng để chỉ hành vi né tránh, không dám nói đến khuyết điểm của người khác vì sợ đụng chạm đến cả những khuyết điểm mà mình cũng đã phạm phải.

Há miệng chờ sung

Với thành ngữ Há miệng chờ sung, nhân dân ta nhằm đả kích những kẻ lười biếng chực ăn sẵn bằng cầu may.

Giàu làm kép hẹp làm đơn

Trong tiếng Việt, “kép” và “đơn là hai từ trái nghĩa, “kép” là “đôi, hai, cặp”, trái với “đơn” là “một”.

Được voi đòi tiên

Voi thường được tượng trưng cho cái gì to lớn khác thường, có tính chất khổng lồ. Trong nhiều ngữ cảnh khác, voi cũng mang ý nghĩa đó: voi nan, [bệnh] chân voi, lấy thúng úp voi, châu chấu đá voi, đầu voi đuôi chuột... Tiên thì thường dùng để biểu hiện cái gì tuyệt mỹ, tuyệt hảo đến mức lí tưởng: đẹp như tiên, sướng như tiên, có phép tiên, thuốc tiên, v.v...

Page 2

1. Ông chẳng bà chuộc:

Sự tích xưa, có người đánh rơi viên ngọc, vợ chồng Chẫu Chàng bắt được. Người ấy xin chuộc lại. Vợ đồng ý “chuộc thì chuộc”, chồng thì dứt khoát “chẳng chuộc”. Sự bất hòa của vợ chồng Chẫu Chàng, do nhân dân tưởng tượng ra, đã tạo nên thành ngữ này để diễn đạt ý không thống nhất, không ăn khớp giữa người này với người khác. Nhiều thành ngữ như “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “Ông nói gà bà nói vịt” cũng diễn đạt ý này.

2. Quan xa nha gần: [Quan thì xa, bản nha thì gần]

Nha là phòng giấy của các quan. Nha môn là cửa quan. Nha lại là những người làm việc ở phòng giấy các quan. Ngày trước, khi người dân có việc kêu kiện, bọn nha lại thường làm khó dễ để vòi tiền. Vì vậy mới có câu thành ngữ này.

3. Ra môn ra khoai:

Thành ngữ này có nghĩa là rành mạch, rõ ràng. Sở dĩ có thành ngữ này là vì cây khoai môn và cây khoai sọ rất dễ bị nhầm lẫn. Khoai môn là khoai có thân và lá dùng làm thức ăn cho lợn, củ ăn bị ngứa lưỡi, thân hình rất giống khoai sọ. Thành ngữ này thường bị nói lầm “ra ngô ra khoai”. Cây ngô và cây khoai không thể lầm được.

4. Rách như tổ đỉa:

Có người tưởng tổ đỉa là tổ con đỉa. Cũng chưa ai biết con đỉa có tổ hay không. Tổ đỉa ở thành ngữ này là cây tổ đỉa, một loại cây thường mọc ở ven bờ ao. Cây tổ đỉa có lá như lá cây đinh lăng, trông lởm chởm và rách như xé ra từng mảnh nhỏ. Vì vậy, ai mặc rách rưới quá, người ta thường nói “rách như tổ đỉa.”

5. Rối như bòng bong:

Nếu quan sát một người ngồi vót nan để đan rổ rá, ta thấy những xơ tre nứa mỏng cuộn xoắn vào nhau thành một mớ, khó gỡ ra được. Đó là mớ bong bong. Thành ngữ ta còn có câu: rối như tơ vò, rối như canh hẹ, rối như gà mắc tóc, rối tinh rối mù. Thành ngữ “rối như bong bong” dùng để chỉ tâm trạng hoặc sự việc khó gỡ ra được vì không tìm thấy đầu mối.

6. Sáng tai họ, điếc tai cày:

Thành ngữ này có nghĩa lười biếng, không chăm chỉ làm việc. Khi cày ruộng, người đi cày hô “họ”thì trâu đứng lại ngay, vì nó được nghỉ. Nếu hô “vắt” thì phải kéo cày.

Nguyễn Khuyến, trong bài “Anh giả điếc” có câu:

Trong thiên hạ có anh giả điếc

Khéo ngơ ngơ, ngác ngác, ngỡ là ngây

Chẳng ai ngờ: sáng tai họ điếc tai cày

Lối điếc ấy sau này em muốn học.

7. Sẩy đàn tai nghé:

Thành ngữ này dùng để chỉ sự chia lìa, tan nát của một gia đình hoặc một tập thể nào đó khi mất người đứng đầu. Thành ngữ này bắt nguồn từ đời sống của bầy trâu rừng. Bầy trâu bao giờ cũng có những con trâu đực đầu đàn để chống chọi với thú dữ, bảo vệ cả đàn [thường có trâu cái và bầy nghé con]. Nếu mất trâu đầu đàn thì cả đàn sẽ tan tác vì bị thú dữ ăn thịt dần. Sẩy là từ cổ, có nghĩa là mất, chết. Tục ngữ có câu: “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”.

8. Sơn cùng thủy tận:

Đây là thành ngữ gốc Hán [cùng là cuối, tận là hết], nơi cuối dãy núi, hết nguồn nước, dùng để chỉ những nơi hẻo lánh, hoang vu. Một thành ngữ khác thâm sơn cùng cốc cũng để diễn đạt ý này. [Thâm sơn là núi sâu, cùng cốc là cuối hang núi]

9. Sơn hào hải vị:

Sơn hào là món ăn quý lấy từ động vật rừng như bàn chân gấu, lộc nhung. Hải vị là món ăn quý lấy từ biển như bào ngư, hải sâm…

Thành ngữ này dùng để chỉ các món ăn sang trọng. Câu này gần nghĩa với câu “Cao lương mĩ vị” [cao là thịt béo, lương là gạo trắng, mĩ vị là ngon miệng]

10. Sư tử Hà Đông:

Các thành ngữ này đều dùng để chỉ những người phụ nữ hay ghen.

– Hà Đông là một địa danh Trung Quốc, tục truyền có nhiều sư tử và sư tử cái thường bắt nạt sư tử đực. Ông Trần Quý Thường, bạn thân của Tô Đông Pha, có bà vợ hay ghen. Tô Đông Pha liền làm bài thơ đùa bạn, trong đó có câu:

Hốt kiến Hà Đông sư tử hống

Trụ trượng lạc phủ tâm mang nhiên.

[Chợt nghe tiếng sư tử Hà Đông rống lên. Đang chống gậy lòng hoảng hốt đánh rơi cả gậy].

11. Sửa mũ vườn đào, sửa dép vườn dưa:

Khi đi qua vườn đào, dù mũ đội đầu có bị lệch cũng không nên giơ tay lên sửa mũ, sẽ bị nghi là hái chộm đào. Khi đi qua ruộng dưa, dù dép có bị đứt quai cũng đừng cúi xuống sửa, sẽ bị nghi là hái trộm dưa.

Câu này ý nói tình ngay lí gian, khuyên ta nên đề phòng để tránh bị ngờ oan :

Qua: Dưa, trái dưa, như dưa hấu, dưa leo. Điền: ruộng. Lý: cây lý, cây mận. Hạ: dưới. Qua điền: ruộng dưa. Lý hạ: dưới cây lý. Thành ngữ trên nói đầy đủ là: Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan. Nghĩa là: Nơi ruộng dưa thì không nên xỏ giày, dưới cây lý thì không nên sửa nón.

12. Nằm gai nếm mật:

Câu này nói lên sự chịu đựng vất vả gian khổ để mưu việc lớn. Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, Câu Tiễn là vua nước Việt bị Phù Sai là vua nước Ngô bắt làm tù binh, phải chịu mọi điều khổ nhục. Khi được thả về, Câu Tiễn thường nằm trên đệm gai, không ăn cao lương mĩ vị mà thường lấy tăm nhúng vào mật đắng để luôn nhắc nhở mình không quên mối thù xưa. Sau hai mươi năm chuẩn bị lực lượng, Câu Tiễn đã phục thù, đánh bại được Ngô Phù Sai.

13. Năm thì mười họa:

Trong tiếng Việt, thì còn đọc là thời [có nghĩa là lúc, thủa]. Ví dụ: thời son trẻ, đương thì con gái, tứ thời, thời gian, thời tiết. Còn họa là từ thuần Việt có nghĩa là ít có, có chăng.

Ví dụ:

– Sắc đành đòi một, tài đành họa hai [Truyện Kiều]

– Vào sinh ra tử họa là thấy nhau [Truyện Kiều].

[Đừng lầm với họa từ Hán. Họa là vẽ [họa sĩ], họa là đáp lại [họa vần thơ], họa là tai vạ rủi ro [họa vô đơn chí]].

Thành ngữ năm thì mười họa có nghĩa là thỉnh thoảng, họa hoằn mới có.

14. Ngựa quen đường cũ:

Thành ngữ này vốn gốc ở thành ngữ Hán “Lõa mã thức đồ”. Do đâu có thành ngữ này? Chuyện xưa kể rằng: Tề Hoàn Công đi đánh nước Cô Trúc. Lúc cất quân đi là mùa xuân, lúc trở về đã là mùa đông, băng tuyết phủ đầy nên lạc đường. Quản trọng bèn tâu:

– Thưa bệ hạ, trí nhớ của ngựa già rất tốt. Xin để con ngựa già đi trước dẫn đường. Quả nhiên, ngựa đã tìm được đường về.

Trước kia, thành ngữ này được hiểu theo nghĩa: người có kinh nghiệm thường rất thành thuộc sự việc.

Ngày nay, thành ngữ này mang nghĩa xấu dùng để chỉ những người không chịu rời bỏ thói hư tật xấu.

15. Nguồn đục thì dòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng:

Câu này vừa mang nghĩa đen, vừa mang nghĩa bóng. Nghĩa đen thì ai cũng hiểu. Nguồn nước có trong thì dòng nước mới trong, gốc cây có thẳng thì cây mới vươn thẳng lên được.

Nhưng nghĩa bóng mới là nghĩa có tác dụng giáo dục mọi người. Trong một gia đình, bố mẹ phải làm gương tốt cho con cái. Nếu bố mẹ làm điều bậy [nguồn đục, gốc cong] thì con sẽ bị nhiễm thói xấu. Có một câu ca dao đầy chất châm biếm:

Con ơi nghe lấy lời cha

Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.

Bố xấu như vậy thì con cũng sẽ thành trộm cắp. Trong gia đình, bố mẹ cần sống tốt để làm gương cho con cái.

16. Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò:

Đây là thành ngữ chỉ nghề làm gốm sứ. Muốn có sản phẩm tốt phải chú ý ba yếu tố: xương, da, dạc lò. Xương là chất đất để nặn ra sản phẩm, da là chất men dùng tráng mặt ngoài của sản phẩm [có vài chục chất men để tạo màu sắc khác nhau], dạc lò là độ nóng của lửa nung. Cũng có người giải thích dạc lò là hình dáng lò nung. Lò nung phải xây đúng cách để khi nung, độ nóng tỏa đều khắp thì sản phẩm mới đẹp.

17. Nhũn như chi chi:

Thành ngữ này thường được dùng để chỉ thái độ nhún nhường sợ sệt hoặc bị lép vế trước kẻ khác. Chi chi là tên một loài cá nhỏ, thân rất mềm. Con chi chi bị vớt lên khỏi mặt nước thì chỉ một giờ sau đã nhũn, thân bị bấy ra. Chi chi dùng làm mắm rất tốt vì mau ngấu. Nhũn từ nghĩa đen [nát bấy ra] đã được dùng với nghĩa nhũn nhặn để chỉ thái độ con người.

18. Nổi cơn tam bành:

Nghĩa của thành ngữ này là nổi giận lên mà làm điều ác:

Mụ nghe nàng mới hay tình

Bây giờ mới nổi tam bành mụ lên.

[Truyện Kiều]

Theo thuyết của Đạo gia, trong con người có ba vị ác thần là Bành Kiều, Bành Cứ, Bành Chất. Ba vị này thường xui ta làm điều ác.

19. Nghèo rớt mùng tơi:

Khi ta nấu canh mùng tơi, trong lá mùng tơi có nhiều rớt [nhớt] nên khi múc canh vào bát, môi canh bị trơn tuột, không dính tí gì. Nghèo rớt mùng tơi là nghèo xơ nghèo xác không có chút của cải gì.

Thành ngữ này cũng còn một cách giải thích khác. Mùng tơi là phần trên của chiếc áo tơi [phần dày nhất và khâu kĩ nhất]. Áo tơi thường làm bằng lá cọ hoặc lá đót. Khi áo tơi rách thì mùng tơi vẫn còn, dùng cho đến khi rớt [rơi] hết mùng tơi vẫn không có tiền mua áo khác, chứng tỏ nghèo lắm.

20. Nói nhăng nói cuội:

Nói nhăng nói cuội là nói vu vơ, hão huyền cũng như thành ngữ nói hươu nói vượn.

Nhăng là từ cổ có nghĩa là băng nhăng qua quýt…

Cuội là một nhân vật trong truyện kể dân gian, nổi tiếng nói dối [nói dối như cuội].

Cũng có người cho rằng thành ngữ này là “nói giăng nói cuội” [Giăng là mặt trăng, chỉ ý xa vời, không thực tế]. Dù hiểu cách nào thì nghĩa cũng giống nhau.

21. Nồi da nấu thịt:

Những người đi săn thú muốn làm thịt ăn ngay ở giữa rừng nhưng không có nồi. Họ thường lột da con thú căng ra làm nồi để nấu thịt con thú ấy. Câu này nói ý cùng ruột rà máu mủ mà làm hại lẫn nhau, giống câu vỏ đậu nấu đậu.

22. Nợ như chúa chổm:

Chúa Chổm chính tên là Lê Ninh. Thời nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, là hoàng tử nhưng ông rất khéo. Tuy vậy, các quán ăn ở kinh đô, nếu được ông mở hàng thì rất đắt khách. Vì vậy, nhiều quán mời ông ăn chịu và ghi nợ. Khi được lên làm vua, [tức vua Lê Trang Tông] các chủ quán đến đòi nợ. Vua ra lệnh mở kho để trả nợ nhưng trả nhiều lần chưa hết vì có kẻ đòi nợ khống. [Theo truyền thuyết, khi vua đi dạo, hễ đi vào phố Cấm Chỉ thì không ai được theo đòi nợ nữa] [phố Cấm Chỉ ở đầu phố Hàng Bông, gần Cửa Nam ngày nay].

23. Nuôi o­ng tay áo:

Trong thực tế, không ai nuôi o­ng ở tay áo cả vì o­ng dễ đốt vào người. O­ng ở đấy được dùng để chỉ kẻ xấu.

Câu này mang ý nghĩa: nuôi dưỡng giúp đỡ kẻ xấu thì kẻ xấu có khi lại phản bội lại mình, làm hại mình.

Tuy vậy cũng không nên hiểu một chiều. Thực tế, kẻ xấu cũng cần sự giúp đỡ, giáo dục để trở thành người tốt. Xã hội ta đã cải tạo được nhiều người xấu trở thành người hữu ích.

Câu này chỉ dùng khi người nuôi dưỡng, giúp đỡ đã bị phản bội.

24. Nước đục bụi trong:

Thành ngữ này nói lên cảnh trái ngược, những việc làm bất đắc dĩ, trái với ý muốn: nước trong mà lại đục, bụi đục mà lại trong.

Tục ngữ ta có câu “Chết trong còn hơn sống đục” để khuyên ta sống trong sạch, thà chết còn hơn làm điều phi nghĩa, bất lương.

25. Lá lành đùm lá rách:

Câu tục ngữ có hai vế đối lập lá lành, lá rách. Lá lành hàm chỉ người có đời sống khá, sung túc. Lá rách hàm chỉ người nghèo khổ. Từ lá và đùm cũng gợi ý về vật chất vì trong đời sống hàng ngày người ta đùm cơm, đùm bánh, đùm xôi thường dùng lá. Từ đùm cũng gợi ý đùm bọc, che chở, giúp đỡ. Câu thành ngữ này khuyên ta phải cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống hàng ngày cũng như lúc hoạn nạn. Câu này cũng nói lên đạo lý tốt đẹp của ông cha ta.

26. Lật đật như sa vật ống vải:

Câu này thường bị nói sai “lật đật như ma vật ông vải”. Nghĩa câu này hàm ý chê trách việc vội vàng, hấp tấp. Khi kéo sợi vải, ta dùng cái sa để quay, con cúi sa bằng bông sẽ dùng mũi quay để kéo thành sợi. Ở mũi quay có ống vải để cuốn sợi. Mũi quay thường làm cho ống vải rung lật đật.

27. Lệnh ông không bằng cồng bà:;

Lệnh và cồng là hai dụng cụ bằng đồng dùng để báo hiệu. Có người nói câu này xuất hiện từ thời Bà Triệu khởi nghĩa. Ông Triệu Quốc Đạt là anh nhưng không được mọi người tin yêu bằng bà Triệu Thị Trinh. Mỗi khi nghe tiếng cồng của Bà Triệu thì binh sĩ ở mọi nơi đều tập hợp ở dưới cờ.

Ngày nay, câu này được dùng với ý: vợ có quyền to hơn chồng trong một gia đình nào đó.

28. Mỏng mày hay hạt:

Thành ngữ này thường dùng để chỉ người phụ nữ có khuôn mặt nhẹ nhõm xinh xắn, dáng người thon thả thắt đáy lưng o­ng.

Mày và hạt xuất phát từ việc chọn giống của nhà nông. Mày là cái vảy dính ở gốc hạt lúa, hạt ngô. Hễ mỏng mày là hạt chắc, nếu dùng làm hạt giống rất tốt. Từ đó người phụ nữ mỏng mày hay hạt cũng hứa hẹn tương lai sẽ phát triển nòi giống tốt, ngoài các đức tính khác như đảm đang, tháo vát.

Tục ngữ còn có câu:

Khô chân gân mặt đắt mấy cũng mua

Phành phạch quạt mo cho không ai lấy, hoặc câu: Mặt nạc, đóm dày, mo nang trôi sấp chó cụt đuôi. [Mặt nạc là mặt lắm thịt, chứng tỏ người không khôn ngoan], và câu :

Những người béo trục béo tròn,

Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày.

[Béo trục béo tròn đối lập với thắt đáy lưng o­ng].

29. Một đồng một cốt:

Để hành nghề mê tín dị đoan, các ông đồng bà cốt thường gọi hồn, bắt ma, làm lễ giải hạn để kiếm tiền thiên hạ. Họ dùng nhiều mưu mẹo để lừa dối. Thành ngữ này để chỉ bọn người chuyên dối trá lừa đảo.

30. Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ:

Câu này nói lên mối tương quan giữa cá thể và cộng đồng. Để khuyên bảo về đạo lí, ông cha ta thường mượn vật để nói người như: “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. “Một con ngựa đau” nói lên một cá thể bị hoạn nạn. Cả tàu bỏ cỏ nói lên sự thông cảm chia sẻ của đồng loại, tất cả các con ngựa trong chuồng đều không ăn cỏ vì thương cảm.

Ở đây không nói lên sự giúp đỡ mà nói về tình cảm. Hiểu rộng ra, cả tàu còn nói cả làng, cả nước phải thương yêu đùm bọc lấy nhau; cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.

31. Muôn chung nghìn tứ:

Chung là cái hộc, đơn vị dùng để đong thóc ngày xưa. Tứ là cỗ xe có bốn ngựa kéo. Câu này chỉ bậc vương hầu khanh tướng, ăn lộc đến nghìn chung thóc, trong nhà có hàng nghìn cỗ xe ngựa.

Một lời đã biết đến ta

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau

[Truyện Kiều]

32. Học ăn, học nói, học gói, học mở:

Đây là câu thành ngữ khuyên mọi người phải học cách đối xử ở đời để trở nên người có văn hóa.

Ăn cũng phải học ăn như “Ăn trông nồi ngồi trông hướng”. Đối với trẻ, khi ăn không nên khua bát khua đũa. Nhiều trẻ khi nhai cứ nhồm nhoàm hoặc tạo ra tiếng chồm chộp vì nhai hai hàm một lúc, hàm trên bập xuống hàm dưới tạo thành tiếng kêu. Cần tập cho trẻ chỉ dùng một hàm khi nhai.

Nói cũng phải học để biết cách xưng hô nói năng lễ phép, lịch sự. “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Ngày nay, ta thường gặp nhiều cô cậu ăn mặc diện nhưng nói rất tục. Chỉ nghe qua lời nói ta đã biết là loại vô văn hóa. Học gói học mở theo phép lịch sự ở đất kinh kì cũng rất khó. Ở đất Hà Nội xưa, một số gia đình giàu sang thường gói nước chấm vào lá chuối xanh đặt vào cái chén xinh bày lên mâm cỗ. Người gói phải khéo tay mới gói được và người ngồi, ăn cũng phải biết cách mở để khỏi bật tung nước chấm ra mâm…

Ngày nay, gói bánh trưng đã mấy người biết gói cho đẹp để bánh cao thành sắc cạnh và mở bánh [bóc bánh] chưng cũng phải học mới khéo được.

Có người còn hiểu rộng câu trên, cho rằng mở và gói khó nhất là khi làm văn:

Văn hay chẳng lọ là dài

Mới đọc mở bài đã biết văn hay.

Còn gói bài văn [kết luận] thế nào để người đọc còn thấy dư âm và gây ấn tượng sâu không phải dễ.

33. Kẻ ăn rươi, người chịu bão:

Hằng năm, cứ khoảng tháng chín âm lịch, các ruộng nước chua mặn ở miền biển có giống rươi nổi lên. Người ta hớt rươi về làm thức ăn [chả rươi, mắm rươi]. Nhưng mùa này cũng hay có bão làm thiệt hại. [cũng có người giải thích, mùa này trở trời nên dễ đau lưng đau bão]. Câu này nói lên sự không công bằng: kẻ được ăn, người chịu vạ lây.

34. Kẻ tám lạng, người nửa cân:

Cân và lạng ở đây là loại cân cũ của ta. Một cân có 16 lạng [tương đương 605 gam] và một lạng bằng một phần mười sấu cân tương đương với 37,8 gam. Vì vậy nếu cân bằng cân ta thì nửa cân là tám lạng, tám lạng là nửa cân.

Thành ngữ này trong tiếng Việt thường chỉ sự so sánh tương đương lực lượng giữa hai phe, hai đấu thủ trong cuộc đọ sức thì bằng nhau, không ai kém ai.

35. Kết cỏ ngậm vành:

Thành ngữ này chỉ sự báo đền công ơn:

Dám nhờ cốt nhục tử sinh

Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau

[Truyện Kiều]

Đây là hai điển tích xưa của Trung Quốc.

– Ông Ngụy thù đời Tần có nhiều vợ lẽ đẹp. Theo phong tục nước Tần, hễ chồng chết thì vợ lẽ phải chôn theo chồng. Nhưng Ngụy Khảo, con trai của Ngụy Thù có lòng nhân đạo nên không theo tục lệ đó. Sau Ngụy Khảo nên làm tướng nước Tần, đánh nhau với nước Tấn. Bên Tấn có tướng Đỗ Hồi rất giỏi. Hôm đó, đang đánh nhau thì ngựa của Đỗ Hồi bị vướng cỏ, Đỗ Hồi ngã ngựa và bị Ngụy Khảo giết. Đêm hôm ấy, Ngụy Khảo nằm mơ thấy bố người vợ lẽ đến tạ ơn và nói: “Tôi cám ơn ông không chôn sống con tôi, nên tôi đã kết cỏ làm cho Đỗ Hồi ngã ngựa”.

– Dương Bá đời Hán, lúc 9 tuổi bắt được con chim sẻ bị thương. Bá chăm sóc chim cho khỏe rồi thả ra. Sau chim đó ngậm bốn vành ngọc trắng đem đến tạ ơn.

36. Gái thương chồng đương đông buổi chợ - Trai thương vợ nắng quái chiều hôm:

Câu tục ngữ này có rất nhiều cách giải thích. Sở dĩ có nhiều cách hiểu vì cụm từ “đương đông buổi chợ” và “nắng quái chiều hôm” được hiểu với nghĩa khác nhau. Dưới đây xin nêu một vài cách hiểu đó:

1. Hiểu đây là lời khuyên, không phê phán ai cả

“Đương đông buổi chợ” được hiểu là thời son trẻ duyên dáng của người phụ nữ, có nhiều chàng trai để ý đến.

Tình thương chồng được thể hiện rõ khi cô ta còn nhan sắc, nhiều người để ý nhưng vẫn một mực chung thủy với chồng. “Nắng quái chiều hôm” được hiểu là thời người con gái đã xế chiều, nhan sắc tàn phai và khuyên chồng nên chung thủy cả khi vợ đã luống tuổi.

2. Hiểu câu này chỉ mức độ tình yêu giữa nam và nữ một cách khách quan, không phê phán ai cả

Hiểu tình yêu của người phụ nữ đầy đặn, mặn mà như buổi chợ đương đông còn tình yêu của nam giới thì bồng bột, rực rỡ nhưng mau tàn như nắng quái chiều hôm.

3. Hiểu câu này theo cách phê phán

Tình yêu của người phụ nữ đậm đà bền chặt như buổi sáng lúc đương đông buổi chợ.

Tình yêu của nam giới chỉ thoáng qua, mau tắt ngấm như buổi chiều, lúc nắng quái chiều hôm.

Cho đến nay những cách hiểu khác nhau vẫn tồn tại và chắc còn nhiều cách hiểu khác. Chúng ta chưa có cơ sở để lựa chọn và khẳng định.

37. Gần nhà giàu đau răng ăn cốm - Gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn:

Nhân dân ta rất coi trọng láng giếng “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Nhưng hai loại láng giềng “nhà giàu” và “kẻ trộm” thì lại khổ cho láng giềng. Câu này được hiểu là “Gần nhà giàu khổ như đau răng lại nhai cốm, gần kẻ trộm khổ như đang ốm lại phải đánh đòn”. Vì sao vậy? Láng giềng giàu thường ít thích giao tiếp với hàng xóm nghèo nên khi tối lửa tắt đèn ít nhờ vả được nhau. Gần kẻ trộm thì dễ mất trộm hoặc có khi bị đòn oan. Câu này khuyên ta nên chọn láng giềng mà ở. [Cũng có người giải thích là gần nhà giàu thì được ăn nhiều đến mức đau cả răng. Giải thích cách này không hợp lô gích].

38. Già kén kẹn hom:

Trong các sách thành ngữ đều giải thích: Tình duyên lỡ làng vì quá kén chọn.

Trong cuốn Tục ngữ lược giải của Lê Văn Hòe giải thích như sau:

Già kén là kén kĩ quá, kén nhiều quá.

Kẹn hom là giơ xương ra, ý nói già yếu gầy guộc, giơ xương.

Câu này ý nói: kén chọn kỹ quá thì người già mất.

39. Giấy rách phải giữ lấy lề:

Sách chữ Nho ngày trước thường phải đóng lề ở gáy để kết chặt các tờ thành quyển. Khi viết, ở phần lề được để trắng, rộng độ 3 centimet theo chiều dọc. Trong quyển sách, lề là phần gốc, nếu lề bị hỏng thì toàn quyển sách sẽ bung ra hết. Dù giấy có rách, phần gốc vẫn cần bảo tồn.

Câu thành ngữ này khuyên ta nên giữ vững truyền thống, nền nếp của gia đình. Lề từ nghĩa đen đã được mở rộng để chỉ những phong tục tốt đẹp trong câu “Đất có lề, quê có thói”.

40. Gió táp mưa sa:

Thành ngữ này có 2 nghĩa: nghĩa hẹp chỉ sự vất vả ở đời. Nhưng trong văn học, gió táp mưa sa lại dùng để chỉ người có tài làm câu thơ, tứ thơ đều nhanh như gió mưa do câu Phong vũ thôi thi tứ [tứ thơ đẩy đến ào ạt như gió mưa].

Tay tiên gió táp mưa sa

Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.

[Truyện Kiều]

41. Gương vỡ lại lành:

Thành ngữ này nói ý hàn gắn, đoàn tụ, sự thay đổi từ xấu thành tốt trong đời sống.

Điển tích xưa chép câu chuyện như sau: Từ Đức Ngôn yêu công chúa Nhạc Xương nhưng vì loạn lạc, hai người phải xa nhau. Họ bẻ đôi chiếc gương, mỗi người giữ một nửa. Về sau, Đức Ngôn lên kinh đô, thấy có người bán mảnh gương vỡ. Nhờ manh mối đó, Đức ngôn đã tìm được người yêu, hai mảnh chắp lại thành gương cũ.

Bây giờ gương vỡ lại lành

Khôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi.

[Truyện Kiều]

Đời ta gương vỡ lại lành

Cây khô cây lại đâm cành nở hoa.

[Tố Hữu]

42. Da mồi tóc bạc:

Thành ngữ này dùng để miêu tả những người cao tuổi. Tóc bạc là tóc trắng như bạc. Da mồi là da bị vết lốm đốm, thường có màu nâu như mai con đồi mồi. Đồi mồi thuộc họ rùa sống ở ven biển, mai có hoa rất đẹp, dùng làm lược hoặc kẹp tóc.

Tóc quăn chải lược đồi mồi

Chải đứng chải ngồi quăn vẫn hoàn quăn

[Ca dao]

43. Dốc bồ thương kẻ ăn đong:

Nông dân thường đựng thóc vào bồ. Dốc bồ là nhà hết thóc. Khi đó mới thương những người đi đong gạo ăn hằng ngày. Câu này ý nói có cùng cảnh ngộ thì mới thương nhau, dễ thông cảm với nhau.

44. Dốt đặc cán mai – Dốt có chuôi:

Mai là dụng cụ dùng để đào đất. Cán mai thường làm bằng táu, một thứ gỗ rất cứng để khi bẩy đất không bị gãy cán. Dốt đặc cán mai ý nói đầu óc bị đặc như cán mai, không có chỗ để nhét chữ vào được.

Dốt có chuôi [dốt co đuôi] là do điển tích xưa. Một thầy đồ được mời đến cúng cho gia chủ tên là Tròn. Thầy không biết viết chữ Tròn nên khoanh một vòng. Có kẻ tinh nghịch sổ thêm một nét thành cái gáo. Gáo dừa thường có chuôi [cán] dùng để cầm. Khi cúng, thầy đọc tên là gáo làm cho gia chủ bực mình.

45. Đanh đá cá cày:

Câu thành ngữ này có nghĩa là ương ngạnh, cứng cỏi, không chịu thua kém ai. Cá cày là cái cá [làm bằng tre hoặc gỗ, to bằng cái cán dao, hình như con cá] dùng để nâng bắp cày lên xuống khi muốn cày nông hoặc sâu. Cá cày tuy nhỏ nhưng điều khiển được cả lưỡi cày.

46. Đánh giáp lá cà:

Câu này ai cũng hiểu là đánh nhau mặt đối mặt, hai bên giáp sát vào nhau. Từ điển Việt Nam của hội Khai trí Tiến Đức giải nghĩa giáp lá cà: “Nơi quân hai bên xông vào đâm chém nhau”. Từ giáp này hiện nay vẫn dùng: Hai nhà ở giáp nhau. Hai người giáp mặt nhau.

Nhưng lá cà là gì? Có người giải thích: Ngày xưa, trong chiếc áo của ta có dùng nhiều từ lá. Lá sen là bộ phận đệm phía trong vai áo để mặc được bền. Miếng vải này hình giống lá sen. Lá xoài là một miếng vải đệm bông, lòng vào cổ và tỏa ra hai vai. Phu khiêng kiệu, khiêng cáng thường phải có lá xoài để đỡ đau vai và đỡ rách áo. Lá cà là một bộ phận trong áo võ quan. Loại này có hồng tâm bằng đồng đẻ che ngực và một mảnh lá cà để che bụng và hạ bộ. Mảnh này giống hình chiếc lá cà. Trong quần áo hát hội, các nghệ nhân gọi nó là lá cà. Đánh giáp lá cà là mặt đối mặt, các lá cà của hai tướng sát vào nhau.

47. Đánh trống lảng:

Trong lễ tế thần, khi tiến rượu, các tế viên [ông mạnh, ông bồi] phải đi khoan thai, từng bước một, theo điệu nhạc và nhịp trống từ ngoài sân vào trong cung. Khi ở trong cung trở ra, các tế viên phải bước rất nhanh theo nhịp trống dồn nhập gọi là trống lảng [tiếng giục để lảng ra cho nhanh]. Sau này, thành ngữ đánh trống lảng được dùng với nghĩa : một người nào đó đang nghe chuyện này thì nói lảng ra chuyện khác, hoặc lảng ra chỗ khác để tránh điều bất lợi cho mình.

48. Đánh trống lấp:

Trong lễ tế thần, khi đọc văn tế, vì kiêng tên húy của thần nên người đọc văn chỉ đọc lẩm nhẩm trong miệng. Tuy vậy, vẫn sợ người ngoài biết tên húy nên khi đọc đến tên và chức tước của thần, người đánh trống còn điểm mấy tiếng trống để làm lấp tiếng người đọc. Đánh trống lúc đó gọi là trống lấp. Ngày nay, thành ngữ này thường dùng để chỉ việc kể lể lôi thôi nhằm lấp liếm câu chuyện chính hoặc che đậy lỗi lầm của mình.

49. Đánh trống qua cửa nhà sấm:

Đây là một thành ngữ bắt nguồn từ điển tích Trung Quốc với nghĩa là: người kém tài chớ qua cửa người giỏi, gần giống thành ngữ “Đừng thi bơi với giải’ [giải là một loài bò sát lớn thường sống ở đầm nước, bơi rất nhanh]. Theo điển tích xưa, Ngô Phù Sai đóng đô ở Cô Tô, xây thành có đặt tên cửa là Xà môn [cửa Rắn] để trấn áp nước Việt. Người Việt làm cửa Lôi môn [cửa Sấm] để chống lại. Hễ đánh trống lớn ở cửa Lôi môn thì cửa Xà môn lập tức mở ra để dò xem động tĩnh.

50. Đèo heo hút gió:

Thành ngữ này dùng để chỉ nơi hoang vắng [đi vào nơi đèo heo hút gió]. Sinh thời, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã giải thích như sau :

Chính là “đèo Neo hút gió” bị nói chệch đi. Ngày trước, đường quốc lộ đi từ Thăng Long lên ải Nam quan phải đi qua đèo Neo [một cái đèo ở gần thị xã Bắc Giang bây giờ]. Tiễn những người đi sứ sang Trung Quốc, bạn bè dù thân thiết cũng chỉ đi tiễn đến đèo Neo, đặt rượu tiễn hành rồi quay về. Người đi sứ phải đi vào đoạn đường rừng hoang vắng để lên cửa ải.

Cũng nhân từ đèo Neo [một danh từ riêng] nhà văn Nguyễn Công Hoan còn nói: Lưu Đồn trong bài ca dao: “Ba năm trấn thủ Lưu Đồn” cũng là một danh từ riêng. Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, chúa Trịnh cho đóng một đồn binh lớn ở phía bắc sông Gianh để canh phòng. Lưu Đồn là một địa danh nay thuộc tỉnh Quảng Bình.

51. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn:

Câu tục ngữ này khuyên ta nên tìm học trong thực tế cuộc sống. Lời khuyên này rất quý và sâu sắc.

Ngày là nói về thời gian, đàng [đường] là nói về không gian. Ngày đàng kết hợp tạo nên một nghĩa bao quát là đi vào cuộc sống để học hỏi những tri thức của cuộc sống để nâng cao, mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết của bản thân mình.

Tại sao lại nói một sàng khôn, mà không nói một thúng khôn, một bị khôn. Nếu suy nghĩ đơn giản thì sàng vần với đàng. Nhưng phải hiểu sàng là gì? Sàng là một dụng cụ đan bằng tre, hình tròn như cái mâm, nông và thưa. Ở nông thôn, nhà nào cũng có sàng để khi xay thóc xong, dùng sàng để làm sạch trấu và cám, chỉ giữ lại gạo.

Vì vậy, đi trong cuộc sống, không phải thấy điều gì cũng học vì có điều hay điều dở. Chúng ta phải sàng lọc, chỉ học điều hay, điều khôn mà thôi.

52. Đổi thay nhạn yến:

Thành ngữ này để chỉ thời gian một năm. Về mùa đông, chim nhạn [tức hồng nhạn] thường di cư về phía nam để tránh rét [hồng nhạn còn gọi là chim sếu]. Về mùa xuân, chim yến [én] bay về. Thành ngữ này giống thành ngữ đông qua xuân tới.

Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.

[Truyện Kiều]

53. Đồng không mông quạnh:

Thành ngữ này được dùng để chỉ một nơi trống trải, vắng lặng gây cho ta cảm giác cô đơn [không là trống trải, quạnh là vắng vẻ].

Trong thành ngữ trên, đồng là danh từ [cánh đồng] thì mông cũng là danh từ mới đối xứng theo cách kết cấu phổ biến của thành ngữ. Tiếng Việt cổ, mông là một bãi trống. [ở vùng nghệ tĩnh còn giữ từ này trong phương ngữ].

54. Đố ai gánh đá vá trời, đan gàu tát biển, ghẹo người cung trăng:

Câu này có 3 thành ngữ: gánh đá vá trời, đan gàu tát biển, ghẹo người cung trăng. 3 thành ngữ này đều nói những điều không thể làm được. Không ai gánh đá vá trời được như nhân vật Nữ Oa trong thần thoại Trung Quốc. [Thuở sơ khai], bầu trời còn thủng lỗ chỗ, bà Nữ Oa đã luyện đá ngũ sắc vá lại bầu trời. [Trích theo sách của Hoài Nam Tử]. Nhiều như nước biển mà dùng gàu để tát thì tát sao cạn. Người cung Trăng chỉ Hằng Nga thì sao mà ghẹo được.

Các thành ngữ này khuyên ta đừng có làm điều viển vông, không tưởng. Muốn thành công ở đời cần có óc thực tế.

55. Đơn thương độc mã:

Thương là ngọn giáo, mã là ngựa. Thành ngữ này nghĩa gốc là một giáo một ngựa dùng để chỉ sự đơn độc, lẻ loi trong khi chiến đấu với khó khăn nguy hiểm, không có sự hỗ trợ của người khác.

56. Đơm đó ngọn tre:

Đó là đồ dùng đánh cá hình thon dài, miệng có hom, cá chui vào nhưng không chui ra được. Đơm đó phải đơm chỗ có nước chảy. Đơm đó ở ngọn tre thì làm gì có cá.

Câu này chế giễu người nào mong đợi những điều viển vông.

57. Đứng mũi chịu sào:

Khi con thuyền vượt qua ghềnh thác, người đứng ở mũi thuyền, cầm sào chèo chống có vai trò quan trọng và phải chịu gian khổ nguy hiểm.

Từ nghĩa này, thành ngữ đứng mũi chịu sào chỉ công việc quan trọng, gánh vác nhiệm vụ nặng nề, đương đầu với gian khổ vì lợi ích chung.

Ca dao có câu:

Đôi ta lên thác xuống ghềnh

Em ra đứng mũi cho anh chịu sào.

[phải hiểu là vợ và chồng cùng đứng mũi chịu sào, cùng chung gian khổ, cùng đồng tâm hiệp lực để vượt khó khăn, không nên hiểu là chồng trút khó khăn cho vợ].

58. Đường vòng hay tối, nói dối hay cùng:

Đi đường vòng thì xa có khi trời tối mà chưa đến nơi. Nói dối thường gặp chỗ cùng, bế tắc không dối ai được nữa.

Câu này khuyên ta nên đi đường thẳng, không đi ngang về tắt ý khuyên làm những việc quang minh và nói lời ngay thật.

59. Cạn tàu ráo máng:

Máng là dụng cụ đựng thức ăn cho lợn và gia súc [máng phải kín xung quanh để đổ thức ăn loãng không chảy ra ngoài]. Tàu cũng là dụng cụ dùng đựng cỏ cho ngựa, voi [về sau tàu được mở rộng nghĩa, chỉ chuồng nhốt voi, ngựa].

Thành ngữ này lúc đầu chỉ sự chăm sóc thiếu chu đáo đối với vật nuôi vì tàu và máng không có thức ăn. Về sau, thành ngữ này chỉ sự đối xử tàn nhẫn, thiếu tình nghĩa giữa người với người [ăn ở với nhau cạn tàu ráo máng].

60. Cầu toàn trách bị:

Thành ngữ này có nghĩa mong muốn được hoàn toàn, được đầy đủ, không còn thiếu thứ gì. Điều mong muốn này rất khó đạt được trong thực tế. Vì vậy, mọi người thường nói “đừng nên cầu toàn trách bị nữa”.

Cầu: mong, muốn ; trách: đòi hỏi ; toàn, bị: vẹn toàn, trọn vẹn [Ví dụ : Ông ấy làm việc gì cũng cầu toàn trách bị].

61. Chạy như cờ lông công:

Ngày trước, trên đường thiên lí có các trạm, các cung. Ở đây, các phu trạm phải chuyển công văn từ trạm này tới trạm khác. Nếu công văn khẩn [hỏa tốc] thì người phu trạm phải mang theo một sợi lông đuôi của con công và phải chạy thật nhanh [về sau, thiếu lông công, phải thay bằng lông gà có buộc cục than].

Nhân dân thấy trên đường, các phu trạm chạy từ cung này đến cung kia nên có thành ngữ này để diễn đạt ý “chạy rối rít, chạy loạn xạ”.

62. Chín chữ cù lao:

Thành ngữ này thường dùng để chỉ công lao khó nhọc của bố mẹ. [Cù là siêng năng, lao là khó nhọc]. Chín chữ cù lao ấy là:

Sinh: đẻ, cúc: nâng đỡ, phủ: vuốt ve, súc: cho bú mớm lúc nhỏ, trưởng: nuôi cho lớn, dục: dạy dỗ, cố: trông nom, săn sóc, phục: xem tính nết mà dạy bảo cho thành người tốt, phúc: giữ gìn.

Trong Truyện Kiều có câu:

– Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn.

– Nhớ ơn chín chữ cao sâu

Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.

63. Chân ướt chân ráo:

Thành ngữ này do phong tục rước dâu ngày trước tạo nên. Khi cô dâu bước chân về nhà chồng, mẹ chồng ra đỡ nón cho cô dâu, nhúng chân cô dâu vào một chậu nước để rửa làm phép [trong chậu có bỏ mấy đồng tiền ngầm chúc tiền của sẽ vào như nước]. Sau đó, cô dâu phải bước qua một chậu than hồng [để trừ ma quỷ] trước khi vào buồng.

Vì vậy, thành ngữ này có nghĩa là: thời gian chưa lâu [cô ấy mới chân ướt chân ráo về nhà chồng].

64. Chân le chân vịt:

Le là giống biết bay, vịt là giống không biết bay chỉ lạch bạch đứng một chỗ. Câu này ý nói nửa muốn đi, nửa muốn ở.

65. Chim ra rang:

Ràng là từ cổ, có nghĩa là chuồng: Một số nơi còn dùng từ ràng trâu để chỉ chuồng trâu. Chim ra rang là chim đã đủ lông đủ cánh, mới ra khỏi chuồng [tức chim non]. Hiện nay, ta dùng từ ràng buộc nghĩa gốc là nhốt vào chuồng và cột chặt.

66. Cho bạc cho tiền không bằng cho nghiên cho bút:

Câu tục ngữ này nói lên truyền thống hiếu học của dân ta. Nghiên bút dùng để chỉ việc học hành. Nuôi con học hành đến nơi đến chốn để tạo cho con thành người hữu ích, có đạo đức còn hơn cho con tiền bạc. Tiền bạc dù nhiều thì tiêu cũng hết [miệng ăn núi lở]. Nếu cho con tri thức thì không bao giờ hết vì tri thức gắn liền với nghề nghiệp.

67. Con rồng cháu tiên:

Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là giống rồng, Âu Cơ là giống tiên, sinh ra một trăm người con. Sau đó, Lạc Long Quân đem 50 con xuống vùng biển, Âu Cơ đem 50 con lên núi. Số người này đã lập nghiệp tạo nên các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam. Thành ngữ này nói lên nguồn gốc và lòng tự hào dân tộc.

68. Con cà con kê:

Nông dân ta thường gieo hạt cà, hạt kê thành từng đám. Khi đến tuổi trồng, người ta nhổ lên, bó từng bó nhỏ gọi là con, rồi mới đem cấy ở ruộng. Công việc trồng cà, trồng kê rất lâu, rề rà, vì phải tách ra từng cây giống trước khi cấy vào luống. Vì vậy thành ngữ này thường dùng với từ “kể lể con cà con kê suốt cả buổi” để chỉ thói quen nói dai, kể lể dài dòng, hết chuyện này đến chuyện khác.

69. Có công mài sắt có ngày nên kim:

Đây là một câu tục ngữ rất phổ biến, khuyên mọi người phải có ý chí bền bỉ, kiên nhẫn thì dù việc khó đến đâu cũng thành công.

Chuyện xưa kể rằng Lí Bạch thuở nhỏ hay ham chơi, ít chịu khó học hành. Một hôm, cậu thấy một bà già đang ngồi bên tảng đá để mài một thanh sắt. Cậu hỏi thì bà trả lời: “Mài thanh sắt để làm thành cái kim khâu cháu ạ!” Cậu hỏi: “Liệu hôm nay có xong không hả cụ?” Bà già trả lời: “Hôm nay không xong thì ngày mai mài tiếp. Tháng này không xong thì tháng sau mài tiếp”.

Thấy vậy, Lí Bạch chợt hiểu ra và từ đó dốc tâm học tập. Về sau, Lí Bạch học giỏi, trở thành một nhà thơ nổi tiếng đời Đường Trung Quốc.

70. Công dã tràng:

Dã tràng là một con vật nhỏ, giống hình con cáy, chạy rất nhanh, sống ở bãi cát ven biển. Dã tràng thường dùng hai càng để xe cát và ăn các chất hữu cơ có trong cát. Cát bị xe thành từng viên nhỏ như hạt đu đủ, mỗi khi có sóng biển tràn lên thì tan ra hết. Vì vậy mọi người cho rằng dã tràng làm một việc vô ích. Ca dao có câu :

Dã tràng xe cát biển Đông

Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.

Từ đó, thành ngữ này dùng để chỉ một việc làm phí công sức mà không có ích lợi.

Cổ tích của ta cũng có chuyện Dã Tràng có viên ngọc nghe được tiếng nói của chim. Sau viên ngọc bị Long Vương lấy mất nên Dã Tràng cứ ở ven biển đào cát để tìm lại viên ngọc.

71. Công như công cốc:

Cốc là một loài chim mình đen như quạ, có tài lặn dưới nước để bắt cá. Nhiều người dân chài đã thuần dưỡng cốc để kiếm cá cho chủ. Hoặc cho Cốc đeo một chiếc vòng bằng đồng cổ. Hễ mò được cá nhỏ, cốc có thể nuốt được. Nhưng nếu bắt được cá to, cốc đành chịu. Chủ nuôi sẽ được cá to đem bán. Thành ngữ này nói lên ý tốn công sức mà không được hưởng thành quả.

72. Của người bồ tát, của mình lạt buộc:

Vế thứ hai “của mình lạt buộc” thì ai cũng hiểu và giữ khư khư, không chịu rời cho ai đồng nào. Nhưng còn vế đầu “của người bồ tát” thì bồ tát nghĩa là gì? Có nhiều cách giải thích khác nhau.

1. Theo trong kinh Phật, bồ tát là bậc tu hành đã đắc đạo, có thể lên ngôi như Phật nhưng vẫn nán lại nơi hạ giới để cứu nhân độ thế. Ông Bồ Tát rất phóng tay cứu giúp mọi người.

2. Có người cho rằng bồ tát là nói chệch của từ bố tát. Bố từ Hán có nghĩa là tung ra [như trong bố thí]. Tát từ Hán có nghĩa là buông thả [bố tát là tháo tung ra]. Dù giải thích cách nào thì nghĩa của vế đầu vẫn là: “của người thì phung phí rộng rãi” để đối lập với vế sau là bo bo giữ của mình.

73. Cữ gió tuần mưa:

Theo cách chia thời gian ngày trước, một cữ là 7 ngày, một tuần là 10 ngày. Ngày nay vẫn còn nói “Chị ấy mới ở cữ”, tức mới sinh con được một vài cữ. Một tháng chia ra ba tuần: thượng thần [10 ngày đầu tháng], trung tuần [10 ngày giữa tháng], hạ tuần [10 ngày cuối tháng].

Câu này nói ý nhớ người thân đi xa vất vả.

Não người cữ gió tuần mưa

Một ngày nặng gánh tương tư một ngày

[Truyện Kiều]

74. Cười như nắc nẻ:

Nắc nẻ là loại côn trùng hình như con bướm, ban đêm hay bay vào nơi thắp đèn, luôn đập cánh, xè xè trên vách. Thành ngữ này ý nói cười liên tiếp không dứt. [Có sách giải nghĩa cười giòn giã là không chính xác].

75. Cưỡi ngựa xem hoa:

Câu này có nghĩa là qua loa, đại khái, không tìm hiểu kĩ. Sở dĩ có thành ngữ này cũng là do câu chuyện sau: Một chàng công tử chân bị què muốn đi xem mặt vợ. Không ngờ cô vợ tuy đẹp nhưng bị sứt môi. Người làm mối cho chàng công tử cưới ngựa đi qua cổng và dặn cô gái đứng ở cổng, tay cầm bông hoa che miệng. Hai bên đồng ý kết hôn. Khi cưới mới biết các tật của nhau.

76. Ba voi không được bát nước xáo:

Trong nhiều từ điển đều giải thích nghĩa là “nói khoác, không đúng sự thật”, hoặc “huênh hoang, hứa nhiều nhưng không làm đúng như lời đã hứa”.

Cơ sở cho cách hiểu trên là sự tương phản về khối lượng. Một bên là voi, một loài thú rất lớn [thậm chí là ba voi, hoặc mười voi để tăng về khối lượng] và một bên là bát nước xáo, một lượng rất ít. Đó là nghĩa bóng của thành ngữ này.

Không một người Việt nào hiểu sai thành ngữ trên [ví dụ hiểu thịt voi không ngon cho nên nước xáo nhạt]. Nhưng về nghĩa thực [nghĩa đen] thì ít người hiểu rõ. Trong bài “Kể chuyện về loài voi” của Bá Thành [Tuần tin tức số 15-1993] có một thông tin rất đáng chú ý: “Thịt voi là loại thịt săn, chắc, đặc biệt là thịt ở vòi. Khi nấu thịt voi dù có đổ nhiều nước, thịt nở ra vẫn hút hết nước”. Có lẽ nhờ tính chất hút rất nhiều nước của thịt voi mà chúng ta hiểu rõ thêm về nghĩa đen của thành ngữ này vì đã mấy ai được ăn thịt voi, luộc thịt voi mà biết rõ. [Theo Hà Quang Năng]

77. Bán chỗ nằm, mua chỗ ngồi:

Câu này cũng gần nghĩa với câu “Bán gia tài mua danh phận”. Ngày trước, ở nông thôn, người ta chuộng chỗ ngồi ở chốn đình trung khi họp làng. Nhiều người bỏ tiền mua một chức Nhiêu, chức Xã để có một chỗ ngồi, rồi lại phải khao vọng tốn kém. Vì thế có người phải bán cả nhà, đất để có một danh vị hão. Chỗ nằm tức là nơi nhà ở, chỗ ngồi tức là góc chiếu nơi đình trung.

78. Bạn tri âm:

Tri âm nghĩa là hiểu được tiếng đàn, nghĩa rộng là hiểu được lòng mình. Trong truyện “Kim cổ kì quan” của Trung Quốc có ghi lại một tình bạn hiếm có giữa Bá Nha và Chung Tử Kì. Bá Nha làm quan, một lần đi thuyền về quê, ghé đậu vào một bến sông. Trong đêm trăng, Bá Nha đem đàn ra gảy. Vừa lúc đó, Tử Kì đi qua, nghe tiếng đàn liền dừng lại. Thấy có người mải mê nghe tiếng đàn, Bá Nha liền mời xuống thuyền. Tử Kì là người sành nghe đàn. Khi Bá Nha nghe đến núi cao thì Tử Kì khen. “Cao vời vợi như núi Thái Sơn”. Khi Bá Nha nghe đến sông nước thì Tử Kì khen “mênh mông như Trường Giang, Hoàng Hà”.

Thấy có người hiểu sâu được tiếng đàn của mình, Bá Nha liền kết làm anh em và hỏi về gia cảnh. Tử Kì thưa còn có mẹ già nên hàng ngày phải đi đốn củi để bán lấy tiền nuôi mẹ. Bá Nha từ biệt Tử Kì để xuôi thuyền về quê và hẹn một tháng sau, khi trở lại nhiệm sở sẽ ngé thăm. Đến hẹn, Bá Nha tìm đến thì Tử Kì đã qua đời, chỉ còn mẹ già. Bá Nha mời mẹ Tử Kì về ở với gia đình mình và phụng dưỡng rất chu đáo. Từ ngày Tử Kì mất, Bá Nha treo đàn vì mất bạn tri âm.

Thành ngữ của ta còn có các câu nói về tình bạn như “bạn cố tri” [bạn hiểu nhau từ lâu], “bạn nối khố” [bạn từ thuở hàn vi chia nhau cả cái khố vải].

79. Bầu dục chấm nước cáy [chấm mắm cáy]:

Bầu dục là món ăn ngon và bổ trong bộ lòng lợn. Nước cáy là thứ nước mắm ướp bằng con cáy, thường nặng mùi, có sắc đục, chấm không ngon. Bầu dục mà đem chấm nước cáy thì phí mất cả chất ngon của bầu dục.

Đại ý câu này nói lên hai đối tượng không phù hợp, không cân xứng. Cũng còn có ý chê người có miếng ngon mà không biết cách ăn.

Câu này thường bị nói lầm là “dùi đục chấm nước cáy”.

80. Bạo hổ bằng hà:

Thực ra phải nói là bạo hổ băng hà. Bạo hổ là tay không bắt hổ, băng hà là không có thuyền mà dám vượt qua sông lớn. Thành ngữ này ý nói táo bạo nhưng mạo hiểm.

81. Bằng cái sẩy nẩy cái ung:

Sẩy là nốt rôm nhỏ nổi trên da. Nếu không biết giữ gìn thì có thể trở thành cục to nguy hiểm [cái ung, cái nhọt]. Câu này khuyên ta đừng có coi thường việc nhỏ hoặc để chỉ một tai nạn lớn từ việc nhỏ gây nên.

82. Bĩ cực thái lai:

Kinh dịch có 64 quẻ, trong đó có quẻ bĩ và quẻ thái. Quẻ bĩ tượng trưng cho sự bế tắc, không thuận lợi, quẻ thái tượng trưng cho sự thuận lợi, hanh thông. Đây cũng là một quan điểm biện chứng, lạc quan. Khi nào sự bế tắc đến cùng cực [bĩ cực] thì sự hanh thông, thuận lợi sẽ tới [thái lai]. Câu này nói ý hết khổ đến sướng, giống như câu “khổ tận cam lai” [khổ là đắng, cam là ngọt, hết thời cay đắng thì đến thời ngọt bùi].

83. Bố vợ là vớ cọc chèo:

Trong tiếng Việt hiện đại, vớ là danh từ có nghĩa là bít tất [miền Nam vẫn dùng], vớ là động từ có nghĩa là tóm được, níu lấy. [chết đuối vớ được cọc, nạ dòng vớ được trai tơ].

Cả hai nghĩa trên đều không khớp với câu tục ngữ này. Vớ trong câu tục ngữ là từ cổ, hiện nay chỉ một số vùng còn dùng như ở Tam Kì [Quảng Nam]. Vớ là một vật kết bằng thừng, giống hình số 8, một nửa lồng vào mái chèo còn nửa kia lồng vào khấc ở đầu cọc chèo. Nếu không có cái vớ thì không chèo được, nếu buộc chặt mái chèo vào cọc chèo cũng không chèo được. Câu này có nghĩa là: tình cảm giữa bố vợ và chàng rể dù có buộc nhưng không chặt chẽ, khăng khít như con đẻ. Ý này rất hợp với câu thứ hai “Mẹ vợ là bèo trôi sông”.

Bèo trôi sông cũng kết thành mảng nhưng kết không chặt, sóng to gió cả cũng dễ tan.

Từ câu tục ngữ trên nên mới có từ “bạn cọc chèo” để chỉ hai anh rể lấy hai chị em ruột [bạn đồng hao].

84. Bợm già mắc bẫy cò ke:

Bẫy cò ke là loại bẫy thô sơ dùng để bẫy chim. Bẫy bằng tre, có cần và lẫy. Mồi gắn với lẫy. Hễ chim ăn mồi thì lẫy bật ra và cần tre sẽ sập xuống.

Bợm già là những tay lọc lõi trong nghề lừa đảo, thế mà có khi còn mắc bẫy, mắc những mưu lừa tầm thường vì thiếu cảnh giác.

[Cò ke có nhiều cách giải thích. Cò ke là một loại quả dùng làm mồi. Cò ke là chiếc cò có lẫy].

85.

86. Vênh váo như khố rợ phải lấm

Câu này thường bị nói nhầm thành “Vênh váo như bố vợ phải đấm”.

Ngày trước, nhiều người nghèo đến mức không có vải để đóng khố, phải dùng vỏ một loại cây, ngâm nước rồi đập thành mảng cho mềm để đóng khố [chăn sui khố rợ]. Đóng khố có yêu cầu là kín hai bên nhưng khố rợ khi lấm bùn thì không mềm như vải mà cứng lại, tạo nên sự vênh váo.

87. Vung tay quá chán

Vung là động từ chỉ hoạt động nhanh, mạnh khi ném một vật gì. Vung còn đi với các từ vung vãi, vung phí.

Quá chỉ ý vượt quá hơn mức bình thường như thái quá, quá trớn. Thành ngữ này nói lên sự vung phí tiền của thái quá so với mức cần thiết và có nhiều đặc điểm chung với thành ngữ “Ném tiền qua cửa sổ”. Song thành ngữ Vung tay quá chán có ý nghĩa và cách dùng rộng hơn nghĩa là không chỉ nói về chi tiêu hoang phí mà còn nói về bất kì sự chi dùng hoang phí nào.

88. Xắn tay quai cồng

Cồng là một loại chiêng nhỏ dùng để làm hiệu lệnh. Quai cồng thường là loại dây thừng to và bề. Khi đánh, một tay xách quai, một tay dùng để gõ vào mặt cồng. Người phụ nữ xưa mặc váy dài. Khi làm việc, họ phải buộc một dây thừng vào bụng và giắt cặp váy vào dây cho váy cao lên khoảng đầu gối để đỡ vướng.

Thành ngữ này dùng để chỉ những người phụ nữ tháo vát, lam lũ. Cũng có khi dùng chỉ những người phụ nữ đanh đá.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến trong câu đối khóc vợ cũng có hình ảnh này: “Nhớ bà xưa, xắn tay quai cồng, chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc”.

89. Xấu như ma lem

Ở Trung Quốc ngày xưa có 4 người đẹp và 5 người xấu được ghi trong sử sách và truyền vào nước ta.

Bốn người đẹp là: Tây Thi [đời Xuân Thu], Chiêu Quân [đời Hán], Điêu Thuyền [đời Tam Quốc], Dương Quý Phi [đời Đường].

Năm người xấu nhất nước là: Mô Mẫu [vợ hoàng đế Trung Hoa cổ đại]

Chung Vô Diệm [vợ vua Tề Tuyên Vương thời Chiến Quốc].

Mạnh Quang [vợ danh sĩ Lương Hồng đời Hậu Hán]

Nguyên Nữ [vợ danh sĩ Hứa Doãn đời Đông Tấn].

Hoàng Thi [vợ Khổng Minh Gia Cát Lượng].

Trong số này, Chung Vô Diệm là xấu nhất. Bà chính họ là Chung Li, tên là Xuân, người đất Vô Diệm, tỉnh Sơn Đông [chính bà này được người đời gọi xấu như ma lem]. Sách xưa ghi lại hình dáng bà như sau: tóc đỏ, mắt xanh, môi dày, miệng rộng, bụng phệ, lưng gù, da sạm.

Tại sao Tề Tuyên Vương lại lấy bà này làm chính phi? Bà rất tài trí tinh thông văn võ. Năm 40 tuổi, bà xin gặp mặt vua. Chỉ trong một buổi đối thoại, Tề Tuyên Vương đã bị thuyết phục. Khi nhà vua hỏi về việc nước bà thua “Nước Tề bị nước Tấn uy hiếp ở phía tây, nước Sở uy hiếp ở phía nam, đó là nguy cơ thứ nhất. Nhà vua làm nhọc sức dân, hao tiền tốn của, đó là nguy cơ thứ hai. Trong triều hiếm người hiền, trọng kẻ nịnh, đó là nguy cơ thứ ba. Đấng Quân Vương ham mê tửu sắc, không sửa sang chính trị trong nước, đó là nguy cơ thứ tư”.

Trước những lời thẳng thắn, cương trực của Chung Li, Tề Tuyên Vương đã bừng tỉnh và nói: “Nếu không có lời nói của nhà ngươi thì quả nhân không bao giờ biết được lỗi lầm của mình”. Vua liền lập Chung Vô Diện làm chính phi để giúp mình trông coi việc nước.

Câu chuyện này nhập vào nước ta cũng có ý sâu xa, vì bà này tuy dung nhan xấu nhưng công, ngôn, hạnh lại nổi bật.

90. Xập xí xập ngầu

Đây là một thành ngữ gốc Hán, do Hoa kiều ở Quảng Đông, Phúc Kiến dùng và đã nhập vào kho thành ngữ tiếng Việt.

Hoa Kiều phát âm là “xập xí xập ngầu” nhưng nếu đọc theo âm Hán Việt là “tập tứ thập ngũ” [mười bốn mười lăm]. Nghĩa của thành ngữ này là: mười bốn nói là mười lăm, mười lăm nói là mười bốn, không minh bạch rõ ràng.

Hình ảnh loài vật trong thành ngữ

Trong tiếng Việt, nhân dân ta thường mượn hình tượng các con vật để tả vẻ xấu, đẹp, tính lành dữ của con người. Lối so sánh này giàu tính nghệ thuật và trí tưởng tượng là cho tiếng Việt thêm giàu, thêm đẹp.

1. Muốn thể hiện vẻ xấu đẹp về diện mạo, ta thường nói: mắt bồ câu, mày ngài mắt phượng, ti hí mắt lươn, trơ mắt éch, tròn xoe như mắt ốc nhồi, trắng dã như mắt lợn luộc, đỏ hoe như mắt cá chày, lông mày sâu róm, mũi sư tử, dô như trán khỉ, mồm cá ngão, mồm loa mép giải, nhăn như khỉ ăn gừng, mặt dài như mặt ngựa…

2. Muốn thể hiện hình dáng, ta thường nói: gầy như xác ve, béo như lợn ỉ, thắt đáy lưng o­ng, mình cá trắm, gù lưng tôm, đùi dế, cổ cò, chân dài như chân sếu, to như chân voi, tay dài như vượn, đen như quạ, béo như cun cút…

3. Muốn thể hiện tính nết, phong cách, ta thường nói : nhanh như sóc, chậm như rùa, yếu như sên, khỏe như trâu, mạnh như hổ, hôi như cú, hôi như chuột chù, dốt như bò, chữ như gà bới, lủi như cuốc, ngu như lợn, học như cuốc kêu mùa hè, thẳng như ruột ngựa, dai như đỉa đói, ngang như cua…

4. Hình ảnh loài vật còn được dùng để thể hiện hoàn cảnh đời sống.

Page 3

1. Ánh sao kia không những dẫn đường ta đi trong đêm tối mà còn báo cho chúng ta biết bình minh sắp đến.

2. Bạn cần phải chuẩn bị sẵn sàng để xuất phát bất cứ lúc nào. Khi sóng biển nổi lên, tôi mong rằng bạn sẽ đứng ở đó.

3. Bạn có một trí tuệ như sóng dâng trào và một đôi tay cần mẫn, cho dù ở nơi nào, thì hạnh phúc và may mắn sẽ đồng hành với bạn.

4. Bí quyết của thành công là không bao giờ thay đổi mục tiêu đã đặt ra.

5. Biểu hiện bên ngoài của tài năng khiến người ta phải ca tụng, nhưng tài năng ẩn giấu chưa bộc lộ thì có thể mang đến một vận mệnh tốt.

6. Các nhà phát minh hoàn toàn dựa vào niềm tin và sự cố gắng không ngừng mới có đủ can dảm để tìm hiểu những cái chưa biết trong trời đất.

7. Cái đáng thương nhất là vô tri, cái đáng buồn nhất là tự ti, cái đáng buồn cười nhất là cuồng vọng, cái đáng trân trọng nhất là sự ngoan cường.

8. Chỉ dựa vào hành động thì không thể đuổi kịp vạn dặm viễn trình, chỉ dựa vào sự nhiệt tình thì không thể leo lên được ngọn núi lí tưởng. Phải dựa vào sự cần cù, nhẫn nại thì mục tiêu của cuộc hành trình mới có thể đạt được.

9. Chỉ vì lỗi lầm nhỏ mà thua mất cả bàn cờ.

10. Cho dù bạn mất đi mọi thứ thì bạn vẫn còn có tương lai.

11. Chúng ta không nên chờ đợi sự ban tặng của tự nhiên; chúng ta cần phải tìm đến nó, đó chính là nhiệm vụ của chúng ta.

12. Có niềm vui có nỗi buồn mới có sáng tạo.

13. Đá quý dù bị lãng quên thì nó vẫn phát ra ánh sáng.

14. Đem toàn bộ sức lực tinh thần của mình đặt vào mục tiêu có thể sinh ra sự tự tin vô hạn.

15. Hi vọng khiến cho bạn trẻ trung hơn vì hi vọng và tuổi xuân là anh em.

16. Khí chất tao nhã khiến cho những người quen biết bạn mãi mãi lưu đọng hình ảnh bạn trong tim.

17. Khó khăn và trắc trở có lẽ có lợi để rèn luyện. Nó chính là nguồn động lực để chúng ta tiếp tục tiến lên phía trước.

18. Không nên u sầu nhìn lại chuyện đã qua, bởi vì nó một đi không trở lại; hãy sáng suốt mà nắm chắc lấy hôm nay, nó sẽ thuộc về bạn đó; hãy đón chào một ngày mai với một trái tim của một người dũng cảm.

19. Không nhận ra sai lầm thì mãi mãi chìm trong sai lầm.

20. Không phải việc gì cũng làm bạn loạn tâm, không phải việc gì cũng làm bạn buồn đau, chỉ cần kiên nhẫn thì trước mắt sẽ có những niềm vui và sự bình yên.

21. Không vào hang hổ sao bắt được hổ con.

22. Kì tích của tự nhiên xuất hiện từ sự chinh phục khó khăn.

23. Lí tưởng không vứt bỏ những người khổ tâm tìm kiếm nó, chỉ cần không ngừng tìm kiếm là bạn đã bơi lội trong ánh sáng lí tưởng rồi.

24. Lúc khó khăn phải kiên cường, lúc vui vẻ phải dè chừng.

25. Mặc dù có phong ba bão táp, có khó khăn chướng ngại, nhưng chúng ta đừng bao giờ e sợ trước gió mưa và cũng đừng bao giờ nản bước trước chông gai, mà hãy nên nhớ rằng: Bức thành rạng rỡ trong gió táp mưa sa thì chông gai sẽ lùi lại đằng sau.

26. Mỗi người đều tự biết sở đoản của chính mình thì có thể cải tạo nó thành cái tốt, cũng chính là cái phúc vậy.

27. Muốn có được chí khí thì tự mình phải cổ vũ cho mình, muốn tranh hùng thì phải có chí khí cao.

28. Muốn làm nên sự nghiệp lớn thì phải làm từ những việc nhỏ.

29. Nếu ngọn lửa lí tưởng trong trái tim không bao giờ tắt, thì tuyệt vọng sẽ mãi mãi không thuộc về tôi.

30. Nếu như bạn hỏi một người trượt tuyết làm như thế nào để thành công, anh ấy sẽ nói với bạn rằng: "Hãy đứng dậy sau khi té ngã", đó chính là con đường dẫn đến thành công.

31. Người có niềm tin thì có thể làm cho việc nhỏ bé trở nên vĩ đại, điều bình thường trở nên thần kì.

32. Người có quyết tâm phải thành công tức là đã thành công một nửa.

33. Người mà mọi thứ đều may mắn không phải không có nỗi buồn phiền; người lúc nào cũng bất hạnh không phải là không có niềm hi vọng.

34. Người thành công nhất trên thế gian này chính là những người biết nỗ lực đi tìm cơ hội mà họ mong muốn, nếu như chúng ta không thể tìm được những cơ hội nào thì hãy tự mình tạo ra.

35. Người thành công thì nên lấy hằng tâm làm bạn tốt, lấy kinh nghiệm làm tham mưu, lấy cẩn thận làm huynh đệ.

36. Người thông minh đem hi vọng gửi vào sự nghiệp, người hồ đồ đem hi vọng gửi vào ảo mộng.

37. Người thông minh ngày hôm nay làm việc ngày mai, người bướng bỉnh thì ngày hôm nay làm việc ngày hôm qua, người hồ đồ thì đem việc hôm qua kí gởi cho ngày mai.

38. Quá khứ không phải là không đáng quý, nhưng cái quý trọng hơn và nên quý trọng đó là hiện tại.

39. Sống mà không biết mục tiêu là gì, giống như ngọn cỏ nhỏ trên dòng sông, bị sóng cuốn trôi.

40. Thành công chỉ đến trong lao động gian khổ.

41. Thành công là chăm chỉ không biết mệt mỏi, là kết quả sau khi vượt qua được những khó khăn. Trên thế gian tuyệt đối không có việc gì dễ dàng mà đạt được thành quả to lớn.

42. Thành công là sự kết hợp giữa hi vọng và sự phấn đấu.

43. Thất chí sinh ra thất vọng, thất vọng sinh ra dao dộng, dao động sinh ra thất bại. Xin hãy chia tay với thất chí để cùng niềm tin kết thành tri kỉ.

44. Thời gian là dòng suối vô hình nhưng con người có chí phấn đấu lại nghe thấy âm thanh tiếng nước chảy.

45. Vinh quang của cuộc đời không phải ở việc không bao giờ thất bại mà là vấp ngã rồi đứng lên.

46. Xin đừng dừng lại ở cuối hang sâu thẳm, hãy dũng cảm đi lên, trước mắt bạn sẽ là con đường lớn.

47. Ý chí tạo ra vận mệnh con người.

Thái Hà

Website: //nhanvanblog.com/

Facebook: //www.facebook.com/thaiha811

Page: //www.facebook.com/nhanvanblog/

Email: 

Page 4

1. Bạn đừng lưu luyến mộng ảo đêm qua, đó là cảnh vụt qua rồi biến mất.

2. Bước đi theo người chỉ có thể giẫm lại dấu chân người khác; dũng cảm khai phá, mới có thể đi con đường thuộc về mình.

3. Cái đáng được chớ nên bỏ lỡ, cái không đáng được, chớ có nên cưỡng cầu.

   Cái đáng thuộc về bạn, muốn tránh cũng không tránh được; cái không đáng là của bạn, muốn cầu cũng không cầu được, thế thì để tất cả mọi cái thuận theo tự nhiên, có công thì tự nhiên thành.

4. Chỉ có vì mục tiêu vĩ đại, mới có thể sản sinh sức mạnh vĩ đại.

5. Con người, vừa không thể tự nhận là nhỏ bé, vừa không thể tự cho là lớn lao. Bởi vì tự nhận là nhỏ bé thì chú định sẵn bạn vĩnh viễn không làm gì được, mà tự cho là lớn lao thì sẽ kết thúc trong hư ảo.

6. Để bầu trời tuổi trẻ lưu lại chút màu xanh trong sạch, đừng quá sớm học biết khéo miệng khéo miệng, thạo đời, hãy từ từ thưởng thức cái thuần phác và ngây thơ của tuổi trẻ mà về sau không còn có nữa.

7. Đó là bởi bạn không phát hiện ra năng lực tiềm tàng.

8. Đừng chỉ ngưỡng mộ thành công của người khác, còn nên nhìn đến sự gian khổ của anh ta trước khi thành công.

9. Đừng cứ hi vọng làm cái gì đều có thể một hơi là xong, cuộc đời cũng phải có sự cấu tứ dài dài.

10. Đừng khiến mình thành một mặt phẳng im lìm bất động, mà phải thành một bánh xe tròn lăn về phía mục tiêu.

11. Khe nhỏ nếu sợ sự xa xôi và trắc trở của con đường, vĩnh viễn cũng tìm không được biển cả.

12. Khi bạn buồn rầu, nếu có thể nghĩ đến vui sướng thì giống như ánh đèn xoay chuyển trên sân khấu chiếu đi chiếu lại, tất cả những gì không vui sẽ tan biến.

13. Khi coi khó khăn quá lớn, sức mạnh của mình cũng theo đó mà giảm bớt.

14. Một mực hối tiếc hoặc lưu luyến ngày hôm qua sẽ khiến chúng ta mất đi hôm nay, mà nắm chắc lấy hôm nay sẽ có hi vọng ôm ấp ngày mai.

15. Nắm chắc lấy hôm nay, hơn là hai cái ngày mai.

16. Nếu chúng ta dùng tuổi tác để khoan thứ cho mình, thì thời gian sẽ không khoan thứ tuổi tác.

17. Người gửi hi vọng vào tương lai mà không gửi hi vọng vào hiện tại sẽ vĩnh viễn không có hi vọng.

18. Nói ra quyết tâm không bằng làm ra hành động, nói ra lời hứa hẹn không bằng làm ra việc thực.

19. So với rỗi mồm kể xấu người khác, chi bằng im lặng nghĩ đến sai lầm của mình.

20. Sự nghiệp là muối của cuộc đời, nếu một đời về sự nghiệp không làm được chút gì, đời người sẽ nhạt nhẽo vô vị.

21. Theo đuổi đích thực, không chỉ là khát vọng đối với lí tưởng, mà phải đấu tranh để thực hiện lí tưởng.

22. Trong lòng vẫn phải có hi vọng. Cõi lòng không có hi vọng là đất hoang không mọc ngọn cỏ.

23. Tuổi trẻ, niềm tin, hạnh phúc giống như từng hạt ngọc lấp lánh loé sáng, nếu không có sợi dây phấn đấu xâu chúng thành chuỗi thì sẽ rơi mất.

24. Vinh dự là động lực để tiến lên, cũng có thể biến thành gánh nặng khiến mình khư khư nếp cũ.

25. Yêu thích chỗ hay của người khác, lượng thứ khuyết điểm của người khác, có thể khiến đời bạn vui vẻ thoải mái mà tràn ngập ánh sáng.

Thái Hà

Website: //nhanvanblog.com/

Facebook: //www.facebook.com/thaiha811

Page: //www.facebook.com/nhanvanblog/

Email: 

Video liên quan

Chủ Đề