Trình bày phương pháp cải tạo ao vùng đất phèn

Xử lý nước nhiễm phèn trước khi lấy vào ao nuôi tôm .
Ảnh: thuysanvietnam.com.vn

Tác hại của nước nhiễm phèn Ao nuôi nhiễm phèn nặng thường đi kèm với pH thấp, lượng canxi rất ít làm mất cân bằng áp suất thẩm thấu giữa vật nuôi và môi trường nước, khiến tôm khó lột vỏ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình tạo vỏ, khiến tôm mềm vỏ hoặc lột vỏ không hoàn toàn, bị dính vỏ, tỷ lệ sống không cao. Nước ao nhiễm phèn nặng còn làm giảm khả năng gắn kết giữa ôxy và hợp chất HP [Hemoglobin] trong máu, quá trình hô hấp tăng cao làm cho tôm cá và vi sinh vật mất nhiều năng lượng hơn từ đó giảm khả năng sinh trưởng, sinh sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất nuôi. Hợp chất phèn lơ lửng trong nước sẽ bám vào mang, cản trở quá trình hô hấp của tôm, đặc biệt khi tôm còn nhỏ. Nồng độ pH thấp làm cho lượng khí H2S trở nên độc hơn gây ức chế cho quá trình trao đổi chất và chuyển hóa ôxy của tôm nuôi làm cho tôm nuôi chậm lớn, màu sắc kém, mất giá. Ngoài ra, ao nuôi bị nhiễm phèn còn làm cho tảo chậm phát triển, từ đó rất khó gây màu nước ao nuôi tôm, cá. Thông thường ao nuôi bị nhiễm phèn màu nước sẽ thay đổi thường xuyên do sự biến động của tảo.

Nguyên nhân nước nhiễm phèn

Nước nhiễm phèn là do đất tại vùng đào ao có chứa hàm lượng sulfat cao, cùng với điều kiện yếm khí và hoạt động của vi sinh vật nên sulfat bị khử, từ đó gốc lưu huỳnh sẽ kết hợp với hàm lượng sắt [Fe] có trong trầm tích tạo thành chất FeS2. Dấu hiệu cho biết vùng đất nhiễm phèn thường có màu xám đen, vùng có chứa hàm lượng FeS2 cao, khi phơi khô đất thường có phấn trắng, việc đào ao nuôi tôm thì việc xử lý phèn sẽ rất vất vả.

Biểu hiện ao nuôi nhiễm phèn

Sau những trận mưa, ao có những biểu hiện nhiễm phèn như nước ao trong hơn hoặc chuyển màu trà nhạt, có váng vàng nhạt nổi trên mặt nước, kiểm tra không có tảo phát triển. Đối với ao nuôi cá, khi độ phèn cao, da cá chuyển màu đen, cá gầy đi và chậm lớn, nếu pH xuống quá thấp cá có hiện tượng chết hàng loạt mà không rõ nguyên nhân. Đối với ao nuôi tôm, quan sát thấy toàn bộ thân tôm chuyển từ màu sáng trong sang màu vàng nhạt đến vàng đậm, màu nước trà, sờ vào vỏ tôm có cảm giác cứng hơn bình thường, đồng thời, mang tôm chuyển sang màu vàng và sơ cứng lại. Tôm khó lột xác và bắt đầu bỏ ăn sau những trận mưa kéo dài, nếu ao bị phèn nặng tôm sẽ dạt bờ và chết rải rác, do ngạt thở bởi phèn bám nhiều vào mang tôm cản trở quá trình hô hấp của tôm.

Cách xử lý ao nhiễm phèn

Khi cải tạo ao, người nuôi không nên phơi đáy vì khi phơi hợp chất Pyrit sắt sẽ bị ôxy hóa tạo nên hydroxit sắt Fe[OH]2, giải phóng ion H+ làm pH giảm. Do vậy, cần cải tạo ướt như cày ướt ngâm nước và thau chua liên tục 3 - 4 lần. Sau khi thau chua, nếu nước vẫn có màu đỏ thì cần bón phân lân [photpho] với liều lượng 2 - 3 kg/100 m2 để giảm sắt. Bón vôi nông nghiệp [CaO] để khử trùng, tăng pH và hệ đệm trong ao, liều lượng 15 - 20 kg/100 m2, vôi được rải đều xuống đáy và bờ ao. Dùng máy đo hoặc quỳ tím để đo pH đáy; nếu pH vẫn thấp thì nên bón thêm vôi, điều chỉnh pH từ 7,5 trở lên. Nếu người nuôi có khả năng về kinh tế thì có thể đầu tư trải bạt toàn bộ nền đáy và bờ ao để ngăn xì phèn là tốt nhất. Đối với ao đất phèn, nên tăng công suất của dàn quạt nước từ 25 lên 30 hp/ha [mã lực] và thay dàn quạt cánh bằng quạt lông nhím nhằm cung cấp đủ dưỡng khí cho tôm. Lấy nước vào ao 1,2 - 1,5 m, khử trùng và bật quạt nước, đo lại pH; nếu chỉ số này vẫn thấp thì có thể lấy vôi nông nghiệp và vôi đen [dolomite] hòa loãng lấy nước tạt vào buổi đêm liều lượng 2 - 4 kg/100 m2, nếu nước bị đục và có váng phèn thì có thể dùng  EDTA hoặc AQUAZEX [0,5 - 0,7 kg/100 m3 nước] để keo tụ váng phèn. Sau khi xử lý nước có thể bón cám ủ, bột cá để gây màu nước trong ao đồng thời bổ sung chất khoáng để giữ màu nước được bền, lâu. Khi ao lên màu nước, kiểm tra độ trong của nước đạt 35 - 40 cm là được, cần kiểm tra các yếu tố môi trường như độ mặn, pH, H2S lần cuối trước khi thả tôm. Cần lưu ý, sau mỗi trận mưa, nước mưa có chứa axit và lượng xì phèn trên bờ có thể trôi xuống ao làm giảm pH. Do đó, cần dùng Zeolite để keo tụ chất vẩn, sau đó sử dụng chế phẩm sinh học để khoáng hóa đáy ao, đồng thời dùng vôi dolomite hòa vào nước ngọt 24 giờ; sau đó tạt đều xuống ao lúc 8 - 10 giờ đêm, liều lượng 1,7 kg/100 m3 nước. Nên rải vôi nông nghiệp quanh bờ ao trước khi trời mưa; khi mưa to, mực nước ao nuôi lên cao, cần xả bớt nước mặt để tránh giảm độ mặn đột ngột và tràn bờ, vỡ bọng, cống, kết hợp quạt nước để tránh hiện tượng phân tầng nước Trời sắp mưa, cần giảm lượng thức ăn hoặc thậm chí ngừng cho ăn, chờ đến khi ngớt mưa, cho ăn với số lượng giảm 30 - 50% lượng thức ăn bình thường. Nếu dư thức ăn sẽ làm cho tảo lục phát triển mạnh, pH nước ao dao động, tôm sẽ bị đóng rong. Để bảo đảm sức đề kháng và tránh cho tôm bị mềm vỏ, có thể trộn men vi sinh, khoáng chất và Vitamin C vào bữa chính cho tôm ăn mỗi ngày. Từ tháng nuôi thứ 2 trở đi, cần vận hành quạt khí liên tục để cung cấp đủ dưỡng khí cho tôm nuôi, ổn định pH trong ao bằng vôi nông nghiệp và dolomite. Sau 2 tháng, có thể xi phông chất thải dưới đáy ao do quạt nước gom tụ lại, tạo điều kiện thuận lợi cho tôm phát triển tốt.

Theo thuysanvietnam.com.vn


  • nước nhiễm phèn
  • xử lý nước nhiễm phèn

Trong nuôi trồng thủy sản nước ngọt thì kỹ thuật cải tạo ao đầm, cách chọn và thả cá giống, là một trong những khâu quan trọng quyết định đến thành công của cả vụ nuôi. Cải tạo ao sau mỗi vụ nuôi giúp xử lý những mầm bệnh đang lưu lại trong ao, loại bỏ những chất cặn bã do thức ăn dư thừa ở vụ nuôi trước và việc lựa chọn con giống tốt quyết định đến tốc độ tăng trưởng, trọng lượng cá thương phẩm, từ đó quyết định đến thời vụ thu hoạch sớm hay muộn. Vì vậy, để cải tạo ao, cách chọn và thả giống tốt cho mỗi mỗi vụ nuôi thì người nuôi cần thực hiện một số biện pháp kỹ thuật sau:

* Đối với ao nuôi mới: Cấp và tháo nước vào ao từ 2- 3 lần để rửa ao, bón vôi giúp ổn định pH đất lượng bón tùy thuộc vào độ PH của đáy ao, lượng bón từ 7 – 10kg/100m2, thay nước ra nước vào 1- 2 lần nữa sau đó lấy nước vào ao tiến hành đo độ pH nếu ổn định ở mức trên 6,5 thì tiến hành gây màu nước bằng phân chuồng, lượng phân bón với ao mới đào cần bón từ 25 – 30kg/100m2, ngoài ra cũng có thể sử dụng phân vô cơ để gây mầu.

* Đối với ao nuôi cũ: Gồm các bước như sau:

– Bước 1:  Xử lý ao: Tát cạn nước ao, tu sửa bờ cống cấp thoát nước, vét bùn đáy chỉ để lại mức 20cm bùn đáy, san phẳng đáy giúp sinh vật đáy phát triển tốt và tiện thu hoạch.

– Bước 2:  Bón vôi: Dùng vôi bột [vôi tỏa] rắc đều đáy và quanh bờ ao nhằm làm môi trường đáy tơi xốp, diệt ký sinh trùng gây bệnh, giúp động vật đáy phát triển tạo cơ sở thức ăn cho cá, giúp pH, môi trường nước luôn ổn định. Lượng vôi bón tuỳ thuộc vào pH đất với ao đất thịt không chua pH ≥ 6,5 bón 7 – 10kg/ 100 m2, ao đất sét, chua bón 10-15kg/ 100m2 nếu ao bị ô nhiễm có thể bón đến 20kg/100m2 sau đó tháo nước vào tháo rửa 1- 2lần.

Bước 3: Phơi ao: Thời gian phơi ao phụ thuộc vào thời tiết để đảm bảo ao có phơi khô. Thời gian phơi đáy tối thiểu 7 ngày. Tiêu chuẩn ao sau khi phơi: đáy ao khô, nứt chân chim [Lưu ý: nếu đáy ao bị nhiễm phèn thì chỉ nên phơi khô đáy ao không phơi nứt chân chim]

Bước 4: Cấp nước và bón phân gây màu nước: Nước cấp vào ao phải được lọc qua túi lọc gắn vào cửa cống hoặc đầu ra của máy bơm, để tránh cá tạp, cá dữ xâm nhập vào ao. Khi lấy nước vào cần kiểm tra các yếu tố môi trường nước. Khi nước nước đạt từ 1 – 1,5m tiến hành bón lót 30-50 kg phân chuồng/100m2 [lưu ý: phân chuồng đã được ủ kỹ với vôi bột 2-5%], hoặc phân xanh 30-50kg/100m2. sau 3-5 ngày nước ao có màu xanh lá chuối non hoặc vỏ đỗ thì tiến hành thả giống.

* Cách chọn cá giống:

– Lựa chọn các cơ sở cung ứng con giống thủy sản có uy tín, đảm bảo truy xuất được nguồn gốc con giống;

– Khi chọn giống, quan sát cá giống phải đồng đều, không dị tật, không bị xây sát; Hoạt động nhanh nhẹn, bơi theo đàn, phản ứng nhanh với tiếng động, ánh sáng, màu sắc sáng đẹp; không có các dấu hiệu khác về màu sắc, nghi có mầm bệnh.

– Cỡ cá giống thả có vai trò rất quan trọng, giống càng lớn thì càng đảm bảo tỷ lệ nuôi sống cao, rút ngắn được chu kỳ nuôi; Kích cỡ giống thả tối thiểu theo quy định như: Trắm, Chép, Mè, Trôi, Rô phi, Vược: kích cỡ chiều dài từ 6cm – 12cm.

* Thời gian và cách thả cá giống:

– Thời gian thả cá giống tốt nhất vào buổi sáng hoặc chiều mát. Tránh thả cá vào lúc trời đang mưa to hay nắng gắt có thể làm cá bị sốc nhiệt, yếu dẫn đến cá chết.

– Cách thả giống:

+ Trước khi thả cá nên tắm cho cá bằng nước muối 2% [20 gam muối + 1 lít nước] trong thời gian 5-10 phút để loại trừ ký sinh trùng và chống nhiễm trùng các vết xây xát.

+ Đối với cá giống được đóng trong túi nilon thì trước khi thả nên ngâm túi đựng cá vào trong nước ao khoảng 10 -15 phút, để nhiệt độ trong túi nilon cân bằng với nhiệt độ môi trường nước ao nuôi, tạo điều kiện cho cá làm quen với môi trường sống mới. Khi thả mở miệng túi cho nước chảy từ từ vào để cá bơi tự nhiên ra.

+ Đối với cá giống được vận chuyển hở bằng ô tô quây bạt, trước khi thả giống cần cân bằng môi trường giữa nước ao với môi trường nước trên xe bằng cách vừa xả bớt nước trên thùng ra, đồng thời cấp thêm nước ở ao nuôi vào để cá không bị sốc môi trường, sau đó mới tiến hành thả cá từ từ.

+ Mật độ thả: Mật độ nuôi phụ thuộc vào cỡ cá dự kiến thu hoạch, khả năng đầu tư và điều kiện ao nuôi. Thường thả cá truyền thống với mật độ 2-3 con/m2 cỡ giống 5-8 cm, hình thức nuôi có thể nuôi đơn hoặc nuôi ghép.

Người viết bài

Vũ Thị Hiên – TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG NINH BÌNH

Video liên quan

Chủ Đề