Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam dự Hội nghị Paris là ai

Nửa đầu năm 1968, khi đang có mặt ở chiến trường miền Nam với trọng trách Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí Lê Đức Thọ được Bác Hồ và Trung ương gọi gấp về Hà Nội, để chuẩn bị sang Paris đảm đương sứ mệnh Cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trực tiếp đàm phán với đại diện Hoa Kỳ, về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Giữ vai trò cố vấn, nhưng trên thực tế, đồng chí Lê Đức Thọ là “linh hồn” của phái đoàn ta, do cương vị và nhiệm vụ được trực tiếp Bộ Chính trị và Bác Hồ giao phó.

Trong lá thư viết tay gửi Bộ Chính trị, Bác Hồ ghi rõ: “… Anh Sáu [đồng chí Lê Đức Thọ - PV] nên về ngay [trước tháng 5] để tham gia phái đoàn ta đi gặp đại biểu Mỹ”. Đây là sự lựa chọn đầy sáng suốt, bởi đồng chí Lê Đức Thọ là một nhà cách mạng kiên định, có bản lĩnh vững vàng và tầm nhìn chiến lược. Cùng với việc cử đồng chí Lê Đức Thọ làm cố vấn đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ký sắc lệnh phân công đồng chí Xuân Thuỷ làm Bộ trưởng, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ ta tại Hội nghị Paris.

Cái bắt tay lịch sử giữa Cố vấn Lê Đức Thọ với Cố vấn Henry Kissinger sau khi ký Hiệp định Paris.

Ảnh: washingtonpost.com

Trước ngày đoàn ta lên đường sang Paris gặp đoàn Mỹ, đồng chí Lê Đức Thọ đã họp với đoàn và nhấn mạnh yêu cầu tranh thủ sự ủng hộ quốc tế: Muốn tranh thủ dư luận tốt, lí lẽ của ta phải thật sắc bén, có sức thuyết phục, nhằm vào các vấn đề lớn, xoáy vào yêu cầu chủ yếu là đòi chấm dứt vô điều kiện ném bom miền Bắc. Nhiệm vụ chính là phục vụ chiến trường, thăm dò ý đồ của Mỹ chưa phải đi vào giải pháp.

Nhớ về đồng chí Lê Đức Thọ, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình [tại Hội nghị Paris là Trưởng Đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam] khẳng định: Anh Lê Đức Thọ cho rằng trên bàn đàm phán, ta không thể giành được cái mà trên chiến trường ta không giành được. Kết quả đàm phán tuỳ thuộc trước hết vào tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường. Tài trí ngoại giao không thể thay thế cho thực lực, nó chỉ góp một phần, thậm chí một phần quan trọng làm tăng thêm thực lực.

Cùng với anh Xuân Thủy, anh Lê Đức Thọ thường xuyên trang bị những kiến thức cần thiết cho đội ngũ những nhà đàm phán của ta ở Paris. Hai anh giữ mối liên hệ chặt chẽ với Hà Nội,  trực tiếp báo cáo tình hình cuộc đàm phán, nêu lên các sáng kiến và tiếp nhận những chỉ thị của Bộ Chính trị để tiến hành đàm phán…

Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, khi nhớ về đồng chí Lê Đức Thọ, đã khẳng định: Lê Đức Thọ trong suốt gần 5 năm đàm phán ở Paris, ông được ví như vị tướng ngoài biên ải. Ông thực hiện rất nghiêm túc đường lối chiến lược trong đàm phán mà Bác Hồ đã trực tiếp căn dặn và những chủ trương của Bộ Chính trị đã đề ra. Nhưng phần đóng góp của cá nhân ông thật là to lớn. Ông đã có sự vận dụng sáng tạo, luôn luôn giành thế chủ động tấn công, buộc đối phương phải đi vào đàm phán theo cách của mình. Đã có lúc, H.Kissinger phải thốt lên: “Tôi có thể làm tốt hơn nếu như đối diện trên bàn đàm phán không phải là ông Lê Đức Thọ!”.

Trong tháng 10-1972, nội dung cơ bản Dự thảo Hiệp định Paris đã được các bên liên quan thống nhất. Đoàn ta và đoàn Hoa Kỳ cũng dự kiến ngày kí chính thức là 25 hoặc 26-10-1972... Nội dung cơ bản của hiệp định có những vấn đề cơ bản là: Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu; triệt thoái hết các căn cứ quân sự Hoa Kỳ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân Việt Nam; Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do; Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có 2 chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và 3 lực lượng chính trị…

Tuy nhiên, là một đế quốc hùng mạnh, Mỹ không dễ dàng chấp nhận thua thiệt trong đàm phán và cũng không muốn “bỏ rơi” chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Họ tìm cớ trì hoãn việc kí kết bằng cách đưa ra những đòi hỏi khó chấp nhận đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Đến ngày 20-11-1972, Cố vấn H.Kissinger đề nghị sửa đổi 69 điểm trong bản dự thảo Hiệp định, theo yêu cầu của chính quyền Sài Gòn, trong đó có đòi hỏi quân đội miền Bắc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam.

Những ngày sau H.Kissinger liên tiếp đưa ra những đòi hỏi vô lí và ngày 23-11-1972, khi gặp Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, ông ta đã đọc bức điện của Nixon ngầm đe dọa ngừng đàm phán, ném bom trở lại… Tuy nhiên Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã khảng khái đáp lại: “Chúng tôi đã đánh nhau với các ông mười mấy năm và cũng đã đàm phán 5 năm rồi. Nay các ông có sẵn sàng mới đi đến giải quyết; không thể dùng đe dọa với chúng tôi được đâu”.

Trước thái độ của phía Mỹ, đồng chí Lê Đức Thọ đã nhận định bằng hai câu thơ: “Dằn lòng chờ đợi ít lâu/Chầy ra thì cũng năm sau vội gì”. Thực tế diễn ra đúng như vậy. Sau khi cuộc đàm phán tạm thời bế tắc, đồng chí Lê Đức Thọ rời Paris vừa về đến Hà Nội thì Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh khai màn Chiến dịch Linebaker II hòng san phẳng thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, buộc ta phải kí kết Hiệp định Paris theo những điều kiện của họ. Tuy nhiên, với thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ trên không, Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom và đề nghị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nối lại đàm phán.

Trở lại Paris, trong cuộc họp với phía Mỹ ngày 8-1-1973, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã nghiêm khắc lên án phía Mỹ gây ra đợt ném bom huỷ diệt trong mùa Noel năm 1972… Sau gần một tháng nối lại đàm phán, ngày 23-1-1973, hai bên đạt được thoả thuận cuối cùng và kí tắt Hiệp định và 4 Nghị định thư. Đến ngày 27-1-1973, bốn ngoại trưởng của bốn bên, gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã kí chính thức Hiệp định Paris vào ngày 27-1-1973, kết thúc cuộc đàm phán lịch sử kéo dài 5 năm và đầy kịch tính./.

Theo Báo Công an Nhân dân

Cố vấn Lê Đức Thọ và ông Kissinger tại Hội nghị Paris.

Lê Đức Thọ [1911-1990]

Ông tên thật là Phan Đình Khải, sinh ngày 10/10/1911 tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Vì tham gia các hoạt động cách mạng [tổ chức bãi khóa, dự lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, lãnh đạo phong trào đấu tranh của học sinh...], ông bị thực dân Pháp bắt giam hai lần vào các năm 1930-1936 và 1939-1944. Sau khi được thả tự do lần thứ hai, Lê Đức Thọ trở về Hà Nội hoạt động và trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ.

Năm 1948, ông Lê Đức Thọ được cử vào miền Nam Việt Nam làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương cục miền Nam cho tới Hiệp định Geneva được ký kết năm 1954.

Sau khi tập kết ra Bắc năm 1955, ông được bầu vào Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam [sau đổi là Đảng Cộng sản Việt Nam]. Sau Tết Mậu Thân, ông Lê Đức Thọ được điều trở lại miền Nam làm Phó bí thư Trung ương cục miền Nam, nhằm phát huy kết quả của đợt tổng tấn công Tết 1968. Ông là ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam cho tới năm 1986.

Tháng 5/1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi ông Lê Đức Thọ ra Hà Nội và cử làm cố vấn đặc biệt cho đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [VNDCCH] tại Hội nghị Paris, bàn về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Các cuộc đấu trí giữa Lê Đức Thọ và đại diện phái đoàn Mỹ Henry Kissinger, cả bí mật lẫn công khai tại Paris, đã trở thành một huyền thoại trong lịch sử ngoại giao thế giới. Năm 1973, Lê Đức Thọ cùng Henry Kisinger được đồng trao giải Nobel về hòa bình nhưng ông đã từ chối nhận giải.

Henry Kissinger [1923]

Ông Henry Kissinger sinh tại thành phố Furth, Đức, ngày 27/5/1923. Phải 20 năm sau ông mới chính thức trở thành công dân Mỹ một cách đầy đủ. Henry Kissinger là giáo sư có uy tín tại Đại học Havard danh tiếng của nước Mỹ. Ông từng làm phụ tá cho thống đốc New York Nelson Rockefeller [sau là phó tổng thống Mỹ], trước khi được tổng thống Richard Nixon bổ làm cố vấn An ninh Quốc gia.

Henry Kissinger dẫn đầu đoàn Mỹ trong cuộc đàm phán với ông Lê Đức Thọ của đoàn VNDCCH tại Paris, kể từ khi hội nghị bắt đầu đi vào thực chất cho đến lúc ký kết hiệp định năm 1973. Sau đó, Kissinger được bổ nhiệm làm bộ trưởng Ngoại giao thứ 56 của Mỹ và đảm trách chức vụ này hết thời tổng thống Gerard Ford [1973-1977]. Nhà ngoại giao kỳ cựu này đã nắm ghế trợ lý cho tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia từ năm 1969 đến 1975.

Quảng cáo

Sau khi rời chính trường, ông đã lập ra Kissinger Associates, một công ty tư vấn quốc tế có trụ sở tại New York do đích thân ông làm chủ tịch. Ngày 27/11/2002, cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã được Tổng thống đương nhiệm George W. Bush bổ làm giám đốc một ủy ban của chính phủ chuyên điều tra về vụ khủng bố 11/9. Nhưng ông chỉ nắm giữ chức vụ này vẻn vẹn có 16 ngày thì đệ đơn xin từ chức.

Nguyễn Thị Bình [1927]

Bà Nguyễn Thị Bình thời kỳ ở Hội nghị Paris.

Bà sinh năm 1927 tại tỉnh Quảng Nam. Từ tháng 9/1945 đến 1951, bà Nguyễn Thị Bình tham gia các phong trào đấu tranh của phụ nữ, sinh viên, giới trí thức chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Do các hoạt động này, bà Bình bị thực dân Pháp giam tại nhà lao Chí Hòa từ năm 1951 đến năm 1953. Sau khi ra tù, bà tiếp tục tham gia phong trào đấu tranh đòi thực thi Hiệp định Geneva.

Trong kháng chiến chống Mỹ, bà Nguyễn Thị Bình là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Quốc gia Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1969 bà trở thành Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền nam Việt Nam và dẫn đầu đoàn đàm phán của chính phủ lâm thời tại Hội nghị Paris.

Những đề nghị cứng rắn và phong cách ngoại giao sắc sảo của người phụ nữ duy nhất trên bàn đàm phán này, đã thực sự cuốn hút sự chú ý của dư luận phương Tây. Ngày 27/1/1973, bà Nguyễn Thị Bình đại diện cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký kết Hiệp định Paris.

Từ năm 1976 đến năm 1987 bà được cử làm bộ trưởng Giáo dục của nước Việt Nam thống nhất. Tháng 9/1992 bà được bầu làm phó chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam và được bầu lại vào chức vụ này tháng 9/1997.

Xuân Thủy [1912-1985]

Ông tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh ngày 2/9/1912 trong một gia đình có truyền thống nho học yêu nước, tại xã Xuân Phương, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông [nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội]. Năm 1938, ông bị thực dân Pháp bắt và giam trong các nhà tù ở Phúc Yên, Hà Đông, Hà Nội, Sơn La và Hà Giang. Những năm 1941-1943, ông là chủ bút tờ Suối reo trong nhà tù Sơn La, sau đó phụ trách tờ Cứu quốc của Tổng bộ Việt Minh.

Quảng cáo

Năm 1955, ông Xuân Thủy được bầu làm ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và năm 1968 được bầu vào Ban bí thư Trung ương Đảng. Năm 1963, Xuân Thủy được cử giữ chức bộ trưởng Ngoại giao VNDCCH. Từ năm 1968, ông làm trưởng đoàn đại biểu chính phủ VNDCCH tại Hội nghị Paris.

Năm 1984, ông được cử giữ chức phó chủ tịch ủy ban thường vụ Quốc hội, ủy viên Đoàn chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài hoạt động chính trị, Xuân Thủy còn là một nhà thơ nổi tiếng với phong cách sáng tác giản dị, tự nhiên.

Nguyễn Duy Trinh [1910-1985]

Ông Nguyễn Duy Trinh sinh ngày 15/7/1910 tại tỉnh Nghệ An, từng tham gia các phong trào yêu nước từ năm 1927. Trong suốt một thập kỷ [1935-1945], ông bị thực dân Pháp kết án tù khổ sai và đầy đi Côn Đảo. Ông Nguyễn Duy Trinh là cán bộ lão thành từng giữ nhiều trọng trách của Đảng Cộng sản Việt Nam: năm 1951 được bầu làm ủy viên Trung ương, năm 1955 làm bí thư Trung ương Đảng.

Từ năm 1965 đến 1980, ông Nguyễn Duy Trinh được cử giữ chức phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và được bầu vào Bộ Chính trị. Ông là đại biểu Quốc hội liên tục từ khóa 1 đến khóa 7. Ngày 27/1/1973, ông đã thay mặt chính phủ VNDCCH đặt bút ký vào Hiệp định Paris lịch sử.

William Averell Harriman [1891-1986]

Ông là một nhà ngoại giao nổi tiếng của nước Mỹ, từng phục vụ cho nhiều đời tổng thống nước này. Thời kỳ tổng thống Harry Truman cầm quyền, Averell Harriman là đại sứ Mỹ tại Liên Xô [1943-1946] và Anh [1946]; đồng thời làm đại diện của Washington trong một số tổ chức như NATO. Về sau tổng thống Truman đã bổ nhiệm ông làm bộ trưởng Thương mại.

William Averell Harriman từng hai lần thất bại trong cuộc vận động để trở thành ứng viên tổng thống Mỹ của đảng Dân chủ vào các năm 1952 và 1956. Thời tổng thống John Kennedy, ông tiếp tục nắm giữ các chức vụ quan trọng của Bộ Ngoại giao. Ông Harriman là người đóng vai trò chính trong cuộc đàm phán ký kết Hiệp ước cấm thử hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô năm 1963.

Năm 1965, tổng thống Johnson bổ nhiệm ông làm đại sứ lưu động tại khu vực Đông Nam Á. Với cương vị này, ông Harriman đã công du khắp nơi trên thế giới để vận động cho chính sách của Washington tại Việt Nam.

Năm 1968, khi cuộc đàm phán về hòa bình tại Việt Nam mở màn ở Paris, ông Harriman làm trưởng đoàn đàm phán đầu tiên của Mỹ với VNDCCH. Sau khi tổng thống Richard Nixon đắc cử, đại sứ Henry Cabot Lodge đã thay thế vị trí của Harriman tại Paris. Averell Harriman từng lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ thái độ hai mặt: vừa đàm phán hòa bình vừa tiến hành chiến tranh của chính quyền Nixon.

Henry Cabot Lodge [1902-1985]

Henry Cabot Lodge sinh ngày 5/7/1902 tại tiểu bang Massachusetts. Trong những năm 1924-1931, ông hoạt động trong ngành báo chí. Năm 1936 được bầu làm thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa và tái cử vị trí này năm 1942. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Cabot Lodge là thượng nghị sĩ Mỹ đầu tiên kể từ thời kỳ nội chiến ra phục vụ ở chiến trường. Thời kỳ này, ông hoạt động ở khắp châu Âu.

Từ năm 1953, Cabot Lodge được cử làm đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc cho đến khi từ chức năm 1960. Cũng trong năm này, ông đã thất bại trong cuộc vận động để trở thành ứng viên phó tổng thống của đảng Cộng hòa.

Cabot Lodge từng hai lần làm đại sứ Mỹ tại Sài Gòn [lần thứ nhất 1963-1964 và lần hai 1965-1967]. 1967-1968 là đại sứ lưu động của Mỹ. Tổng thống Richard Nixon đã bổ nhiệm Cabot Lodge làm trưởng phái đoàn đàm phán của Mỹ với Bắc Việt Nam tại Paris và nắm trọng trách này tới tháng 12/1969. Về sau, ông làm đặc phái viên của tổng thống Nixon tại tòa thánh Vatican [1970-1977].

William P. Rogers [1913-2001]

Ngoại trưởng Mỹ William P. Rogers.

Ông xuất thân là luật sư và bắt đầu bước vào chính trường từ thời tổng thống Dwight D. Eisenhower: giai đoạn 1953-1957 làm phó tổng chưởng lý, thời kỳ 1957-1961 làm tổng trưởng lý; được bổ nhiệm làm bộ trưởng Ngoại giao Mỹ dưới thời Richard Nixon từ 1969 đến 1973. Ông nổi tiếng với “Kế hoạch Rogers” phục vụ việc ngừng bắn ở khu vực Trung Đông năm 1970.

Mặc dù là bạn thân và cũng là cố vấn cho tổng thống Richard Nixon trong nhiều năm, vai trò ngoại trưởng của ông William Rogers thường bị lu mờ bởi cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Henry Kissinger. Ông là người thay mặt chính phủ Mỹ đặt bút ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam ngày 27/1/1973.

Đình Chính [tổng hợp]

Video liên quan

Chủ Đề