Vai trò của nghiệp vụ ngân hàng

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Kế toán ngân hàng là khoa học và cũng là nghệ thuật ghi chép, phân loại, tổng hợp và giải thích các nghiệp vụ tác động đến tình hình tài chính của các ngân hàng bằng thước đo tiền tệ nhằm cung cấp thông tin về tình hình và kết quả hoạt động của ngân hàng, làm cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế liên quan đến mục tiêu quản lý kinh doanh và đánh giá hoạt động của ngân hàng.

Kế toán là công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế vì nó có tác dụng to lớn trong việc kiểm tra thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, việc sử dụng vốn tiền tệ, bảo vệ an toàn tài sản, củng cố và tăng cường chế độ hạch toán kinh tế.

Kế toán ngân hàng là một bộ phận trong hệ thống kế toán của nền kinh tế nên nó cũng phát huy vai trò của kế toán nói chung. Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động ngân hàng nên vai trò của kế toán ngân hàng có khác với vai trò của các ngành khác.

+ Cung cấp thông tin tổng hợp để phục vụ quản lý nền kinh tế: kế toán ngân hàng có quan hệ mật thiết với hoạt động của nền kinh tế. Mọi hoạt động về kinh tế, tài chính của doanh nghiệp đều được phản ánh thông qua các tài khoản mở tại ngân hàng. Vì vậy số liệu ghi chép của kế toán vừa phản ánh được hoạt động nghiệp vụ của ngành, vừa phản ánh được hoạt động của các ngành khác về tình hình kinh tế, tài chính, sự biến động của vật tư, lao động, tiền vốn,thu nhập, chi phí, lợi nhuận...từ đó các đơn vị có đầy đủ thông tin để ra quyết định điều hành kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quẩn xuất kinh doanh. Mặt khác, các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, kế toán, thống kê cũng cần được cung cấp thông tin kế toán ngân hàng để xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, xây dựng chế độ quản lý tài chính. Do khái niệm phản ánh một cách tổng hợp nên kế toán ngân hàng đã giúp Đảng và Nhà nước nắm được tình hình hoạt động của nền kinh tế, từ đó đề ra được phương hướng phát triển nền kinh tế một cách sát thực và đúng đắn.

+ Bảo vệ an toàn tài sản: bảo vệ tài sản là trách nhiệm chung của kế toán bất kỳ ngành nào, song kế toán ngân hàng có vai trò quan trọng hơn vì ngoại việc bảo vệ an toàn tài sản của bản thân ngân hàng còn phải bảo vệ tài sản của Nhà nước, của khách hàng gửi tại ngân hàng. Do đó, kế toán ngân hàng phải ghi chép, kiểm soát một cách chặt chẽ mọi loại tài sản để tránh mất mát, thiếu hụt về mặt số lượng và nâng cao hiệu quả mọi tài sản trong quá trình sử dụng.

+ Đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, quản trị ngân hàng: kế toán được tiến hành trên cơ sở hoạt động của các mặt nghiệp vụ như: nghiệp vụ tiền tệ, tín dụng, thanh toán...do vậy số liệu của kế toán đã phản ánh được kết quả các mặt hoạt động nghiệp vụ của từng đơn vị cũng như của toàn ngành ngân hàng. Qua hệ thống số liệu này có thể chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những tồn tại trong quá trình hoạt động, từ đó các nhà lãnh đạo sử dụng nó như là một công cụ hữu hiệu để chỉ đạo, điều hành, quản trị ngân hàng có hiệu quả.

Như vậy, vai trò to lớn của kế toán ngân hàng là không thể phủ nhận được. Thông qua các hoạt động của mình, kế toán ngân hàng giúp cho các giao dịch trong nền kinh tế được tiến hành một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời hơn. Những số liệu so kế toán ngân hàng cung cấp là những chỉ tiêu thông tin kinh tế quan trọng giúp cho việc chỉ đạo điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như làm căn cứ cho việc hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và chỉ đạo toàn bộ hạot đọng của nền kinh tế, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung.

Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, kế toán ngân hàng phải thực hiện được các nhiệm vụ chính sau đây:

+Kế toán ngân hàng phải ghi nhận, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong ngân hàng về các hoạt động : hoạt động nguồn vốn, sử dụng vốn và các dịch vụ ngân hàng khác theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước và các thể lệ chế độ kế toán ngân hàng quy định. Trên cơ sở đó để bảo vệ an toàn tài sản của bản thân ngân hàng cũng như tài sản của toàn xã hộ bảo quản tại ngân hàng.

+Kế toán ngân hàng phải phân loại nghiệp vụ, tổng hợp số liệu theo đúng phương pháp kế toán và theo những chỉ tiêu nhất định nhằm cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời nhất để phục vụ cho việc chỉ đạo, lãnh đạo hoạt động kinh doanh ngân hàng và thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.

+Kế toán ngân hang giám phải giám sát quá trình sử dụng tài sản [vốn] nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các loại tài sản thông qua kiểm soát trước [tiền kiểm] các nghiệp vụ bên nợ và nghiệp vụ bên có của bảng tổng kết tài sản ở từng đơn vị ngân hàng cũng như toàn hệ thống. Từ đó góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, củng cố chế độ hạch toán kế toán của ngân hàng cũng như của nền kinh tế.

+Kế toán ngân hàng phải có trách nhiệm tổ chức tốt công tác kế toán nói chung và kế toán tài chính nòi riêng ở từng đơn vị cũng như toàn hệ thống. Đồng thời, kế toán ngân hàng phải tổ chức giao dịch, phục vụ khách hàng một cách khoa học, văn minh, lịch sự, giúp khách hàng nắm được những nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng nói chung và kỹ thuật nghiệp vụ kế toán nói riêng, góp phần thực hiện chiến lược khách hàng của ngân hàng.

Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là huy động tiền gửi vơí trách nhiệm hoàn trả và cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu làm phương tiện thanh toán.

Ngân hàng ra đời được thừa nhận là một trong những phát minh kỳ diệu nhất của lịch sử thế giới và nó không ngừng đổi mới hoàn thiện để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội từng thời kỳ. Đặc biệt trong nền kinh tế hiện nay Ngân hàng là một bộ phạn không thể thiếu được và nó luôn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với hoạt động chủ yếu là tiền tệ, tín dụng và thanh toán trong đó thanh toán giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Ngân hàng được coi là huyết mạch của nền kinh tế, hoạt động của nó bao trùm lên tất cả các hoạt động kinh tế xã hội, đây là hoạt động trung gian gắn liên với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Kinh doanh Ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt với đối tượng là tiền tệ. Ngân hàng là trung gian tài chính giữa người gửi tiền và người vay vì vậy Ngân hàng sẽ là công cụ điều tiết hữu hiệu nền kinh tế cũng như một số lĩnh vực phi kinh tế.

Mặc dù không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, song với đặc điểm hoạt động riêng có của mình ngành Ngân hàng giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Những vai trò đó được thể hiện cụ thể như sau:

Ngân hàng nhận tiền của họ thông qua thanh toán không dùng tiền mặt mở tại Ngân hàng hoặc Ngân hàng nhận giữ hộ các tài sản quý, các giấy tờ có giá… nhờ vậy mà tiết kiệm được các chi phí cất giữ, bảo quản tiền tệ. Bên cạnh đó, cũng trên cơ sở số tiền gửi của khách hàng Ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền… làm giảm chi phí lưu thông tiền tệ mà vẫn đảm bảo an toàn thuận tiện và lợi ích cho các chủ thể nói trên.

Ngân hàng tập trung huy động một khối lượng vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế và thông qua nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư, cho vay đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu thiếu vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội. Nhờ đó mà các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế và các cá nhân có điều kiện để mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy quá trình tái sản xuất phát triển.

Ngân hàng giữ vai trò là cơ quan tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ [hạn chế tăng cường khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông] vai trò này được thể hiện thông qua mức lãi suất tiền giửi và tiền vay.

Ngân hàng là công cụ trực tiếp của Nhà nước để thức hiện các chính sách tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thông qua Ngân hàng. Đồng thời Ngân hàng còn thực hiện quan hệ tín dụng với Ngân hàng thông qua việc cho Ngân sách Nhà nước vay trong những trường hợp cần thiết, hay bảo quản dự trữ cho Nhà nước mốt số vàng và gnoại tệ.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành Ngân hàng nói riêng những vai trò kể trên ngày càng được khẳng định thông qua những lĩnh vực hoạt động cơ bản của Ngân hàng là tiền tệ, tín dụng và thanh toán.

Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, nó là công cụ nhiệm màu trong quá trình phát triển kinh tế. Tiền tệ cũng có mốt quá trình lưu thông dựa trên cơ sở cảu lưu thông hàng hoá, do vậy ở bất cứ xã hội nào còn sản xuất và lưu thông hàng hoá thì còn tồn tại lưu thông tiền tệ như một quy luật khách quan.

Có rất nhiều các định nghĩa theo các quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế về tiền, nhưng chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản tiền là bất cứ thứ gì được chấp thuận chúng trong việc thanh toán để lấy hàng hoá, dịch vụ hay trong việc hoàn trả các món nợ.

Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tiền tệ đã ra đời và ngày càng phát triển đạt mức độ tinh xảo và thuận lơị hơn. Bắt đầu từ những hình thức trao đổi giản đơn: hàng đổi hàng đến tiền kim loại: vàng bạc và tiền giấy.

Tiền trong lưu thông bao gồm hai bộ phận là tiền mặt và tiền chuyển khoản [tiền ghi sổ] do vậy công tác thanh toán trong nền kinh tế cũng được thực hiện thưo hai cách thức phù hợp với hai bộ phận tiền tệ này đó là cách thức thanh toán bằng tiền mặt và cách thức thanh toán không dùng tiền mặt.

Thanh toán bằng tiền mặt là quá trình thanh toán tiền hàng hoá trực tiếp trong đó có một lượng tiền mặt tương ứng với giá trị vật tư hàng hoá được trao đổi, vận động ngược chiều với sự vận động của vật tư hàng hoá đó. Cách thức tiền tệ này chỉ phù hợp với nền kinh tế khi sản xuất hàng hoá còn ở trình độ thấp, sản phẩm hàng hoá dịch vụ không nhiều và hoạt động mua bán chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp. Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển, với khối lượng hàng hoá được trao đổi lớn phạm vi mua bán rộng thì cách thức thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ các nhược điểm như: chi phí in ấn, vận chuyển bảo quản và kiểm đếm lớn, tốc độ thanh toán chậm, khả năng đảm bảo an toàn không cao, hơn nữa với một khối lượng tiền mặt cần thiết trong lưu thông quá lớn dễ gây nên tình trạng lạm phát. Thực tế khách quan đó đòi hỏi phải có một cách thức thanh toán mới, tiên tiến hơn chính vì vậy thanh toán không dùng tiền mặt đã ra đời và nhanh chóng chiếm ưu thế trong nền kinh tế.

Thanh toán không dùng tiền mặt là chỉ các nghiệp vụ chi trả tiền hàng, dịch và các khoản khác trong nền kinh tế quốc dân được thực hiện bằng cách trích chuyển tài khoản trong hệ thống tín dụng hoặc bù trừ công nợ mà không vận dụng đến tiền mặt thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác.

Thanh toán không dùng tiền mặt xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người, tuy nhiên nó chỉ được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng rộng khắp trong lĩnh vực tài chính đối nội, đối ngoại, nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chu chuyển tiền tệ và được coi là cách thức thanh toán hiệu quả nhất. Sự tồn tại và phát triển của hệ thống vày tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân mở tài khoản tiền giửi và thanh toán hàng dịch vụ thông qua việc trích chuyển tài khoản trong hệ thống tín dụng.

Như vậy thanh toán không dùng tiền mặt phản ánh sự vận động của vật tư hàng hoá, dịch vụ trong lưu thông sự phát triển rộng khắp củat nó trong nền kinh tế thị trường hiện đại là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá, do nên kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, khối lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi trong nước cũng như ngoài nước tăng nhanh, tất yếu phải có cách tức trả tiền thuận tiện, và an toàn và tiết kiệm hơn thanh toán bằng tiền mặt.

Khi nền kinh tế thị trường phát triển thì thanh toán không dùng tiền mặt có vị trí vô cùng quan trọng. Thanh toán không dùng tiền mặt đã mạng lại hiệu quả kinh tế cao và là một phần không thể thiếu được trong hoạt động kinh tế, điều đó đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Vai trò này được thể hiện trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất

– thanh toán không dùng tiền mặt thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ chu chuyển vốn rút ngắn chu kỳ sản xuất, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và tác động trực tiếp dến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nó được coi là khâu đầu tiên và cũng là khâu cuối cùng của chu kỳ sản xuất và liên quan đến toàn bộ lĩnh vực lưu thông hàng hoá, tiền tệ của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Do vậy nếu tổ chức công tác thanh toán nhanh chóng an toàn và chuẩn xác sẽ tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn và góp phần thúc đẩy phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

– thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho Ngân hàng huy động được tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để tiến hành đầu tư, cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế. Để tham gia công tác thanh toán không dùng tiền mặt các đơn vị,các nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng, trên mỗi tài khoản tiền gửi đó có số lại thấp, hơn nữa việc tiến hành thanh toán chi trả không phải là thường xuyên. Do đó Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế để thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn, nếu có kế hoạch sử dụng tốt sẽ mạng lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho toàn bộ nền kinh tế.

– Trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, thanh toán không dùng tiền mặt góp phần giảm thấp tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông xã hội. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt còn tạo ra sự chuyển hoá thông suất giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản. Cả hai khía cạnh đó đều tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá và điều hoà lưu thông tiền tệ. Chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế bao gồm hai bộ phận cấu thành đó là thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Nếu tổng chu chuyển tiền tệ không đổi mà tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt tăng lên sẽ làm giảm tỷ trọng tiền mặt một cách tương ứng, từ đó giảm chi phí lưu thông như: chi phí in ấn, vận chuyển, bảo quản tiền, chi phí về thời gian thanh toán.

- Thanh toán không dùng tiền mặt tạo những điều kiện tiền đề kinh tế thuận lợi để Ngân hàng kiểm soát các hoạt động kinh tế của các tác nhân kinh tế với mục đích củng cố kỷ luật thanh toán, đảm bảo nguyên tắc thu chi tài chính và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn. Thu chi bằng tiền của các tác nhân thể hiện trên tài khoản tại Ngân hàng, nó phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó để làm căn cứ cho vay hay thu hồi nợ đồng thời qua việc giám sát, Ngân hàng có thể có những kiến nghị, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phát triển, cũng thông qua việc giám sát tình hình thu chi qua tài khoản mà Ngân hàng có thể kiểm soát tình hình chấp hành các chính sách, chế độ tài chính, các nguyên tắc thanh toán, quản lý tiền tệ ở các doanh nghiệp.

Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt có những vai trò trực tiếp cũng như gián tiếp ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Việt Nam thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tạo điều kiện thuận lơị cho từng thành vien trong nền kinh tế đạt được hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh và thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển.

Video liên quan

Chủ Đề