Văn hiến trong Bình Ngô đại cáo là gì

ĐỀ BÀI

Hình ảnh đất nước văn hiến qua đoạn trích Nước Đại Việt ta [Bình Ngô đại cáo] của Nguyễn Trãi.

Bài làm.

Sử sách nước ta có lẽ sẽ mãi còn đó ghi dấu nốt nhạc trầm buồn của vụ án lệ chi viên đầy tang tóc, vụ án đã giết đi một người anh hùng, một người thơ lỗi lạc nhất thời đại : nhà thơ Nguyễn Trãi. Thế hệ muôn đời sau vẫn nhắc nhớ đến ông với tấm lòng thành kính. Ông là người đầu tiên đã khẳng định nền văn hiến đời đời của đất nước Đại Việt trước thế giới, nhân loại qua áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo. Áng văn đã khơi dậy mạch nguồn tự hào, tự tôn dân tộc trong mỗi người dân nước Việt bởi lẽ hình ảnh đất nước Đại Việt văn hiến nghìn đời ngời sáng.
Bình Ngô đại cáo được viết theo thể loại đại cáo. Nếu như cáo là thể văn cổ đời xưa, các hoàng đế thường dùng để bổ nhiệm, ban tặng, bảo ban các quan hay toàn dân, được gọi là cáo bệnh, cáo phong, thì đại cáo là thể cáo dùng đê ban bố những sự kiện trọng đại cho dân tộc biết. Đây vốn là một thiên trong Thượng thư do Chu Công làm để tuyên, bố việc phò tá nhà Thành Vương, phế bỏ nhà Ân. Ngay nhan đề Bình Ngô đại cáo đã cho người đọc thấy đây là bài công bố việc lớn của triều đình cho thiên hạ. Đồng thời nó mang ý nghĩa sâu sắc. Bởi lẽ bình là dẹp yên, xây dựng hoà bình, lập lại trật tự ; Ngô không phải là từ chỉ Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương, mà là tên gọi quân xâm lược phương Bắc từ thời Tam Quốc của nhân dân ta. Như vậy : Bình Ngô đại cáo là tuyên bố với thiên hạ về việc dẹp yên giặc Ngô, lập lại hoà bình cho nước Đại Việt, nhan đề tự nó đã ngầm chứa một niềm tự hào dân tộc.
Mở đầu bài đại cáo tác giả đã nêu lên tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc :

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Đối với nhà thơ, nhà quân sự Nguyễn Trãi, nhân nghĩa không phải là cái gì quá cao xa mà chính là việc đem lại bình yên, no ấm cho nhân dân ; muốn vậy thì phải trừ bạo, phải đánh tan lũ quân cướp nước. Hơn ai khác, Nguyễn Trãi là người hiểu được sức mạnh to lớn của những người dân áo vải : chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng nhân nghĩa vì dân mãi là sợi chỉ đỏ soi đường cho việc đi tìm chân lí của độc lập, tự do.
Không chỉ nêu lên một tư tưởng nhân nghĩa tiến bộ, với giọng văn đanh thép, tác giả đã khẳng định dõng dạc :

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác,

Nguyễn Trãi đã đập tan định kiến của các triều đại phong kiến phương Bắc khi cho rằng : nhân dân nước Nam là mọi rợ, là Nam man, họ kia mới là văn minh Hoa Hạ. Ông khẳng định nước Đại Việt là một quốc gia có nền vãn hiến lâu đời. Văn là văn hoá, vãn minh ; hiến là nhân tài, hào kiệt. Nước Đại Việt từ lâu đã có một nền văn hoá riêng của mình. Bọn giặc phương Bắc luôn tìm cách đồng hoá, thống trị nền văn hoá đó để biến nước ta thành châu quận của chúng. Nhưng nhân dân nước Nam đã đấu tranh mạnh mẽ, đập tan âm mưu thâm độc của chúng. Lời khẳng định Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu chứa chan niềm tự hào, tự hào vể văn hoá, về nhân tài nước ta. Nếu trong Nam quốc sơn hà [tương truyền là của Lí Thường Kiệt] khẳng định chủ yếu mật chủ quyền độc lập, bờ cõi của đất nước : Nam quốc sơn hà Nam đế cư, thì ở đây, bên cạnh việc khẳng định đó Nguyễn Trãi còn khẳng định Phong tục Bắc Nam cũng khác. Điều đó có nghĩa : mỗi dân tộc có những nét văn hoá, phong tục riêng, người Trung Quốc có phong tục riêng của mình thì người Đại Việt cũng vậy. Văn hoá riêng làm nên một dân tộc tự chủ. Do đó, Nguyễn Trãi đã chú ý đến bề sâu, bề mặt tinh thần của đất nước. Vì vậy, áng văn của ông thật hào hùng, đanh thép, khẳng định chắc chắn tính bất khả xâm phạm bờ cõi Đại Việt và văn hiến Đại Việt, suy cho cùng là khẳng định nền độc lập vững vàng của dân tộc ta. Để lời khẳng định thêm sức mạnh, nhà quân sự đã đưa ra dẫn chứng :

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương.

Ý thức và niềm tự hào kiêu hãnh về quốc gia dân tộc được thể hiện rõ nét thống qua phép đối rất chỉnh. Tác giả đã đặt các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại phong kiến phương Bắc. Đặc biệt chữ đế đã phủ định hoàn toàn tư tưởng thống trị của Trung Hoa. Các triều đại phong kiến luôn cho rằng mình là đại quốc, chỉ mình có Đế vương, Thiên tử ; còn các nước khác chỉ là phiên thuộc, thì Nguyễn Trãi đã phủ nhận hoàn toàn điều đó. Nước Đại Việt cũng có các đế vương ngang hàng với các đế vương Trung Hoa.
Nguyễn Trãi đã đi từ khẳng định này đến khẳng định khác, tựu trung lại ông đã cho toàn thể nhân dân thấy rằng, nước ta là nước văn hiến nghìn đời, với biết bao nhân tài, nước ta lấy tư tưởng nhân nghĩa làm nền tảng, do đó muôn đời vững bền. Để những kẻ xâm lược phải tâm phục, khẩu phục, ông tiếp tục nêu ra dẫn chứng xác đáng, với giọng điệu lập luận lô gích :

Vậy nên :

Lưu Cung tham công nện thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi 0 Mã

Việc xưa xem xét

Chứng cớ còn ghi.

Nguyễn Trãi đã nhắc lại với kẻ thù rằng : vì chúng làm những việc trái với đạo trời, lòng dân, nên chúng sẽ bị trừng trị thích đáng.
Nước Đại Việt ta là đoạn trích ngấn gọn nhưng với lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác đáng của một nhà quân sự đại tài đã nêu lên những nền tảng chân lí có giá trị sâu sắc. Việc khẳng định một đất nước Đại Việt văn hiến nghìn đời thể hiện một lòng tự hào, kiêu hãnh, một tấm lòng yêu nước thiết tha không chỉ với riêng Nguyễn Trãi mà với mọi người con đất Việt.
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo, tấm lòng sáng như sao khuê của vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, con người đã trải qua bao vinh quang và khổ đau sẽ toả rạng mãi mãi với muôn đời. Bình Ngô đại cáo sẽ mãi là áng thiên cổ hùng văn bất tử.

HÀ VƯƠNG ANH

Lời nhận xét :
Bạn Hà Vương Anh đã bám sát đặc điểm văn chính luận, phân tích đúng đắn, chính xác hình ảnh đất nước văn hiến qua đoạn trích. Đặc biệt, bạn đã chú ý liên hệ so sánh với các tác phẩm khác như Nam quốc sơn hà để làm nổi bật chủ đề chính : Nếu trong Nam quốc sơn hà [tương truyền là của Lí Thường Kiệt] khẳng định chủ yếu mặt chủ quyền độc lập, bờ cõi của đất nước : Nam quốc sơn hà Nam đế cư, thì ở đây, bên cạnh việc khẳng định đó Nguyễn Trãi còn khẳng định Phong tục Bắc Nam cũng khác. Điều đó có nghĩa : mỗi dân tộc có những nét văn hoá, phong tục riêng, người Trung Quốc có phong tục riêng của mình thì người Đại Việt cũng vậy. Văn hoá riêng làm nên một dân tộc tự chủ
Người viết đã thể hiện năng lực phân tích ngôn từ văn bản khá tốt : Nguyễn Trãi đã đập tan định kiến của các triều đại phong kiến phương Bắc khi cho rằng : nhân dân nước Nam là mọi rợ, là Nam man , họ kia mới là văn minh Hoa Hạ Ông khẳng định nước Đợi Việt là một quốc giơ có nền văn hiến lâu đời ăn là văn hoá, văn minh ; hiến là nhân tài, hào kiệt. Nước Đại Việt từ lâu đã có một nền văn hoá riêng của mình
Bố cục sáng rõ, mạch lạc, có sức lôi cuốn đặc biệt, vừa thuyết phục vé trí tuệ, vừa hấp dẫn bởi cảm xúc. Lời kết bài thực sự nêu được sức sống bất diệt của áng thiên cổ hùng văn : ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo, tấm lòng sáng như sao Khuê của vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, con người đã trải qua bao vinh quang và khổ đau sẽ toả rạng mãi mãi với muôn đời. Bình Ngô đại cáo sẽ mãi là áng thiên cổ hùng văn bất tử.

Xem thêmPhân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh tại đây

Related

Tags:Văn hay lớp 8

Video liên quan

Chủ Đề