Xử lý tình huống gây ô nhiễm môi trường

Khai thác mặt nước hồ phục vụ hoạt động du lịch, vui chơi có cần làm thủ tục cấp phép khai thác, sử dụng nước mặt không?

Câu hỏi:

Trường hợp khai thác mặt nước hồ phục vụ hoạt động du lịch, vui chơi có cần làm thủ tục cấp phép khai thác, sử dụng nước mặt không?

Trả lời:
Tại điểm đ khoản 3 Điều 53 Luật Tài nguyên nước quy định " Trường hợp sử dụng mặt nước hồ chứa để nuôi trồng thủy sản, kinh doanh du lịch, giải trí thì phải được cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước chấp thuận bằng văn bản ". Luật không quy định cấp phép đối với trường hợp khai thác mặt nước hồ cho hoạt động du lịch, vui chơi./.

Hướng dẫn thủ tục xin điều chỉnh giấy phép tài nguyên nước?

Câu hỏi:

Hiện tại công ty tôi đã được cấp giấy phép khai thác sử dụng nước mặt tại vị trí 01 vị trí hạ lưu đập thủy điện nhưng do nguồn nước tại đây không đủ để cung cấp nên công ty tôi xin khai thác thêm 01 vị trí tại lòng hồ thủy điện trên cùng hệ thống sông [tức là xin khai thác 02 vị trí, tăng 01 vị trí so với giấy phép cũ], lượng nước xin khai thác mới tăng so với lượng nước đã được cấp phép trước đây nhưng không vượt quá 25% trong giấy phép đã được cấp. Vậy tôi xin Bộ TNMT hướng dẫn trường hợp này Công ty tôi làm thủ tục xin điều chỉnh giấy phép hay thủ tục xin cấp giấy phép mới?

Trả lời:

Trường hợp như bà nêu trên thì phải lập hồ sơ điều chỉnh giấy phép theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Nghị định số 201/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước. Về mẫu đơn, nội dung báo cáo theo quy định tại Phụ lục kèm theo Thông tư số 27/2014/TT-BTNMT Quy định về việc đăng ký khai thác tài nguyên nước dưới đất, mẫu hồ sơ cấp, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại giấy phép tài nguyên nước./.  

Dự án khai thác, sử dụng tài nguyên nước thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có phải thực hiện đánh giá tác động môi trường không?

Câu hỏi:

Đơn vị tôi nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác nước mặt phục vụ cấp nước sinh hoạt nông thôn với lưu lượng 200 m3/ngày. Theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 28; điểm b khoản 1 Điều 30; điểm g khoản 1 Điều 36 Luật Bảo vệ môi trường; điểm 9 mục III Phụ lục IV Nghị định Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ thì chúng tôi có phải có Quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường là một trong các căn cứ để UBND tỉnh cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt hay không? Và như vậy có thể hiểu là tất cả các công trình khai thác tài nguyên nước thuộc trường hợp phải cấp giấy phép đều phải có Quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường hay không. Trân trọng cám ơn.

Trả lời:

Theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 28, điểm b khoản 1 Điều 30 của Luật Bảo vệ môi trường và mục 9 Phần III Phụ lục IV của Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường thì các dự án khai thác, sử dụng tài nguyên nước thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải thực hiện đánh giá tác động môi trường.

Đồng thời, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 36 Luật Bảo vệ môi trường thì Quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường là một trong các căn cứ để cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư đối với các dự án khai thác, sử dụng tài nguyên nước thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh./.

Chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc năm 2022

Câu hỏi:

Gia đình tôi thuộc diện nghèo, sinh sống trên địa bàn miền núi, khó khăn. Hiện, gia đình tôi đang gặp khó khăn về khai thác nguồn nước sinh hoạt và sản xuất. Xin hỏi, gia đình tôi có được nhận hỗ trợ của nhà nước để giải quyết khó khăn về nguồn nước hay không?

Trả lời:
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025. Trong đó, đặt mục tiêu đến năm 2025, 90% đồng bào dân tộc thiểu số được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.

Để đạt mục tiêu này, Nhà nước có chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán [Ưu tiên hỗ trợ để mua sắm trang bị hoặc xây dựng bể chứa nước phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình]; Hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung [Ưu tiên cho người dân vùng thường xuyên xảy ra hạn hán, xâm nhập mặn, vùng đặc biệt khó khăn, vùng cao chưa có nguồn nước hoặc thiếu nước sinh hoạt hợp vệ sinh].

Theo Điều 6, Thông tư số 15/2022/TT-BTC, quy định quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025, việc hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán như sau:

Căn cứ danh sách các hộ dân được hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đăng ký của các hộ dân về phương thức thực hiện; cơ quan được giao nhiệm vụ và dự toán kinh phí tổng hợp nhu cầu và phân loại theo từng phương thức thực hiện [các hộ dân nhận lu, bồn, téc, vật dụng chứa nước; tự làm bể chứa nước; tự đào giếng hoặc tự tạo nguồn nước khác] gửi cơ quan làm công tác dân tộc cấp huyện chủ trì, phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định mức hỗ trợ cụ thể cho từng hộ dân, tối đa 03 triệu đồng/hộ [mỗi hộ chỉ được hỗ trợ 01 lần]. Trường hợp mua sắm hiện vật để cấp cho các hộ dân, định mức chi nêu trên đã bao gồm các chi phí phát sinh khi tổ chức lựa chọn nhà thầu.

Việc cấp phát, thanh toán cho các đối tượng được hưởng chính sách thực hiện như sau: Đối với các hộ dân được cấp lu, bồn, téc, vật dụng chứa nước, căn cứ danh sách đăng ký của các hộ dân, hợp đồng cung ứng giữa đơn vị được cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ với đơn vị cung ứng lu, bồn, téc, vật dụng chứa nước; số lượng thực tế cấp cho các hộ dân theo biên bản bàn giao giữa đơn vị cung ứng và từng hộ dân [có ký nhận của người đại diện hộ], cơ quan được giao nhiệm vụ và dự toán kinh phí thực hiện kiểm tra, rút dự toán tại Kho bạc Nhà nước để thanh toán cho các đơn vị cung cấp lu, bồn, téc, vật dụng chứa nước theo quy định; Đối với các hộ dân tự làm bể chứa nước, tự đào giếng hoặc tự tạo nguồn nước khác, căn cứ định mức hỗ trợ theo quy định và danh sách đăng ký của các hộ dân, sau khi có biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành [có chữ ký xác nhận của đại diện hộ gia đình và ít nhất một tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương], cơ quan được giao nhiệm vụ và dự toán kinh phí kiểm tra, thực hiện rút dự toán tại Kho bạc Nhà nước để thanh toán cho các hộ dân.

Trách nhiệm nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước?

Câu hỏi:

Dự án hồ chứa nước Nặm Cắt, tỉnh Bắc Kạn được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 2926/QĐ-BNN-XD ngày 15/10/2009. Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 2 thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giao làm chủ đầu tư hợp phần xây dựng; UBND thành phố Bắc Kạn được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn giao làm chủ đầu tư hợp phần bồi thường, hỗ trợ tái định cư, thu dọn long hồ. Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 2 được UBND tỉnh Bắc Kạn cấp Giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt số 1505/GP-UBND ngyà 06/9/2018, phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước tại Quyết định số 1506/QĐ-UBND ngày 06/9/2018, điều chỉnh tiền cấp quyền [chỉ điều chỉnh số tiền nộp] tại Quyết định số 2400/QĐ-UBND ngyà 02/12/2019. Ngày 11/5/2022 Cục quản lý xây dựng công trình thuộc Bộ Nông nghiệp và Nông thôn đồng ý nghiệm thu để đưa vào sử dụng. Sau khi nghiệm thu, ngày 20/7/2022, Ban quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 2 đã có biên bản bàn giao công trình Hồ chứa nước Nặm Cắt cho Công ty TNHH MTV quản lý, khai thác công trình thủy lợi Bắc Kạn quản lý và sử dụng. Vậy, xin hỏi hiện nay trách nhiệm nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thuộc Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 2 hay Công ty TNHH MTV quản lý, khai thác công trình thủy lợi Bắc Kạn. Trường hợp Công ty TNHH MTV quản lý, khai thác công trình thủy lợi Bắc Kạn muốn được nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thì phải thực hiện thủ tục gì?

Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 của Nghị định số 41/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thì Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thuỷ lợi 2 là chủ giấy phép thì phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.

Trường hợp Công ty TNHH MTV quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi Bắc Kạn muốn được nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thì phải thực hiện thủ tục cấp lại giấy phép theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 27 của Nghị định số 201/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước; hồ sơ cấp lại theo quy định tại Điều 34, trình tự, thủ tục cấp lại giấy phép theo quy định tại Điều 36 Nghị định 201/2013/NĐ-CP; mẫu đơn số 11 tại Phụ lục kèm theo Thông tư 27/2014/TT-BTNMT ngày 30/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định việc đăng ký khai thác nước dưới đất, mẫu hồ sơ cấp, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại giấy phép tài nguyên nước./.

Vấn đề nước thải và rác thải sinh hoạt đang ngày càng phức tạp do nhiều cơ sở sản xuất, chế biến được đưa về nông thôn

Câu hỏi:

Tại sao các vùng nông thôn, vấn đề nước thải và rác thải sinh hoạt đang ngày càng phức tạp do nhiều cơ sở sản xuất, chế biến được đưa về nông thôn cùng với lượng lớn rác thải trong sinh hoạt của nhân dân chưa được xử lý. Trong khi đó, quy hoạch xử lý chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp không có hoặc triển khai chậm ?

Trả lời:

Bộ Tài nguyên và Môi trường đồng tình với kiến nghị cử tri trước tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải và những khó khăn, bất cập trong công tác thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt tại các địa phương, nhất là đối với khu vực nông thôn trong thời gian qua.

Trước thực trạng này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/2/2019, trong đó Chính phủ giao Bộ Tìa nguyên và Môi trường giúp Chính phủ thống nhất quản lý chất thải rắn trên phạm vi cả nước. Thực hiện nhiệm vụ Bộ giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã khẩn trương rà soát, trình Chính phủ báo cáo kết quả rà soát và đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện phương án thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường, trong đó đã bổ sung môt số quy định cụ thể về công tác quản lý chất thải rắn; tổ chức đồng loạt các đoàn kiểm tra công tác quản lý chất thải rắn ở địa phương để nắm bắt những khó khăn, vướng mắc, bất cập, tại các địa phương. Trên địa bàn đó, Bộ đã đề xuất Thủ tướng Chính phủ và đang tích cực chuẩn bị nội dung cho hội Nghị toàn quốc về công tác quản lý chất thải rắn, dự kiến tổ chức trong tháng 10/2019 để trao đổi, thống nhất các giải pháp quản lý trong công tác quản lý chất thải rắn, bao gồm từ các giải pháp quản lý, các cơ chế, chính sách hỗ trợ đến các giải pháp về khoa học, công nghệ. Dự kiến sau Hội nghị này, Bộ sẽ xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn trên phạm vi cả nước.

Vấn đề quy hoạch quản lý chất thải rắn trước do Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm. Hiện nay, triển khai Luật Quy hoạch mới được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 4, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2019, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang triển khai nhiệm vụ lập quy hoạch bảo vệ môi trường, trong đó có nội dung về Quy hoạch quản lý chất thải rắn. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ ký Quyết định số 893/QĐ-TTg ngày 17/7/2019 thành lập hội đồng thẩm định Nhiệm vụ lập Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn xa đến năm 2050. Hiện nay, nhiệm vụ đang được tích cực triển khai xây dựng, dự kiến trình Thủ tướng Chính Phủ xem xét, ban hành trong năm 2020.


Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục có hướng dẫn để các cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ được thực hiện lập Đề án môi trường

Câu hỏi:

Cử tri phản ánh Thông tư số 26/2015/TT-BTNMT ngày 28/5/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định lập Đề án bảo vệ môi trường chi tiết và Đề án bảo vệ môi trường, trong đó có quy định đối tượng lập [cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ] đã đi vào hoạt động trước ngày 01/4/2015 phải lập báo cáo đánh giá tác dộng môi trường [đối tượng sản xuất, kinh doanh dịch vụ đã đi vào hoạt động mà chưa có quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường: giấy xác nhận đăng ký ban cam kết bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật phải thực hiện việc lập Đề án bảo vệ môi trường chi tiết/Đề án bảo vệ môi trường đơn giản trình cấp có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt/xác nhận]. Thông tư có hiệu lực từ ngày 15/7/2015 đến hết ngày 31/12/2017. Đến nay thông tư đã hết hiệu lực, đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục có hướng dẫn để các cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ được thực hiện lập Đề án môi trường. Trong thực tế vẫn còn nhiều trường hợp đang hoạt động nhưng chưa có thủ tục về môi trường được cấp thẩm quyền phê duyệt/xác nhận nhưng không thể yêu cầu các doanh nghiệp phải chấp nhận theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường?

Trả lời:

Vấn đề mà cử tri phản ánh đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường tham mưu Chính phủ quy định cụ thể tại Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường. Theo đó, Nghị định để sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan đến việc thực hiện các thủ tục môi trường đối với các đối tượng như cử tri nêu tại điều 2 khoản 13 Điều 1 [sửa đổi, bổ sung Điều 22 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP], cụ thể:

“Các dự án đã triển khai xây dựng nhưng chưa đi vào vận hành và các dự án, cơ sở đã đi vào vận hành [bao gồm các dự án mở rộng quy mô, tăng công suất, thay đổi công nghệ của cơ sở, khu công nghiệp đang hoạt động] mà chưa có quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường hoặc các hồ sơ về môi trường tương đương, thì bị xử phạt theo quy định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Trường hợp dự án, cơ sở phù hợp về quy hoạch, chủ đầu tư dự án, chủ cơ sở phải thực hiện như sau:

  1. Đối với dự án, cơ sở có quy mô, công suất tương đương với đối tượng phải lập đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường thì phải lập kế hoạch bảo vệ môi trường gửi các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xác nhận theo quy định.
  2. Đối với dự án, cơ sở có quy mô, công suất tương đương với đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường thì phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cho dự án cải tạo, nâng cấp, bổ sung các công trình bảo vệ môi trường trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định.
  3. Chủ dự án, chủ cơ sở phát triển thực hiền và hoàn thành các công trình xử lý chất  thải, biện pháp bảo vệ vệ môi trường theo quy định;
  4. Việc thẩm định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thực hiện theo quy định tại Điều 14 Nghị định này; việc vận hành thử nghiệm công trình xử lý chất thải, kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường thực hiện theo quy định tại Điều 16b và Điều 17 Nghị định này, việc xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường thực hiện theo quy định tại Điều 19 Nghị định này”.

Giải pháp tối ưu trong phân loại, xử lý nước thải; ứng dụng công nghệ hiện đại trong xử lý nước thải

Câu hỏi:

Về việc kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, chính quyền các địa phương có các giải pháp tối ưu trong phân loại, xử lý nước thải; ứng dụng công nghệ hiện đại trong xử lý nước thải; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân để bảo môi trường; quan tâm đầu tư đáp ứng đủ kinh phí cho ứng phó và biến đổi khí hậu ?

Trả lời:

Về vấn đề phân loại và xử lý rác thải: Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ghi nhận và chia sẻ với những lo ngại của cử tri về tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải và những khó khăn, trong bất cập thu gom, xử lý rác thải tại các địa phương, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự xã hội. Hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt [hay còn gọi là rác thải] phát sinh ngày càng lớn. Nhà nước chi trả toàn bộ kinh phí cho hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý trong khi phí sinh hoạt môi trường mà người dân nộp chỉ đủ bù đắp một phần cho hoạt động thu gom, đặc biệt là một số tỉnh miền nứi có cứ dân thưa thớt, thu nhập bình quân đầu người còn thấp.

Trước thực trạng này, Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2019, trong đó Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường giúp Chính phủ thống nhất quản lý chất thải rắn trên phạm vi cả nước. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã khẩn trương rà soát, trình Chính phủ báo cáo kết quả rà soát và đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện phương án thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường, trong đó bổ sung một số quy định cụ thể về công tác quản lý chất thải rắn; tổ chức đồng loạt các đoàn kiểm tra công tác quản lý chất thải rắn tại các địa phương để nắm bắt những khó khăn, vướng mắc, bất cập tại địa phương. Trên cơ sơ đó, Bộ đề xuất Thủ tướng Chính phủ và đang tích cực chuẩn bị nội dung cho Hội nghị toàn quốc về công tác quản lý chất thải rắn, dự kiến tổ chức trong tháng 10/2019 để trao đổi, thống nhất các giải pháp lớn trong công tác quản lý chất thải rắn, bao gồm các giải pháp quản lý, các cơ chế, chính sách hỗ trợ đến các giải pháp về khoa học, công nghệ. Dự kiến sau Hội nghị này, Bộ sẽ xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chị thị đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn trên phảm vi cả nước.

Về phía các địa phương, cần tăng cường khuyến khích người dân giảm thiểu lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh phải xử lý, đặc biệt là chất thải nhựa; tổ chức thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn. Đối với các tỉnh miền núi, việc lựa chọn công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt phải trên thành phần chất thải rắn được thu gom, vận chuyển về cơ sở được xử lý. Với quan điểm chất thải rắn sinh hoạt là tài nguyên, Bộ Tài nguyên và Môi trường khuyến khích đầu tư các cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt có thu hồi năng lượng trong quá trình xử lý; chỉ lựa chọn phương án đốt để xử lý khi không có biện pháp đồng thời chất thải rắn sinh hoạt đưa vào đốt phải có nhiệt trị tối thiểu là 1.200kcal/kg.


Về vấn đề đầu tư kinh phí cho ứng phó với biến đổi khí hậu: Nhận thức được tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển bền vững đất nước, mặc dù ngân sách nhà nước còn khó khăn nhưng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm tổ chức triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đầu tư cung ứng phó với biến đổi khí hậu. Thông qua đó, đã huy động một nguồn lực lớn từ ngân sách trung ương cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Giai đoạn 2016-2020, thực hiện chủ chương của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mực tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020, trong đó đã giành 11.000 tỷ đồng để các Bộ, nghành, địa phương triển khai các hoạt động, công trình dự án đầu tư ứng phó, với biến đổi khí hậu. Đến nay, nguồn kinh phí nêu trên đã được Quốc hội thông qua trong kế hoạch đầu tư trung hạn với ngân sách trung ương cho các Bộ, ngành, địa phương, để triển khai thực hiện, góp phần ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu.


Hiện nay, sông Bắc Hưng Hải đang bị ô nhiêm rất nghiêm trọng [chất thải từ các nhà máy khu công nghiệp Gia Lâm- Hà Nội đổ vào hệ thống sông Bắc Hưng Hải] làm ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt và sản xuất của người dân.

Câu hỏi:

Hiện nay, sông Bắc Hưng Hải đang bị ô nhiêm rất nghiêm trọng [chất thải từ các nhà máy khu công nghiệp Gia Lâm- Hà Nội đổ vào hệ thống sông Bắc Hưng Hải] làm ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt và sản xuất của người dân. Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường làm rõ trách nhiệm của Bộ và các địa phương ?

Trả lời:

Bộ Tài nguyên và Môi trường chia sẻ với cử tri về tình hình ô nhiễm môi trường trên hệ thống sông Bắc Hưng Hải. Theo quy định của Luật bảo vệ môi trường và Luật tài nguyên nước, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và tài nguyên nước; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện các nhiệm vụ được quy định và phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường và quản lý nhà nước về tài nguyên nước thuộc phạm vi quản lý của mình. Theo quy định của Luật Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thủy lợi [trong đó có nội dung về bảo vệ môi trường, chất lượng nước trong phạm vi về bảo vệ môi trường thủy lợi]. Theo Thông tư số 05/2018/TT-BNNPTNT ngày  15/5/2018 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hệ thống sông Bắc Hưng Hà là công trình thủy lợi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý công trình đầu mối, hệ thống kênh trục chính, quan trọng và UBND cấp tỉnh liên quan quản lý công trình trong hệ thống].


Tiếp thu ý kiến phản ánh của cử tri về tình trạng ô nhiễm môi trường tại sông Bắc Hưng Hải [ thường được gọi là hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải], trong những năm qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chú trọng tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra; chỉ đạo Tổng cục Môi trường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương và Hà Nội tiến hành kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật và bảo vệ môi trường [BVMT] đối với các cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và có lưu lượng nước xả thải lớn, xả thải trực tiếp và dán tiếp ra sông Bắc Hưng Hải. Qua kiểm tra, thanh tra [ năm 2017 và năm 2918] đã phát hiện và tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với 503/1:139 cơ sở được thanh tra, kiểm tra có vi phạm phát luật về BVMT, tổng số tiền phạt 15,5 tỷ đồng, đồng thời buộc các đối tượng phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả, xây lắp các công trình BVMT đáp ứng yêu cầu theo quy định.


Ngày 21/8/2019, Bộ cũng đã có Công văn số 40884/BTNMT-TCMT gửi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân các tinh: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương và Hà Nội về việc phối hợp xử lý ô nhiêm môi trường sông Bắc Hưng Hải. Trong đó, đề nghị các cơ quan đẩy mạnh thức hiện các giải pháp kỹ thuật [xây dựng hạ tầng thu gom, xử lý nước thải; trạm quan trắc chất lượng nước mặt tự động; quy hoạch các điểm tập kết chất thải rắn và tổ chức thu gom, xử lý toàn bộ chất thải rắn…] và các giải pháp phi kỹ thuật [nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng quy chế bảo vệ môi trường và danh mục các nghành nghề công nghiệp không được phép đầu tư  trên sông Bắc Hưng Hải phù hợp với quy định của pháp luật về BVMT, tài nguyên nước, thủy lợi, đầu tư và các quy định của pháp luật có liên quan; đánh giá chất lượng môi trường nước và khả năng chịu tải; tăng cường công tác thanh tra và kiểm tra;…].


Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục thực hiện các nội dung sau: [i] hướng dẫn, thực hiện việc xây dựng kế hoạch bảo vệ nguồn nước, kiểm soát chất lượng nước và cơ chế điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải; việc xác định cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước hệ thống sông Bắc Hưng Hải theo quy định của pháp luật về tài nguyên nước; [ii] phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu, hướng dẫn, thực hiện việc xác định phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, nguồn nước trong hệ thống công trình thủy lợi thuộc hệ thống sông Bắc Hưng Hải; xây dựng cơ chế phối hợp liên tỉnh có hiệu quả trong phát hiện, trao đổi thông tin, điều tiết nước tai các nhánh sông chính thuộc hệ thống kênh Bắc Hưng Hải, kiểm soát chất lượng nước và các nhánh sông chính trước khi đổ vào sông Bắc Hưng Hải; [iii] tiếp tục hướng dẫn thực hiện về quy định điều tra, đánh giá sức chịu tài của sông theo Thông tư số 76/2017/TT-BTNMT về quy định đánh giá khả nâng tiếp nhận và đánh giá sức chịu đựng của sông, hồ.


Dự kiến trong tháng 9 năm 2019, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ trực tiếp làm việc với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công an, UBND các tỉnh thành phố; Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội và các Bộ ngành có liên quan tổ chức triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm xử lý triệt để ô nhiễm môi trường sông Bắc Hưng Hải.


Hướng dẫn cụ thể việc lập kế hoạch thu gom, vận chuyển, lưu giữ, chung chuyển chất thải nguy hại

Câu hỏi:

Hướng dẫn cụ thể việc lập kế hoạch thu gom, vận chuyển, lưu giữ, chung chuyển chất thải nguy hại đối với các chủ nguồn thải chất thải nguy hại có số lượng chất thải nguy hại phát sinh thấp hơn 600 kg/năm hoặc chủ nguồn thải chất thải nguy hại ở vùng sâu, vùng xa, khu vực chưa đủ điều kiện cho chủ thải xử lý chất thải nguy hại trực tiếp thu gom, vận chuyển, xử lý [bao gồm: nguồn kinh phí bố trí, yêu cầu trong việc xây dựng các điểm trung chuyển chất thải nguy hại, cách thức vận chuyên chất thải nguy hại đến các điểm trung chuyển,..]. Có quy định các đơn vị thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải nguy hại trên địa bàn tỉnh, định kỳ hàng năm lập báo cáo quản lý chất thải nguy hại gửi về Sở Tài nguyên và Môi trường [nơi các đơn vị này có hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại] để theo dõi ?

Trả lời:

Bộ Tài nguyên và Môi trường ghi nhận phản ánh của cử tri. Hiện nay, Bộ đang tổng hợp, rà soát những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định về quản lý chất thải nguy hại làm căn cứ sửa đổi Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 về quản lý chất thải nguy hại, trong đó sẽ nghiên cứu việc hướng dẫn các Sở Tài nguyên và Môi trường lập kế hoạch, thu gom thu gom, vận chuyển, lưu giữa, trưng chuyển chất thải nguy hại đối với các chủ nguồn thải chất thải nguy hại có số lượng chất thải nguy hại phát sinh thấp hơn 600 kg/năm hoạch chủ nguồn chất thải ở miền sâu, vùng xa, khu vực chưa đủ điều kiện cho chủ xử lý chất thải nguy hại trực tiếp thu gom, vận chuyển, xử lý.

Về việc quy định các đơn vị thu gom, vận chuyển, xử lý, chất thải nguy hại có trụ sở ngoài tỉnh nhưng tiến hành thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại trên địa bàn tỉnh, định kỳ hàng năm lập báo cáo chất thải nguy hại gửi về Sở Tài nguyên và Môi trường, theo quy định hiện hành, chủ nguồn thải phải có trách nhiệm đến cùng trong việc thu gom, xử lý chất thải nguy hại phát sinh. Do đó, chủ nguồn thải phải có trách nhiệm báo cáo định kỳ về tình hình phát sinh, thu gom và xử lý chất thải  nguy hại. Đối với các trường hợp ký hợp đồng với các đơn vị chức năng thu gom, vận chuyển và xử lý, việc chuyển giao phải được quản lý chặt chẽ bằng chứng từ chất thải nguy hại và phải được chuyển về chủ nguồn thải để theo dõi. Trong trường hợp phát hiện chất thải nguy hại có thất thoát, chủ nguồn phải báo cáo Sở Tài nguyên và Môi trường của địa phương nơi cơ sở hoạt động để kiểm tra, xử lý kịp thời.


Đề nghị Bộ TN&MT phối hợp với các Bộ ngành liên quan ban hành văn bản quy định về khoảng cách an toàn về môi trường từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ

Câu hỏi:

Đề nghị Bộ TN&MT phối hợp với các Bộ ngành liên quan ban hành văn bản quy định về khoảng cách an toàn về môi trường từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ [đặc biệt là từ cơ sở xử lý chất thải, cơ sở chăn nuôi tập trung, hộ chăn nuôi…] để giải quyết kịp thời những vướng mắc hiện nay ?

Trả lời:

Vấn đề khoảng cách môi trường là vấn đề được các địa phương quan tâm. Hiện nay, quy định về khoảng cách đảm bảo vệ sinh môi trường giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đến khu dân cư, khu vực công cộng, công sở, trường học… được thực hiện theo QCVNXD 01:2008/BXD.. Quy chuẩn xây dựng Việt Nam [Quy hoạch xây dưng] đã được Bộ xây dựng ban hành tại  Quyết định số 04/2008/QĐ/BXD ngày 3/4/2008. Cụ thể, tại Mục 1.3 Chương 1 của Quy chuẩn đã quy định về khu vực bảo vệ công trình và khoảng cách ly vệ sinh toàn. Theo đó, trong quy hoạch xây dựng, quản lý xây dựng phải tuân thủ các quy định chuyên ngành về khu vực bảo vệ khoảng cách ly vệ sinh, an toàn, bao gồm khu vực cách ly giữa khu dân dụng [khu dân cư, khu vực công cộng, công sở , trường học…] với xí nghiệp công nghiệp, tiêu thủ công nghiệp, kho tàng; trạm bơm, trạm xử lý nước thải; khu xử lý chất thải rắn, nghĩa trang, vị trí mìn nổ khai thác than, đất, đá.


Về khoảng cách của các xí nghiệp, kho tàng, được thực hiện theo TCVN 4449-1987, nội dung hướng dẫn về phân loại xí nghiệp, kho theo cấp độc hại và khoảng cách ly vệ sinh [Mục 3.8]. Theo đó đối với các xí độc hại cấp I, khoảng cách nhỏ nhất là 1.000m; đối với các xí nghiệp độc hại cấp II, khoảng cách nhỏ nhất là 500m. Việc phân cấp mực độ độc hại thực hiện theo hướng dẫn Phụ lục 3 của TCVN 4449-1987. Các xí nghiệp có chất thải và mực độ gây ồn, rung chấn đảm bảo tiêu chuẩn cho phép đối với khu dân cư và được kiểm soát nghiêm ngặt về các tiêu chí môi trường thì được phép bố trí ngay trong khu vực dân cư. QCVNXD 01:2008/BXD cũng quy định tùy theo mức độ độc hại về môi trường, giữa các công trình công nghiệp và khu dân cư có dải cách ly vệ sinh. Chiều rộng dải cách ly phải đảm bảo khoảng cách tối thiểu theo tiêu chuẩn môi trường Việt Nam.


Về nghĩa trang, QCVNXD 01:2008/BXD quy định khoảng cách an toàn về môi trường tối thiểu từ nghĩa trang đến mép nước gần nhất của mặt nước [sông, hồ, biển] không dùng cho mực đích cấp nước sinh hoạt [nghãi trang hung táng là 300m, nghĩa trang cát táng là 100m]; khoảng cách an toàn về môi trường tối thiểu từ nghĩa trang hung táng đến dường giao thông vành đai đô thị, đường sắt là 200m và phải cây xanh bao quanh nghĩa trang; khoảng cách an toàn về môi trường nhỏ nhất từ công trình hỏa táng xây dựng mới đến khu dân cư, công trình công cộng và công trình gần nhất là 500m. khoảng cách an toàn về môi trường nhà tang lễ xây dựng mới đến công trình nhà ở là 100m, đến chợ, trường học, bệnh viện là 200m.


Về cơ sở xử lý chất thải rắn, QCVNXD 01:2008/BXD quy định đối với bãi chôn lấp chất thải rắn hỗn hợp [vô cơ, hưu cơ] hợp vệ sinh phải có khoảng cách an toàn về môi trường nhỏ nhất giữa hàng rào bãi chôn lấp đến chân công trình xây dựng khác là 1.000m; đối với bãi chân lấp chất thải rắn vô cơ đến chân công trình xây dựng khác là 100m; đối với nhà máy xử lý chất thải rắn [đốt có xử lý khí thải, sản xuất hữu cơ] là 500m; đối với trạm trung chuyển chất thải rắn là 20m.


Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tiến hành rà soát toàn diện các quy chuẩn về môi trường để sửa đổi để đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, Bộ sẽ phối hợp với Bộ Xây dựng để nghiên cứu, sửa đổi quy chuẩn kỹ thuật nêu trên cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội đang đặt ra

Về việc kiến nghị tăng cường giám sát chặt chẽ các cơ quan thí nghiệm vụ quản lý và khai thác tài nguyên

Câu hỏi:

Về việc kiến nghị tăng cường giám sát chặt chẽ các cơ quan thí nghiệm vụ quản lý và khai thác tài nguyên, không để xảy ra tình trạng công khai, hiên ngang lộng hành đang diễn ra ở nhiều nơi như hiện nay?

Trả lời:

Trời gian qua, công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực khoáng sản đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quan tâm. Tuy nhiên hoạt động khai thác trái phép, vi phạm pháp luật vẫn còn diễn ra, ngoài việc thất thoát khoáng sản còn ảnh hưởng xuất đến môi trường như phản ánh của cử tri.

Trước thực trạng này, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, văn bản chỉ đạo nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước, ngăn chặn tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, nhất là khai thác trái phép cát, sỏi, lòng sông. Theo đó, Chính phủ đã quy định cụ thể trách nhiệm quản lý, bảo vệ kháng sản chưa khai thác của Ủy ban nhân dân các cấp tại Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản, đồng thời đã bổ sung hành vi, tăng mức xử phạt đối với một số hành vi, nhất là khai thác cát, sỏi lòng sông trái phép lên 2-3 lần trong Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/42017 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 30/3/2015 về tăng cường hiệu quả về thực hiện thi chính sách, pháp luật về khoáng sản; Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã chủ trì 01 cuộc họp trực tuyến các Bộ, ngành liên quan với 63 tỉnh thành phố; 02 cuộc họp trực tuyến với các tỉnh, thành phố có hoạt động khai thác cát, sỏi trái phép kéo dài, phức tạp [mới đây là 3/4/2019] để bàn các giải pháp ngăn chặn vi phạm pháp luật trong hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông.

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra lĩnh vực khoáng sản; triển khai kiểm tra tại một số địa phương về tình hình thu hồi cát từ cái dự án nạo vét, khơi thông luồng lạch; đã ban hành Thông tư số 01/2016/TT-BTNMT ngày 13/1/2016 quy định kỹ thuật về công tác thăm dò cát, sỏi lòng sông và đất, đá làm vật liệu san lấp. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành nhiều Chỉ thị, văn bản chỉ đạo điều hành; đã có gần 40 tỉnh, thành phố xây dựng và phê duyệt phương án bảo vệ khoáng sản, trong đó quy định trách nhiệm Ủy ban nhân dân các cấp huyện, xã trong quản lý khoáng sản trên địa bàn; ngoài việc triển khai công tác thanh tra, kiểm tra đã có 45 tỉnh, thành phố ban hành quy chế phối hợp trong quản lý khoáng sản, trong đó có cát, sỏi lòng sông tại các khu vực giáp danh địa giới hành chính; tăng cường cống tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm vĩnh vực nói chung, cát sỏi nói riêng.

Đến nay, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ dự thảo nghị định quản lý cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng, bờ, bãi sông. Hiện nay đang hoàn thiện theo ý kiến thành viên Chính phủ để trình ban hành trong tháng 9 năm 2019. Theo đó, nội dung chính của Nghị định thực hiện 05 chính sách đó là:  [1] quản lý cát, sỏi theo quy định của Luật khoáng sản gắn với trách nhiệm của việc bảo vệ lòng bờ, bãi sông theo quy định của Luật tài nguyên nước; [2] quản lý, cấp phép, sử dụng cát, sói lòng sông, trên lưu vực sông phải gắn với trách nhiệm của địa phương theo địa giới hành chính; [3] quản lý cát, sỏi lòng sông chặt chẽ từ lập quy hoạch, cấp phép thăm dò, khai thác đến hoạt động mua bán , vận chuyển, tập kết; [4] cấp phép thăm dò, khai thác cát, sỏi chủ yếu thông qua hình thức đấu giá; [5] khuyến khích sử dụng nguyên liệu thay thế cát, sỏi lòng sông từ đá và vật liệu giầu silic.


Đề nghị sớm có biện pháp đồng bộ để hạn chế tình trạng rác thải nhựa gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng

Câu hỏi:

Đề nghị sớm có biện pháp đồng bộ để hạn chế tình trạng rác thải nhựa gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, từ việc tuyên truyền, vận động người dân hạn chế sử dụng bao ni lông, các loại bao bì làm từ nhựa; nghiên cứu vật liệu làm bao bi thân thiện với môi trường thay thế vật liệu nhựa, tiến tới cấm sử dụng túi ni lông; cần có quy định bắt buộc các doanh nghiệp, cá nhân sảm xuất hàng hóa có trách nhiệm thu hồi bao bì, vỏ chai, [đặc biệt là loại hóa chất độc hại]; có chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp, người dân đầu tư, sảm xuất, sử dụng các loại vật liệu thân thiện với môi trường; có chế tài xử lý thích đáng đối với những hành vi xả rác thải nhựa gây ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường biển, sông, suối…

Trả lời:

Bộ Tài nguyên và Môi trường thống nhất và đánh giá cao kiến nghị của cử tri trước vấn nạn rác thải nhựa ở Việt Nam hiện nay; đây cũng là vấn đề đang được Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo. Theo đó, trong thời gian vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, nghành, địa phương đã và đang tích tực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như: rà soát, đề xuất sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm giảm thiểu, tăng cường tái chế, tái sử dựng, ngăn chặn tác hại của rác thải nhựa đối với môi trường; đẩy mạnh các hoạt động truyền thống, nâng cao nhận thức nhầm thay đổi thói quen tiêu dùng đối với sản phẩm nhựa một lần của các doanh nghiệp, người dân và cộng đồng, khuyến khích sử dụng các sản phẩm thay thế, thân thiện môi trường; phát động toàn dân chống rác thải nhựa, cùng chung tay thành lập Liên minh chống rác thải nhựa.

Trân trọng tiếp thu ý kiến cử tri, để đẩy mạnh phong trào chống rác thải nhựa trong thời gian tới, các Bộ,  ngành, địa phương cần tiếp túc triển khai có số hiệu quả Quyết định số 491/QD-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2015; tầm nhìn đến 2050 với mục tiêu cụ thể đối với chất thải rắn sinh hoạt đô thị: Sử dụng 100% túi ni lông thân thiện với môi trường các Trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt thay thế cho túi ni lông khó phân hủy; hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu, sản xuất và cung cấp các loại túi ni lông khó phân hủy kể từ năm 2026 tại các trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt.

Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tập trung và triển khai đảy mạnh một số  giải pháp sau:

Tham mưu cơ chế, chính sách mới nhầm hạn chế tình trạng rác thải nhựa gây ô nhiễm môi trường như: trong quá trình xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, chú trọng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp và người dân đầu tư, sản xuất, sử dụng các loại vật liệu thân thiện với môi trường [trình Quốc hội trong năm 2020]; tham mưu Chính phủ sửa đổi , bổ sung một số Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 quy định về xử phạt quy định hành chính trong lĩnh vưc bảo vệ môi trường, trong đó chú trong các chế tài xử lý nghiệm đối với các hành vi xả rác thải gây ô nhiễm môi trường [ trình Chính phủ trong năm 2019]; tham mưu Thủ tướng Chính phủ xem xét, sửa đổi Quyết định 73/2014/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 về danh mục phế liệu được phép nhập khẩu, theo hướng chỉ cho phép nhập các loại nhựa có giá trị tái chế cao; tham mưu Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 24/4/2015 về thu hồi sản phẩm thải bỏ thoe hướng bổ sưng đối tượng thu hồi là các loại bao bì nhựa….

Phối hợp với Bộ Tài chính và một số Bộ, ngành liên quan triển khai các giải pháp định hướng hoạt động sản xuất và tiêu thụ túi nilon thân thiện với môi trường trong các nước như: tăng thuế bảo vệ môi trường đối với túi nilon khó phân hủy; tạo lập thị trường tiêu dùng cho các sản phâm túi nilon thân thiện với môi trường; đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học, úng dụng và chuyên giao công nghệ tái chế chất thải túi nilon khó phân hủy thành các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường; sản xuất các loại túi có khả năng tự phân hủy sinh học; khuyến khích tải sử dụng, sử dụng loại túi thân thiện với môi trường.

Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thúc đẩy sử dựng các sản phẩm thân thiện với môi trường. Bộ tài chính, Bộ Công Thương phối hợp trong việc tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu nộp thuế bảo vệ môi trường và chống gian lận thương mại để bảo hộ các sản phẩm nhựa đã được công nhận túi nilon thân thiện với môi trường; đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế môi trường.

Tập trung đẩy mạnh các hoạt động truyền thông cao nhận thức về tác hại của các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa, túi nilon sử dụng một lần đối với môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe con người; thường xuyên phát động các phong trào phòng chống rác thải nhựa; khen thưởng kịp thời các cá nhận tổ chức có thành tích tốt trong phong trào chống rác thải nhựa hoặc sáng kiến có giá trị; nhân rộng các mô hình tốt về thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt và các mô hình nói không với rác thải nhựa.

Đôn đốc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phần tổ chức thực hiện: Hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu , sảm xuất và cung cấp các loại túi nilon khó phân hủy kể từ năm 2016 tại các trung tâm thương mại, siêu thị phụ vụ cho mục đích sinh hoạt; tuyên truyền, vận động và tổ chức ký cam kết chống rác thải nhựa, không sử dụng các sản phẩm nhựa một lần đối với các cơ sở sảm xuất, các tổ chức phâm phối sản phẩm, trung tâm thương mại, cửa hàng, nhà hàng, chợ, siêu thị; xây dựng và tổ chức thực hiện các mô hình điểm thực hiện hạn chế sử dựng túi nion khó phân hủy, chuyển sử dựng túi nilon sang các loại túi giấy và bao gói khác; thúc đẩy thị trường tiêu thụ túi thân thiện với môi trường; kiểm soát chặt chẽ các hoạt dộng sản xuất túi nilon khó phâm hủy trên địa bàn, đặc biệt là nhóm sản xuất quy mô hộ gia đình.


Nâng cao trách nhiệm trong trong quản lý và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và người dân trong bảo vệ môi trường

Câu hỏi:

Tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là nguồn nước và không khí vẫn còn đang xảy ra ở khu công nghiệp, khu dân cư, nông thôn và đô thị, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người dân. Cử tri đề nghị để nâng cao trách nhiệm trong trong quản lý và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và người dân trong bảo vệ môi trường; quản lý chặt chẽ việc khai thác tài nguyên, khoáng sản, quan tâm tăng cường công tác bảo vệ môi trường; quản lý chặt chẽ việc khai thác tài nguyên, khoáng sản, quan tâm tăng cường công tác trồng rừng và bảo vệ rừng, xử lý nghiêm các vi phạm?

Trả lời:

Bộ Tài nguyên và Môi trường chia sẻ với những lo ngại của cử tri về tình trạng ô nhiễm môi trường trong giai đoạn hiện nay và xin được báo cáo như sau:

Công tác bảo vệ môi trường, khắc phục ô nhiễm môi trường, nhất là nguồn nước, không khí tại các khu công nghiệp, khu dân cư nông thôn, làng nghề và đô thị được Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương cũng như toàn xã hội hết sức quan tâm. Nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp quản lý đã được ban hành, tổ chức triển khai thực hiện. Tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra những xu hướng tăng mạnh như trước đây được giảm dần. Đến nay đã có 88,3% các khu công nghiệp hoàn thành việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải tự động, liên tục. Đã xuất hiện nhiều mô hình đô thị, nông thôn, khu công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất sinh thái, thân thiện với môi trường.

Tuy nhiên, đúng như cử tri phản ánh, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn còn đang diễn ra tại một số khu vực, một số thời điểm, gây bức xúc, lo lắng cho Nhân dân. Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp hạn chế, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, cụ thể như:

  • Hoàn thiện hệ thống, chính sách pháp luật đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác quản lý, phù hợp với bối cảnh quốc tế, đồng thời chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các xung đột, tranh chấp về môi trường gây bất ổn định chính tri, an ninh trật tự xã hội. Trước mắt, đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án sửa đổi Luật bảo vệ môi trường, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, theo hướng kiểm soát, xử lý nghiêm cấc hành vi gây ô nhiễm môi trường, tăng chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
  • Tiếp tục duy trì, phát huy hiệu quả hoạt động của đường dây nóng tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị của tổ chức và cá nhận về ô nhiễm môi trường của trung ương và địa phương; mở rộng hệ thống đường dây nóng đến cấp huyện, cấp xã nhầm phát hiện và xử lý kịp thời các vụ gây ô nhiễm môi trường, ngăn chặn đến mức thấp nhất các sự cố môi trường có thể xảy ra.
  • Yêu cầu các khu công nghiệp tiếp  tục hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật và bảo vệ môi trường trước  khi đi vào hoạt động, không cho phép thu hút các dự án đầu tư vào khu công nghiệp hoặc thực hiện và mở rộng khu công nghiệp khi không có hoặc chưa hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường; thực hiện giám sát chặt chẽ việc thu hút đầu tư các nghành nghề phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt.
  • Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giám sát chặt chẽ việc vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung của khu công nghiệp, xử lý khí thải của các cơ sở trong khu công nghiệp; nhất là thanh tra, kiểm tra đột xuất, tổ chức thanh tra, kiểm tra theo loại hình, vùng, theo hình thức cuốn chiếu để đánh giá đầy đủ, toàn diện, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các vi phạm. Tổ chức thanh tra theo vùng để nắm bắt và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về môi trường. Đồng thời tiếp tục chỉ đạo các địa phương duy trì hoạt động giám sát thường xuyên đối với các dự án lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Đẩy mạnh việc kết nối truyền số liệu quan trắc môi trường của các cơ sở phát sinh chất thải lớn tiếp tục về Sở Tài nguyên và Môi trường để theo dõi, giám sát.
  • Tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác BVMT [ngân sách nhà nước; các dự án, chương trình tài trợ trong và ngoài nước; Quỹ BVMT Việt Nam; Quỹ BVMT của địa phương huy động vốn từ cộng đồng, hợp tác công tư,...]. Ưu tiên xã hội hóa, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ cho việc phát triển các công nghệ xử lý, tái chế phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, khí hậu và hiện trạng chất thải của nước ta. Có cơ chế đột phá và huy động các nguồn tài chính từ nguồn lực xã hội, bên cạnh các nguồn lực tài chính của nhà nước để phục hồi, xư lý ô nhiễm môi trường, cơ chế sử dụng nguồn thu từ môi trường đầu tư trở lại cho môi trường.
  • Về vấn đề quản lý khai thác tài nguyên, khoáng sản: Ngày 30/3/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-TTg về việc tăng cường hiệu lực thực thi chính sách, pháp luật về khoáng sản. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ các các Bộ, ngành liên quan và các địa phương thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về khoáng sản; nhất là công tác thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật về khoáng sản, thanh tra trách nhiệm đối với các tổ chức hành chính và người đứng đầu trong quản lý nhà nước về khoáng sản, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về khoáng sản và bảo vệ môi trường trong khi khai thác khoáng sản; chỉ đạo kiểm tra, xử lý đối với các cơ sở chế biến, sử dụng khoáng sản không có nguồn gốc hợp pháp, các cơ sở chế biến có công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ từ khâu hoàn thiện thể chế quản lý khoáng sản đến công tác cấp phép hoạt động khoáng sản, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản. Theo đó, từ năm 2015 đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành các Nghị định: [1] số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản [gọi tắt là Nghị định 158] thay thế Nghị định số 15/2012/NĐ-CP ngày 09/3/2012; [2] số 33/2017/NĐ-CP ngày 03 tháng 04 năm 2017 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản [gọi tắt là Nghị định 33] thay thế Nghị định số 142/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013.

Nghị định 158/2016/NĐ-CP đã bổ sung nhiều nội dung mới và quan trọng nhằm tăng cường công tác quản lý khoáng sản, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp khi được giao quyền khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường, đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm quản lý bảo vệ khoáng sản chưa khái thác ở Chương III; hướng dẫn nội dung Phương án bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các địa phương nếu xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ nếu để xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép hoặc khai thác trái phép kéo dài mà không xử lý …

Nghị định số 33/2017/NĐ-CP đã bổ sung, điều chỉnh theo hướng nâng mức phạt đối với một số hành vi, nhất là hành vi khai thác cát, sỏi trái phép; bổ sung thêm các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt cho Ủy ban nhân dân các cấp nhằm kịp thời ngăn chặn các sai phạm khai thác khoáng sản. Mặt khác, Bộ đã thực hiện nhiều hình thức phổ biến pháp luật về khoáng sản; đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm của Bộ nôi dung thanh tra, kiểm tra chuyên đề theo từng loại khoáng sản; thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân để xử lý các hành vi gây tổn thất lớn đến khoáng sản, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phối hợp với các địa phương trong việc nắm bắt thông tin, kiểm tra, xử lý hoạt động khai thác trái phép.


Đề nghị Bộ xem xét và sửa đổi quy định về đối tượng khu vực công nghiệp phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung

Câu hỏi:

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu và Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường khu vực kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao quy định: Các khu công nghiệp phải đầu tư xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung đạt kỹ chuẩn kỹ thuật môi trường và có hệ thống quan trắc nước thải tự động, liên tục, có thiết bộ đo lưu lượng nước thải trước khi đi vào hoạt đông… Tuy nhiên, trong thực tế có một số khu công nghiệp có lưu lượng nước thải phát sinh không lớn; nếu đầu tư xây dựng Nhà máy xử lý nước thải tập trung theo quy định có thể xảy ra tình trạng không đủ lượng nước thải để xử lý trong khi phải tốn kém rất nhiều kinh phí để xây dựng, bảo dưỡng và duy trì hoạt động. Đề nghị Bộ xem xét và sửa đổi quy định về đối tượng khu vực công nghiệp phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung theo hướng: Đối với các khu công nghiệp có lưu lượng nước thải lớn áp dụng như quy định hiện hành. Còn các khu công nghiệp có lưu lượng xả thái nhỏ cho phép xây dựng hệ thống xử lý nội bộ nhà máy, tránh gây lãng phí vốn đầu tư và chi phí vận hành?

Trả lời:


Theo quy định của khoản 3 Điều 66 của Luật bảo vệ môi trường 2014, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao [gọi chung là khu công nghiệp] phải đầu tư hệ thống thu góm và xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường và hệ thống quan trắc nước thải tự động, liên tục, có thiết bị đo lưu lượng nước thải. Tuy nhiên, việc đầu tư  hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung phải căn cứ vào lĩnh vực, ngành nghề thu hút đầu tư, phạm vi, quy mô hoạt động của khu công nghiệp theo nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường được cấp có thầm quyền phê duyệt. Mặt khác, tại điểm a khoản 3 Điều 3 thông tư số 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, nhà máy xử lý nước thải tập trung khu công nghiệp có thể chia thành đơn nguyên [mô-đun] phù hợp với tiến độ lấp đầy và hoạt động của khu công nghiệp nhưng phải đảm bảo xử lý toàn bộ lượng nước thải phát sinh đạt kỹ chuẩn môi trường. Vì vậy các khu công nghiệp có lưu lượng xả thải nhỏ có thể đầu tư theo tiến độ và lựa chọn công nghệ xử lý phù hợp.

Tiếp thu ý kiến của cử tri nêu, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ xem xét, nghiên cứu về việc quy định cho phép các khu công nghiệp có lưu lượng xả thải nhỏ được xây dựng hệ thống xử lý nội bộ trong nhà máy trong quá trình xây dựng dự án Luật bảo vệ môi trường và sửa đổi.


Giải pháp hữu hiệu để xử lý triệt để vấn đề; tăng cường hơn nữa trong công tác quản lý; kiểm tra, giám sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh; có chế tài nghiêm khắc xử lý dứt điểm tình trạng vi phạm pháp luật về môi trường

Câu hỏi:

Cử tri rất bức xúc trước vẫn nạn ô nhiếm môi trường ngày càng nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe, sinh hoạt và sản xuất [do rác thải sinh hoạt, rác thải y tế và các khu, cụm công nghiệp, chất thải làng nghề, khu sản xuất, chăn nuôi, ô nhiếm khói bụi, tiếng ồn…]. Kiến nghị Bộ, ngành, các địa phương phải hành động quyết liệt, có giải pháp hữu hiệu để xử lý triệt để vấn đề; tăng cường hơn nữa trong công tác quản lý; kiểm tra, giám sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh; có chế tài nghiêm khắc xử lý dứt điểm tình trạng vi phạm pháp luật về môi trường [nhất là đối với tổ chức, các nhân có hành vi xả rác, xả chất thải bừa bãi], không chỉ dừng lại ở các văn bản chỉ đạo, tuyên truyền vận động, nhằm hạn chế thấp nhất vấn đề gây ô nhiễm môi trường, đảm bảo quyền được sống trong môi trường an toàn, trong lành?

Trả lời:

Bộ Tài nguyên và Môi trường chia sẻ với những lo ngại của cử tri về các vấn đề môi trường đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Công tác bảo vệ môi trường trong thời gian vừa qua đã được Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, nghành, địa phương cũng như toàn xã hội hết sức quan tâm. Nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp quản lý đã được ban hành, tổ chức triển khai thực hiện. Tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra nhưng xu hướng tăng mạnh như trước đây được giảm dần. Nền kinh tế có bước phát triển bền vững hơn, thân thiện với môi trường. Đã xuất hiện nhiều mô hình đô thị, nông thôn, khu công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất sinh thái, thân thiện với môi trường.

Tuy nhiên, đúng như cử tri phản ánh, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn còn diễn ra tại một số khu vực, một số thời điểm gây bức xúc, lo lắng cho Nhân dân. Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp hạn chế, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, cụ thể như sau:

- Hoàn thiện hệ thống, chính sách pháp luật đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác quản lý, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế, đồng thời chủ động phòng ngừa ngăn chặn các xung đột, tranh chấp về môi trường gây bất ổn định chính trị, an ninh trật tự xã hội. Trước mắt đẩy mạnh tiến độ xây dựng dự án sửa đổi Luật bảo vệ môi trường, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, theo hướng kiểm soát xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường, tăng chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.


Tiếp tục duy trì phát huy hiệu quả hoạt động của đường dây nóng tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị của tổ chức và cá nhân về ô nhiễm môi trường của trung ương và địa phương; tập trung đẩy mạnh, làm tốt hơn việc tiếp nhận, xác minh và xử lý các thông tin; mở rộng hệ thống đường dây nóng đến các huyện, cấp xã nhầm phát hiện và xử lý kịp thời các vụ gây ô nhiễm môi trường, ngăn chặn đến mức thấp nhất các vụ gây ô nhiễm môi trường có thể xảy ra.

Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, nhất là thanh tra, kiểm tra đột xuất, tổ chức thanh tra, kiểu tra theo loại hình, vùng, theo hình thức cuốn chiếu để đánh giá đầy đủ, toàn diện, phát huy kịp thời, xử lý nghiêm các vi phạm. Tổ chức thanh tra theo vùng để nắm bắt và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về môi trường. Đồng thời tiếp tục chỉ đạo các địa phương duy trì hoạt động giám sát thường xuyên đối với các dự án lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Đẩy mạnh tiến độ kết nối truyền số liệu quan trắc môi trường của các cơ sở phát sinh chất thải lớn trực tiếp về Sở Tài nguyên và Môi trường để theo dõi, giám sát.


Đề nghị Bộ TN&MT chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương có biện pháp quyết liệt, đặc biệt là xử lý trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan quản lý không tốt Các tài nguyên như than, đá, đất, cát,…?

Câu hỏi:

Các tài nguyên như than, đá, đất, cát,… đang dần cạn kiệt do khai thác trái phép. Đề nghị Bộ TN&MT chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương có biện pháp quyết liệt, đặc biệt là xử lý trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan quản lý không tốt Các tài nguyên như than, đá, đất, cát,…?

Trả lời:

Thời gian qua, công tác thanh tra, kiếm tra lĩnh vực khoáng sản đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quan tâm. Tuy nhiên, hoạt động khai thác trái phép, vi phạm pháp luật vẫn còn diễn ra, ngoài việc thất thoát khoáng sản còn ảnh hướng xấu đến môi trường như phản ánh của cử tri.

Trước thực trạng này, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, văn bản chỉ đạo nhầm tăng cường công tác quản lý nhà nước, ngăn chặn tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, nhất là khai thác trái phép cát, sỏi lòng sông. Theo đó, Chính phủ đã quy định cụ thể trách nhiệm quản lý, bảo vệ khoáng sản của ỦY ban nhân dân các cấp tại Nghị đinh số 33/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều Luật khoáng sản, đồng thời đã bổ sung hành vi, tăng mức xử phạt đối với một số hành vi, nhất là khai thác cát, sỏi lòng sông trái phép lên 2, 3 lần trong Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị  số 03/CT-TTg ngày 03/3/2015 về tăng cường hiệu quả thức thi chính sách, pháp luật về khoáng sản; Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã chủ trì 01 cuộc họp trực tuyến các Bộ, ngành liên quan với 63 tỉnh thành phố; 02 cuộc họp trực tiếp với các tỉnh , thành phố có hoạt động khai thác cát, sỏi trái phép kéo dài, phức tạp [mới đây là 3/4/2019] để bàn bạc các giải pháp ngăn chặn vi phạm pháp luật trong hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông.

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra lĩnh vực khoáng sản; triển khai kiểm tra tại một số địa phương về tình hình thu hồi cát từ một số hoạt động nạo vét, khơi thông luồng lạch; đã ban hành Thông tư số 01/2016/TT-BTNMT ngày 13/1/2016 quy định kỹ thuật về công tác thăm dò cát, sỏi lòng sông và đất, đá làm vật liệu san lấp. Ủy ban nhân cấp tỉnh đã ban hành nhiều Chỉ thị, văn bản chỉ đạo điều hành; đã có gần 40 tỉnh, thành phố xây dựng và phê duyệt phương án bảo vệ khoáng sản, trong đó quy định trách nhiệm Ủy ban nhân dân các cấp huyện, xã trong quản lý khoáng sản trên địa bàn; ngoài việc triển khai công tác thanh tra, kiểm tra đã có 45 tỉnh, thành phố ban hành quy chế phối hợp trong quản lý khoáng sản, trong đó có cát, sỏi lòng sông tại các khu vực giáp danh địa giới hành chính; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm lĩnh vực khoáng sản nói chung, cát sỏi nói riêng.

Đến nay, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình chính phủ dự thải Nghị định quản lý cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng, bờ, bãi sông. Hiện nay đang hoàn thiện dự thảo ý kiến thành viên Chính phủ để trình ban hành trong tháng 9 năm 2019. Theo đó, nội dung chính của Nghị định thể hiện 05 chính sách, đó là: [1] quản lý cát, sỏi theo quy định của Luật khoáng sản gắn với trách nhiệm của việc bảo vệ lòng bờ, bãi sông theo quy định của Luật tài nguyên nước; [2] quản lý, cấp phép, sử dụng cát, sói lòng sông, trên lưu vực sông phải gắn với trách nhiệm của địa phương theo địa giới hành chính; [3] quản lý cát, sỏi lòng sông chặt chẽ từ lập quy hoạch, cấp phép thăm dò, khai thác đến hoạt động mua bán , vận chuyển, tập kết; [4] cấp phép thăm dò, khai thác cát, sỏi chủ yếu thông qua hình thức đấu giá, [5] khuyến khích sử dụng nguyên liệu thay thế cát, sỏi lòng sông từ đá và vật liệu giầu silic.


Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu bổ sung quy định để tạo sự công bằng trong quá trình xử lý vi phạm đối với các cơ sở có cùng quy mô sản xuất nhưng hồ sơ môi trường khác nhau do sự thay đổi của Luật Bảo vệ môi trường qua từng giai đoạn ?

Câu hỏi:

Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường trong năn 2014 thì có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh trước đây thuộc đối tượng lập cam kết bảo vệ môi trường [kế hoạch bảo vệ môi trường] nay thuộc đối tượng lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Tuy nhiên, luật không quy định bắt buộc các đối tượng này phải lập lại thủ tục về môi trường. Mặt khác quá trình hoạt động về đối tượng này nếu có vi phạm thì chỉ bị xử lý theo đối tượng lập kế hoạc bảo vệ môi trường gây bất hợp lý và thiếu công bằng trong xử lý vi phạm hành chính đối với cùng 1 nội dung, mức độ, tính chất hậu quả của hành vi vi phạm hành chính. Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu bổ sung quy định để tạo sự công bằng trong quá trình xử lý vi phạm đối với các cơ sở có cùng quy mô sản xuất nhưng hồ sơ môi trường khác nhau do sự thay đổi của Luật Bảo vệ môi trường qua từng giai đoạn ?

Trả lời:

Vấn đề ông/bà nêu là tồn tại, bất cập trong quy định chuyển tiếp của Luật bảo vệ môi trường 2014 với Luật bảo vệ môi trường 2005. Để khắc phục các tồn tại, bất cập này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu Chính phủ ban hành nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường, trong đó tại Điều 2 Khoản 13 Điều 1 đã sửa đổi, bổ sung Điều 22 nghị định số 18/2015/NĐ-CP theo hướng: “Các dự án đã triển khai xây dựng nhưng chưa đi vào vận hành và các dự án, cơ sở đã đi vào vận hành [bao gồm các dự án mở rộng quy mô, tăng công suất, thay đổi công nghệ cơ sở, khu công nghiệp đang hoạt động] mà chưa có các quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc xác định kế hoạch bảo vệ môi trường hoặc các hồ sơ về môi trường tương đương, thì sẽ xử phạt theo quy định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Trường hợp dự án cơ sở phù hợp về quy hoạch, chủ đầu tư dự án, chủ cơ sở phải:

  1. Đối với dự án, cơ sở quy mô, công suất tương đương với đối tượng phải lập đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường thì phải lập kế hoạch bảo vệ môi trường gửi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xác định theo quy định,
  2. Đối với dự án, cơ sở quy mô, công suất tương đương với đối tương phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường thì phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cho dự án cải tao, nâng cấp, bổ sung các công trình bảo vệ môi trường trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định.
  3. Chủ dự án, chủ cơ sở phải triển khai thực hiện và hoàn thành các công trình xử lý nước thải, biện pháp bảo vệ môi trường theo quy định; lập hồ sơ kiểm tra, xác lập hoàn thành công trình bảo vệ môi trường theo quy định.”

Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang được Chính phủ giao và sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Bộ ghi nhận sẽ nghiên cứu, xem xét việc bổ sung quy định xử lý đối với các trường hợp chuyển tiếp như kiến nghị của cử tri để đảm bảo sự công bằng trong xử lý hành vi vi phạm.


Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm ban hành quy định về khoảng cách cách ly về đảm bảo an toàn an toàn vệ sinh môi trường giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đến khu dân cư, khu vực công cộng, cơ sở, trường học

Câu hỏi:

Hiện nay, chưa có quy định chính thức về khoảng cách cách ly đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đến khu dân cư, khu công cộng, cơ sở, trường học.… nên trong quá trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường và xử lý kiến nghị, khiếu nại của người dân địa phương đang còn lúng túng và khó khăn trong thực hiện. Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm ban hành quy định về khoảng cách cách ly về đảm bảo an toàn an toàn vệ sinh môi trường giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đến khu dân cư, khu vực công cộng, cơ sở, trường học,… phù hợp với tình hình phát triển kinh tế- xã hội hiện nay để địa phương có căn cứ thực hiện?

Trả lời:

Hiện nay quy định về khoảng cách đảm bảo vệ sinh môi trường giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đến khu dân cư, khu vực công cộng, công sở, trường học…được thực hiện theo số QCVNXD 01:2008/BXD – Quy chuẩn xây dựng Việt Nam [Quy hoạch xây dựng] đã được Bộ Xây dựng ban hành tại Quyết định số 04/2008/QĐ-BXD ngày 03/4/2008. Cụ thể, tại Mục 1.3   Chương 1 của Quy chuẩn đã Quy định về khu vực bảo vệ công trình và khoảng cách ly vệ sinh an toàn.Theo đó, trong quy hoạch xây dựng, quản lý xây dựng phải tuân thủ các quy định chuyên ngành về khu vực bảo vệ và khoảng cách ly vệ sinh, an toàn, bao gồm khu vực cách ly giữa khu dân dụng [khu dân cư, khu công cộng, công sở, trường học…] với xí nghiệp công nghiệp, tiểu thu công nghiệp; kho tàng; trạm bơm, trạm xử lý nước thải; khu xử lý chất thải rắn, nghĩa trang; vị trí nổ mìn khai thác than, đất, đá.

Về khoảng cách của các xí nghiệp, kho tàng, được thực hiện theo TCVN 4449-1987, nội dung hướng dẫn về phân loại xí nghiệp, kho theo cấp độc hại và khoảng cách ly vệ sinh [Mục 3.8]. Theo đó đối với các xí nghiệp đọc hại cấp I, khoảng cách nhỏ nhất là 1.000m; đối với các xí nghiệp độc hại cấp II, khoảng cách nhỏ nhất là 500m. Việc phân cấp mức độ độc hại thực hiện theo hướng dẫn tại Phụ lục 3 của TCVN 4449- 1987. Các xí nghiệp có chất thải và mức độ gây ồn, rung chấm đảm bảo tiêu chuẩn cho phép đối với khu dân cư và được kiểm soát nghiêm ngặt về các tiêu chí môi trường thì được phép bố trí ngay trong khu dân cư. QCVNXD 01 :20008/BXD cũng quy định tùy theo mức độ độc hại về môi trường, giữa các công trình khu công nghiệp và khu dân cư phải có dải cách ly vệ sinh. Chiều rộng dài cách ly phải đảm bảo khoảng cách tối thiểu tiêu chuẩn môi trường Việt Nam.

Về nghĩa trang, QCVNXD 01:2008/BXD quy định khoảng cách an toàn về môi trường tối thiểu từ nghĩa trang đến mép nước gần nhất của mặt nước [sông, hồ, biển] không dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt [nghĩa trang hung táng là 300m, nghĩa trang cát táng là 100m]; khoảng cách an toàn về môi trường tối thiểu từ nghĩa trang hung táng đến đường giao thông vành đai đô thị, đường sắt là 200m và phải cây xanh bao quanh nghĩa trang; khoảng cách an toàn về môi trường nhỏ nhất từ công trình hỏa táng xây dựng mới đến khu dân cư, công trình công cộng và công trình gần nhất là 500m. khoảng cách an toàn về môi trường nhà tang lễ xây dựng mới đến công trình nhà ở là 100m, đén chợ, trường học, bệnh viện là 200m.

Về cơ sở xử lý chất thải rắn, QCVNXD 01:2008/BXD quy định đối với bãi chôn lấp chất thải rắn hỗn hợp [vô cơ, hưu cơ] hợp vệ sinh phải có khoảng cách an toàn về môi trường nhỏ nhất giữa hàng rào bãi chôn lấp đến chân công trình xây dựng khác là 1.000m; đối với bãi chân lấp chất thải rắn vô cơ đến chân công trình xây dựng khác là 100m; đối với nhà máy xử lý chất thải rắn [đốt có xử lsy khí thải, sản xuất hữu cơ] là 500m; đối với trạm trung chuyển chất thải rắn là 20m.

Trong thời gian tới,Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang rà soát toàn diện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường để sửa đổi để đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp với Bộ Xây dựng để nghiên cứu, sửa đổi quy chuẩn kỹ thuật nêu trên cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội đang đặt ra hiện nay.


Kiến nghị sớm ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Cả trước mùa mưa bão năm 2019

Câu hỏi:

Cử tri các huyện Tây Nghệ An kiến nghị sớm ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Cả trước mùa mưa bão năm 2019; đồng thời, đề nghị sớm triển khai thực hiện đầu tư dự án Hệ thống ra-đa quan trắc khí tượng thủy văn vùng thượng nguồn lưu vực sông Cả?

Trả lời:

Về việc ban hành quy trình vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Cả: Thực hiện nghị định số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ vệ nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Dự án ngân sách Nhà nước năm 2019  và chương trình công tác năm 2019, hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đang kiểm tra rà soát, điều chỉnh bổ sung quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Cả; đã hoàn thành dự thảo một lần và họp Tổ soạn thảo vào ngày 10/7/2019. Trên cơ sở ý kiến của tổ soạn thảo, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã bổ sung, chỉnh sửa dự thảo và lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, chủ hồ và các cơ quan, đơn vị có liên quan để tiếp tục hoàn chỉnh và trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 10 năm 2019.

Về việc sớm triển khai thực hiện đầu tư dự án hệ thống ra-đa quan trắc khí tượng thủy văn vùng thượng nguồn lưu vực sông Cả: Theo Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 12/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt hoạch mạng lưới quán trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030, tỉnh Nghệ An đã đầu tư Trạm ra-đa thời tiết Vinh [được đầu tư nguồn vốn ODA của Nhật Bản] thực hiện nhiệm vụ quan trắc, phục vụ dự báo khí tượng thủy văn cho các tỉnh Bắc Trung Bộ. Ra đa thời tiết Vinh cơ bản đáp ứng yêu cầu cung cấp số liệu phục vụ dự báo thời tiết cho hầu hết các khu vục tỉnh Bắc Trung Bộ, trong đó có Nghệ An.

Khu vực Bắc Trung Bộ là khu vực có điều kiện địa hình phức tạp [nhiều núi cao] nên mức độ phủ sóng của ra đa thời tiết Vinh ở một số vùng còn chưa đầy đủ do bị địa hình che chắn, đặc biệt là các huyện miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An cách xa trạm khoảng 180km như huyện Kỳ Sơn. Khu vực các huyện miền núi phía Tây Nghệ An là khu vực thường xuyên xảy ra các hiện thượng thời tiết cực đoan như: mưa lớn, lũ, tố, lốc…; mặt khác, hệ thống sông Cả bắt nguồn từ phía Lào lên nguồn số liệu đầu nguồn phục vụ dự báo mưa lũ rất han chế. Do vậy, việc đầu tư lắp đặt 01 ra đa cố định theo đõi thời tiết để phục vụ hiệu quả công tác dự báo mưa, lũ vùng thượng nguồn sông Cả là cần thiết.

Tuy nhiên, khu vực Bắc Trung Bộ có điều kiện kiện hình phúc tạp, việc điều tra, khảo sát lựa chọn ví trí lắp đặt trạm cần phải có thời gian để lựa chọn được vị trí phù hợp nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của trạm ra đa thời tiết tạo khu vực này. Trước mắt để khắc phục các khu vực có điều kiện phức tạp, những nơi góc quét của mạng lưới ra đa thời tiết cố định bị che khuyết mà hay bị xảy ra các hiện tượng thời tiết cực đoan như mưa lớn, lũ…, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt và giao cho Đài Khí tượng cao không, Tổng cực Khí tượng thủy văn và thực hiện dự án “Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học trái đất của Trung tâm hỗ trợ dự báo khu vực Đông Nam Á” tại Quyết định 1120/QĐ-BTNMT ngày 06/5/2019. Mực tiêu của dự án nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, hiện đại hóa trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, ứng dụng phát triện công nghệ quan trắc, chất lượng dự báo mưa lớn và bão thông qua việc đồng hóa các mẫu số liệu ra đa đi động và ảnh mây vệ tinh quỹ đạo cực, đề xuất các nhiệm vụ  nghiên cứu trọng điểm đối với nhóm bài toán đồng hóa số liệu, Bão và Gió mùa để triển khai thực hiện trong gian đoạn từ nay đến năm 2030.

Trong dự án này có đầu tư mới 02 ra đa thời tiết Doppler đi động bằng sóng X [có bán kính quan trắc tối đa 100-120km; thiết kế nhỏ gọn, phù hợp để quan trắc các khu vực, lưu vực nhỏ hoặc các khu vực địa hình đồi, núi che khuất mà các ra đa khác trên mạng lưới không quan trắc được và thuận tiện cho việc lắp đặt tại các khu vực có điều kiện địa hình phúc tạp] và lắp đặt hệ thống thu, xử lý ảnh mây vệ tinh khí tượng quỹ đạo cực để bổ sung, tăng cường nguồn số liệu quan trắc viễn thám nhằm nâng cao năng lực dự báo bão, áp thấp nhiệt đới, gió mùa và dự báo cực ngắn các hiện tượng thời tiết nguy hiểm tại các khu vực có điều kiện địa hình phức tạp nói chung trong đó có khu vực miền núi phía Tây  Nghệ An nói riêng.


Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đoàn thể xã hội tăng cường tuyên truyền , nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của người dân trong bảo vệ mội trường

Câu hỏi:

Về việc kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đoàn thể xã hội tăng cường tuyên truyền , nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của người dân trong bảo vệ mội trường, đặc biệt là việc giảm tác hại của chất thải nhựa; chỉ đạo có hiệu quả công tác dự báo khí tượng, thủy văn, phòng chống thiên tai ?

Trả lời:

Vấn đề rác thải nhựa là vấn đề lớn trên phạm vi toàn cầu và ở Việt Nam, thu hút sự quan tâm của người dân, xã hội. Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo về vấn đề này. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành, địa phương đã và đang tích cực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như: rà soát, đề xuất sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm giảm thiểu, tăng cường tái chế, tái sử dụng, ngăn chặn tác hại của rác thải nhựa đối với môi trường; đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức nhằm thay đổi thói quen tiêu dùng đối sản phẩm nhựa một lần của các doanh nghiệp, người dân và cộng đồng, khuyến khích sử dụng các sản phẩm thay thế, thân thiện môi trường; phát động phong trào toàn dân tham gia chống rác thải nhựa, kêu gọi các doanh nghiệp cùng chung tay thành lập Liên minh chống rác thải nhựa, chứng nhận đại sứ phong trào chống rác thải nhựa .v.v. Nhiều doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, cá nhân đã tích cực hưởng ứng, xuất hiện nhiều mô hình điểm như: thay đổi các bao bì sản phẩm theo hướng thân thiện với môi trường; không sử dụng sản phẩm nhựa một lần trong các hội nghị, hội thảo; sử dụng làn, túi xách để đi chợ thay vì sử dụng túi ni lon 1 lần để bao gói.

Ghi nhận và tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh, phát huy hơn nữa hiệu quả công tác truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của người dân, giảm thiểu phát sinh rác thải khó phân hủy trong sinh hoạt, tăng cường sản xuất và sử dụng sản phẩm bao gói, túi xách thân thiện với môi trường thay thế vật liệu khó phân hủy, trong đó tập trung vào một số nội dung sau đây:

 - Đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức về những tác hại của việc sử dụng túi nilon khó phân hủy, dùng một lần, lợi ích của việc sử dụng các sản phẩm thay thế, túi nilon thân thiện với môi trường thông qua việc đa dạng hóa các kênh truyền thông.

- Tăng cường truyền thông để cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức, huy động sự tham gia của các tổ chức, cộng đồng cùng chung tay giải quyết bài toán về rác thải nói chung và chất thải nhựa nói chung; thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường; nâng cao nhận thức, thay đổi hành 11 vi của người dân trong việc giảm thiểu sử dụng túi ni lông, bao bì nhựa dùng 1 lần.

- Tổ chức tuyên truyền về các mô hình, biện pháp phân loại rác tại nguồn, đẩy mạnh thu gom và tăng dần tỷ lệ tái chế chất thải nilon tại các đô thị, khu vực nông thôn, nhằm giảm lượng chất thải túi nilon ra môi trường.

- Phối hợp với các Bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội và các địa phương lồng ghép các hoạt động nâng cao nhận thức của người dân, giảm thiểu rác thải nhựa, tăng cường sản xuất và sử dụng sản phẩm bao gói, túi xách thân thiện với môi trường thay thế vật liệu khó phân hủy tại các dịp tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn như: Ngày Môi trường thế giới, Ngày đại dương thế giới, Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn,…

Về dự báo khí tượng, thủy văn, phòng chống thiên tai: Trong những năm gần đây, độ chính xác, độ tin cậy trong các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai ngày càng được nâng cao hơn. Đặc biệt trong vấn đề dự báo, cảnh báo bão, mưa lớn, lũ lụt vốn là những loại hình thời tiết rất nguy hiểm, tác động và gây thiệt hại trên diện rộng về cơ bản đáp ứng được những yêu cầu của công tác phòng chống thiên tai, góp phần giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra.

 - Dự báo, cảnh báo bão: độ chính xác trong bản tin dự báo bão [vị trí và cường độ bão] của Việt Nam đã dần tiệm cận với trình độ dự báo bão của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

- Dự báo, cảnh báo mưa lớn: trước 2-3 ngày với độ tin cậy khoảng 75%. Đối với mưa lớn cục bộ hoặc mưa lớn trong cơn dông: mới chỉ cảnh báo trước từ 30 phút đến 2-3 giờ.

 - Dự báo, cảnh báo rét đậm, rét hại gây ra bởi không khí lạnh: trước 2-3 ngày với độ tin cậy 80-90%. - Dự báo, cảnh báo lũ trên các sông khu vực miền Trung, Tây Nguyên trước 1-2 ngày và ở khu vực Bắc Bộ trước 3-5 ngày với độ tin cậy 70-80%.

 - Dự báo, cảnh báo các đợt nắng nóng diện rộng: trước từ 2-3 ngày có độ tin cậy 70%, thời điểm kết thúc các đợt nắng nóng diện rộng có độ tin cậy từ 80-90%.

 Để nâng cao chất lượng công tác dự báo, cảnh báo thiên tai, Bộ đã có kế hoạch để xây dựng các hệ thống quan trắc hiện đại, hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường công nghệ dự báo, năng lực chuyên môn, đặc biệt là xây dựng và đưa vào dự báo nghiệp vụ dụng mô hình dự báo bão, mưa lớn của Việt Nam. Tăng cường đào tạo cán bộ dự báo, mở rộng hợp tác quốc tế, cải tiến thay đổi nội dung, hình thức truyền tin thiên tai với những giải pháp cụ thể như sau:

 - Tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế-kỹ thuật lĩnh vực khí tượng thủy văn nhằm tạo hành lang pháp lý để triển khai thực hiện đầy đủ các nội dung quy định của Luật Khí tượng thủy văn năm 2015, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về khí tượng thủy văn, phục vụ hiệu quả công tác phòng chống thiên tai và phát triển kinh tế - xã hội.

- Thực hiện dự báo, cảnh báo; cung cấp đầy đủ, kịp thời và có độ tin cậy cao các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai phục vụ công tác chỉ đạo ứng phó hiệu quả với các tình huống thiên tai.

- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chia sẻ các thông tin, dữ liệu quan trắc và vận hành hồ chứa thủy điện, thủy lợi trong công tác dự báo khí tượng thủy văn. Phối hợp với các đơn vị đã được phân công trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các quy định trong các Quy trình vận hành liên hồ chứa do Chính phủ ban hành trên các lưu vực sông.

- Tăng cường mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn tại khu vực thượng lưu và hạ lưu các hồ chứa nhằm cung cấp đẩy đủ các thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn phục vụ công tác cảnh báo, dự báo lũ. Đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác quan trắc, cảnh báo sớm thiên tai. Từ năm 2019-2025, dự kiến có khoảng 4000 trạm đo mưa tự động sẽ được lắp đặt dựa trên hoạt động xã hội hóa công tác quan trắc.

 - Các nguồn thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn sẽ được tập hợp thành cơ sở dữ liệu chung của ngành khí tượng thủy văn phục vụ công tác đồng hóa dữ liệu, chia sẻ, sử dụng theo thời gian thực trong công tác dự báo, cảnh báo thiên tai khí tượng thủy văn.

- Tiếp tục đầu tư xây dựng các hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, phát triển công nghệ dự báo số [digital forecasting] để tăng cường năng lực dự báo định lượng mưa từ hạn cực ngắn đến hạn dài; xây dựng, ứng dụng, tiếp cận các công nghệ và các mô hình toán thủy văn hiện đại thông qua quan hệ hợp tác quốc tế với các quốc gia có nền khoa học công nghệ khí tượng thủy văn phát triển; phát triển công nghệ dự báo số cảnh báo, dự báo lũ sớm và nguy cơ ngập lụt hạ du do tác động điều tiết của hồ chứa.

- Hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung: Quyết định số 46/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về dự báo, cảnh báo và truyền tin thiên tai; Quyết định số 44/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết về cấp độ rủi ro thiên tai, cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, trước năm 2020.

- Tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 18/6/2018 của Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai.


Hướng dẫn cụ thể các mục đích sử dụng nước tại Phụ lục I – mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước kèm theo Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ

Câu hỏi:

Đề nghị Bộ TN&MT hướng dẫn cụ thể các mục đích sử dụng nước tại Phụ lục I – mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước kèm theo Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ ?

Trả lời:

Ngày 17/7/2017, Chính phủ đã bạn hành Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước để cụ thể hóa quy định tại Điêìu 65 của Luật tài nguyên nước. Sau gần hai năm triển khai thi hành Nghị định trên, nếu tính đến ngày 09/7/2019, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước cho 465 công trình khai thác [chủ yếu thủy điện], với tổng số tiền là 8.401 tỷ đồng. Trong đó, số tiền nộp phạt trong năm 2018 khoảng 985 tỷ đồng, số tiền sẽ phải nộp phạt trong năm 2019 khoảng 1.084 công trình khai thác, với tổng số tiền khoảng 187 tỷ đồng, trong đó số tiền nộp phạt trong năm 2018 khoảng 23,7 tỷ đồng, số tiền phải nộp cho năm 2019 khoảng 26,1 tỷ đồng.

Về việc xác định khai thác, sử dụng nước phải nộp tiền, tại khoản 1 Điều 65 Luật Tài nguyên nước quy định rõ trường hợp khai thác, sử dụng nước phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước và giao Chính phủ quy định cụ thể. Để hướng dẫn quy định nêu trên, Nghị định số 82/2017/NĐ-CP đã quy định căn cứ tính tiền tại Điều 4, mức thu tiền tại Điều 5, công thức tính tiền tại Điều 6, sản lượng tính tiền cấp quyền tại Điều 7, giá tính tiền tại Điều 8 và hệ số điều chỉnh tại Điều 9. Trong đó, tại khoản 1 Điều 4 đã quy định cụ thể về các  mục đích sử dụng nước gồm: Khai thác nước dùng cho sản xuất phi nông nghiệp, bao gồm cả nước làm mát máy, thiết bị, tạo hơi; khai thác nước dưới đất dùng cho tưới cà phê, cao su, điều, chè, hồ tiêu và cây công nghiệp dài ngày khác; khai thác nước dưới đất dùng cho nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc.

Trên cơ sở các mục đích sử dụng nước phải nộp tiền được quy định tại khoản 1 Điêù 4 của Nghị định, Phụ lục I của Nghị định đã quy định mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước tương ứng với tùng mục đích khai thác, sử dụng nước. Đồng thời, tại khoản 4 Điều 7 của Nghị định đã quy định rõ: “Giấy phép được cấp sau ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì phải ghi rõ lưu lượng nước khai thác cho từng mục đích sử dụng để làm cơ sở xác định sản lượng tính quyền cấp quyền khai thác tài nguyên nước”. theo đó, khi cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho tổ chức, cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã quy định rõ mực đích khai thác, sử dụng nước công trình.

Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, tổ chức, cá nhân đã có đủ cơ sở để  xác định mục đích khai thác, sử dụng nước của công trình, thực hiện việc kê khai tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo quy định của Nghị định số 82/2017/NĐ-CP và cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có đủ cơ sở để thẩm định các mục đích khai thác, sử dụng nước do tổ chức, cá nhân kê khai.


Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm hành quy định hướng dân để tổ chức tư vấn thực hiện đúng với Nghị định số 18/2015/NĐ-CP [Cử tri tỉnh Tây Ninh]

Câu hỏi:

Khoản 2 và 3 Điều 13 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, báo cáo đánh giá tác động môi trường [ĐTM] và kế hoạch bảo vệ môi trường quy định tổ chức tư vấn thực hiện báo cáo ĐTM và cán bộ thực hiện ĐTM phải có chứng chỉ tư vấn ĐTM được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp đến; đến nay bộ chưa ban hành quy định hướng dẫn để tổ chức tư vấn thực hiện. Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm hành quy định hướng dân để tổ chức tư vấn thực hiện đúng với Nghị định số 18/2015/NĐ-CP [Cử tri tỉnh Tây Ninh] ?

Trả lời:

Ngày 05/10/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 136/2018/NĐ-Cp về sửa đổi một số điều của các Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường, theo đó tại Điều 4 Nghị định số 136/2018/NĐ-CP đã bãi bỏ Điều 9, Điều 13 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về điều kiện của tổ chức, cá nhân thực hiện tư vấn đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường để phù hợp với quy định các ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư. 


Giải pháp về nguồn nước ngọt sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất cho người dân tỉnh Bến Tre?

Câu hỏi:

Cử tri đề nghị Chính phủ quan tâm về chính sách nước ngọt cho Bến Tre, bởi lẽ với tình hình biến đổi khí hậu như hiện nay và theo kịch bản thì đến năm 2030 Bến Tre bị ngập mặn hoàn toàn là chuyện chắc chắn xảy ra, nếu không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì đến lúc đó sẽ không có nguồn nước ngọt sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất [Cử tri tỉnh Bến Tre]

Trả lời:


Để ứng phó với tình hình biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, giải quyết những vấn đề về sử dụng nguồn nước tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long [ĐBSCL], trong đó có tỉnh Bến Tre, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang thực hiện những giải pháp sau đây:

Đã chủ động phối hợp với Bộ ngành liên quan chuẩn bị các nội dung để đề nghị Trung Quốc xả nước trong chương trình Hội nghị Cấp cao Mê Công – Lan Thương tổ chức vào ngày 23/3/2016 tại Trung Quốc; chỉ đạo Ủy ban sông Mê Công Việt Nam thúc đẩy Ủy hội sông Mê Công quốc tế thống nhất các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm và đảm bảo dòng chảy về hạ du; có thư đề nghị Trung Quốc tăng cường xả nước từ các công trình thủy điện ở Vân Nam trong mùa khô năm 2016.

Chỉ đạo Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia theo dõi sát diễn biến thời tiết, tăng cường dự báo, nhận định về khí tượng thủy văn, nguồn nước. Giao Cục Quản lý tài nguyên nước và Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước Quốc gia sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật, nhân lực, thiết bị để thực hiện tìm kiếm nguồn nước ngọt; hỗ trợ các tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng và Cà Mau, mỗi địa phương 500 triệu đồng.

Xây dựng tiểu Dự án “Đầu tư nâng cấp và hoàn thiện hệ thống quan trắc, giám sát tài nguyên nước mặt tại ĐBSCL” thuộc Dự án Sinh kế bền vững cho vùng ĐBSCL với sự tài trợ của Ngân hàng thế giới. Đặc biệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành “Nghiên cứu đánh giá tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mê Công” do Tư vấn quốc tế DHI của Đan Mạch thực hiện, kết thúc vào tháng 12/2015 tạo cơ sở khoa học để trao đổi với các quốc gia ven sông về kế hoạch xây dựng các công trình thủy điện dòng chính hướng tới sử dụng hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên nước sông Mê Công.

Trong thời gian tới, Bộ sẽ đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ Ủy hội sông Mê Công quốc tế để giải quyết hài hòa các vấn đề về các công trình thủy điện trên dòng chính. Tiếp tục đưa vấn đề phát triển thủy điện dòng chính vào các thỏa thuận cấp cao với Lào và Campuchia; huy động nguồn lực của quốc gia để tập trung đàm phán, thuyết phục, đấu tranh để các quốc gia có các hồ chứa thủy điện lớn, kể cả ở dòng chính và dòng nhánh, cùng hợp tác trong việc vận hành phát điện, xả nước xuống hạ du, bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông ở mức phù hợp, ít nhất cũng bằng mức trung bình như chúng ta đã và đang làm như vậy khi vận hành các hồ trên lưu vực sông Sê San, Srêpôk để bảo đảm nguồn nước cho Campuchia. Đẩy mạnh công tác theo dõi, giám sát các tác động của thủy điện dòng chính thông qua mạng giám sát của Ủy hội sông quốc tế; chủ động đối thoại với các nước bạn về kế hoạch và tình hình triển khai các công trình thủy điện dòng chính theo các kênh hợp tác đa phương và song phương; chủ động xây dựng Kế hoạch hành động thích ứng với các tác động; tăng cường hoạt động xây dựng các công cụ hỗ trợ ra quyết định như: tăng cường mạng theo dõi giám sát tác động trong nước; xây dựng cơ sở dữ liệu lưu vực; xây dựng các công cụ theo dõi, giám sát và đánh giá tác động …

Thành lập Ủy ban lưu vực sông Cửu Long để tăng cường công tác điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra trên đồng bằng nhằm giải quyết hài hòa, có hiệu quả, bền vững các vấn đề tài nguyên nước giữa các bên liên quan, giữa thượng lưu, hạ lưu và giữa khai thác với bảo vệ. Tập trung xây dựng quy hoạch tài nguyên nước ĐBSCL, gắn với kịch bản BĐKH và các khuyến nghị của chuyên gia Hà Lan trong Kế hoạch châu thổ ĐBSCL. Rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, các quy hoạch ngành, lĩnh vực, trên cơ sở khả năng thực tế của nguồn nước và những dự báo về biến động nguồn nước, xâm nhập mặn do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng theo các Kịch bản đã được công bố, nhất là những khuyến nghị của Hà Lan trong Kế hoạch Đồng bằng sông Cửu Long.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

Giải pháp hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường?

Câu hỏi:

Cử tri đề nghị Chính phủ có những giải pháp chỉ đạo quyết liệt để hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường như hiện nay ?

Trả lời:

Để sớm khắc phục những hạn chế, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm, tạo bước chuyển biến căn bản trong công tác bảo vệ môi trường, đảm bảo tăng trưởng kinh tế phải song hành với bảo vệ môi trường, hướng đến tăng trưởng xanh và phát triển bền vững; thực hiện thành công Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường; công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cần tập trung vào 08 nhóm giải pháp cơ bản sau:

-  Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như việc tổ chức triển khai pháp luật trên thực tế, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường năm 2014. Triển khai xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật bảo vệ môi trường, trong đó sửa đổi ngay các bất cập về đánh giá tác động môi trường, cấp phép môi trường, quản lý chất thải, thực hiện cải cách đơn giản hóa thủ tục hành chính; thể chế hóa các chính sách áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong bảo vệ mô trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản, khôi phục cảnh quan, xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, xử lý các bãi thải trong khai thác khoáng sản. Rà soát, đề xuất điều chỉnh các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho phù hợp với điều kiện trong nước và yêu cầu hội nhập quốc tế, kết hợp với thải lượng chất ô nhiễm và sức chịu tải của môi trường tiếp nhận. Xây dựng hệ thống tiêu chí về môi trường làm cơ sở lựa chọn, sàng lọc loại hình sản xuất và công nghệ sản xuất phục vụ cho việc thu hút đầu tư, xem xét, phê duyệt các dự án đầu tư.

-  Coi trọng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác quản lý về môi trường; tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả trong quá trình thực thi nhiệm vụ công vụ, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý trong tình hình mới; đề xuất phương án cho cả hệ thống từ Trung ương đến địa phương; phân định rõ trách nhiệm giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý môi trường, đặc biệt trong bảo vệ môi trường môi trường làng nghề, nông thôn, xử lý các làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng.

-  Nghiên cứu, xây dựng quy hoạch môi trường, trong đó điều chỉnh các quy hoạch về chất thải rắn, chất thải nguy hại làm căn cứ điều chỉnh các quy hoạch ngành, thẩm định, đánh giá và cho phép triển khai các dự án nhạy cảm về môi trường.

-  Tổ chức điều tra, đánh giá, lập danh sách các lĩnh vực công nghiệp, các loại hình, địa bàn nhạy cảm có khả năng xảy ra sự cố môi trường để có kế hoạch kiểm tra, giám sát, chủ động phòng ngừa, giảm thiểu sự cố môi trường. Trên cơ sở đó xác định các đối tượng chính có tiềm ẩn gây ra nguy cơ ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường yêu cầu các dự án này thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ứng phó với sự cố môi trường [quan trắc, lấy mẫu tự động; xây dựng hồ điều hòa, áp dụng chỉ thị sinh học; …].

-  Tăng cường hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành; đặc biệt là công tác kiểm tra, giám sát các dự án lớn, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố, ô nhiễm môi trường. Thông qua đó xử lý nghiêm, có tính răn đe đối với các hành vi vi phạm, đồng thời kịp thời tháo gỡ vướng mắc về chính sách, pháp luật, giúp các địa phương làm tốt công tác quản lý nhà nước trên địa bàn. Xử lý dứt điểm các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài. Trong năm 2017, đặc biệt tập trung thanh tra, kiểm tra các cơ sở có lưu lượng nước thải từ 200 m3/ngày.đêm trở lên trên phạm vi cả nước, các đối tượng do Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, các đối tượng có loại hình sản xuất, công nghệ sản xuất lạc hậu, nguồn thải lớn, xả thải ra những khu vực nhạy cảm về môi trường như ven biển, lưu vực sông; xử lý nghiêm các cơ sở có hành vi vi phạm.

-  Nghiên cứu, xây dựng cơ chế đột phá trong huy động nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường, đặc biệt là cơ chế huy đồng nguồn lực trên nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, “Người hưởng lợi từ môi trường phải trả chi phí” để đầu tư lại cho bảo vệ môi trường.

-  Tăng cường phối hợp giữa Trung ương và địa phương; đẩy mạnh thực hiện giao chỉ tiêu môi trường, tăng cường chế độ thông tin, báo cáo và đánh giá kết quả triển khai theo quy định của Luật bảo vệ môi trường năm 2014 để kết nối hệ thống trong việc thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường giữa Trung ương, cơ quan môi trường cấp vùng với địa phương. Xây dựng cơ chế đối thoại, phối hợp giữa cơ quan môi trường Trung ương và địa phương trong lĩnh vực môi trường, trong đó chú trọng giải quyết tốt các thủ tục hành chính về môi trường; kịp thời lắng nghe, ghi nhận và giải quyết thỏa đáng các khó khăn, vướng mắc, góp ý của địa phương và có biện pháp tháo gỡ về cả chuyên môn và tài chính trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

Tăng cường kiểm tra, giám sát các nhà máy có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường để bảo vệ sức khỏe cho người dân

Câu hỏi:

Cử tri rất quan tâm đến các nhà máy có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường hoặc có những tồn tại trong chấp hành luật về bảo vệ môi trường, trong đó chủ yếu là nhà máy nhiệt điện, phân bón, khai thác nhôm, sản xuất thép, dệt may. Đề nghị tăng cường kiểm tra, giám sát để bảo vệ sức khỏe cho người dân [Cử tri thành phố Hồ Chí Minh] ?

Trả lời:

Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn tăng cường thanh tra, kiểm tra các cơ sở có nguồn thải lớn và xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường; đang tiến hành rà soát, lập danh sách đối với các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng để đưa vào giám sát đặc biệt trong năm 2017 nhằm tăng cường hơn nữa việc kiểm soát hoạt động xả thải của doanh nghiệp [quy định phải có hệ thống quan trắc tự động, lắp camera theo dõi, có hồ sinh học, điểm xả thải phải dễ kiểm soát, …] và tiếp tục thực hiện một số giải pháp để tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra đáp ứng yêu cầu gồm: [i] Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, thanh tra, kiểm tra, đảm bảo cho hoạt động này chủ động, linh hoạt, đúng pháp luật, không chồng chéo, không làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp; [ii] Tăng cường nhân lực, năng lực, cơ sở vật chất và phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm về môi trường theo quy định của Nghị định số 165/2013/NĐ-CP của Chính phủ; [iii] Kiện toàn tổ chức và xây dựng hệ thống thanh tra chuyên ngành môi trường từ Trung ương đến địa phương, trước mắt kiến nghị Chính phủ cho phép sửa đổi, bổ sung Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012, trong đó bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành môi trường cho Chi cục bảo vệ môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh, thành phố.

Bên cạnh đó, Bộ sẽ tăng cường công tác giám sát các nguồn thải, đặc biệt là các nguồn thải lớn [có lưu lượng xả thải từ 1.000 m3/ngày và các KCN tập trung; các cơ sở có lưu lượng xả khí thải lớn thuộc các ngành có nguy cơ gây ô nhiễm như: sản xuất sắt thép, phân bón, xi măng, nhiệt điện …], đồng thời yêu cầu các cơ sở này phải có hệ thống quan trắc tự động, liên tục nước thải, khí thải tại điểm xả thải và kết nối với Sở Tài nguyên và Môi trường theo đúng quy định tại Thông tư số 31/2016/TT-BTNMT ngày 14/10/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc bảo vệ môi trường cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung, làng nghề và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; trường hợp không thực hiện sẽ xử lý nghiêm theo quy định tại Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

V/v Lập các Đoàn kiểm tra việc ô nhiễm môi trường tại các khu, cụm công nghiệp?

Câu hỏi:

Cử tri kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường lập các Đoàn kiểm tra việc ô nhiễm môi trường tại các khu, cụm công nghiệp [Cử tri tỉnh Long An] ?

Trả lời:

Trong thời gian từ năm 2011-2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chú trọng và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về BVMT trên phạm vi cả nước; đã tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với hơn 400 KCN, CCN. Qua thanh tra, kiểm tra đã chấn chỉnh, yêu cầu các cơ sở thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, đồng thời hướng dẫn các cơ sở được thanh tra thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ môi trường. Do vậy, công tác bảo vệ môi trường tại các KCN, CCN đã có những chuyển biến tích cực, hiện tại, đã có khoảng 75% các KCN đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung, còn lại khoảng 25% các KCN đang tiến hành đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Trong số các KCN này, chủ yếu là các KCN ở những địa bàn khó khan, thu hút đầu tư chậm, tỷ lệ lấp đầy thấp, chưa huy động được nguồn vốn đầu tư [chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước], lượng nước thải phát sinh ít, do vậy các địa phương đang yêu cầu các dự án đầu tư vào KCN phải tự xử lý nước thải phát sinh.

Ngày 25/11/2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban Quyết định số 2704/QĐ-BTNMT phê duyệt kế hoạch thanh tra năm 2017 trong đó sẽ thanh tra các KCN, CCN trên địa bàn cả nước và triển khai trong quý II năm 2017, tăng cường phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật. Qua thanh tra, kiểm tra, nếu phát hiện các KCN, CCN có vi phạm về bảo vệ môi trường, sẽ xử lý nghiêm theo quy định tại Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

Các giải pháp ngăn chặn, khắc phục và xử lý kịp thời có hiệu quả các hành vi gây ô nhiễm môi trường?

Câu hỏi:

Cử tri cả nước tiếp tục phản ánh tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của con người gây ra ngày càng nhiều và phức tạp. Đề nghị Nhà nước, tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp ngăn chặn, khắc phục và xử lý kịp thời có hiệu quả các hành vi gây ô nhiễm môi trường [Cử tri tỉnh Vĩnh Long] ?

Trả lời:

Trong thời gian gần đây, các vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường diễn biến phức tạp, tinh vi, đặc biệt là các vi phạm về xả thải vượt quy chuẩn. Các doanh nghiệp tìm cách trốn tránh nghĩa vụ đầu tư hệ thống xử lý chất thải, chi phí vận hành xử lý nên che đậy bằng các phương thức tinh vi [xả lén, xả về đêm hoặc trời mưa, …] rất khó kiểm soát; trong khi hoạt động kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước bị ràng buộc thực hiện trong giờ hành chính, phải thông báo trước cho cơ sở được kiểm tra, trình tự thủ tục phải tuân theo Luật thanh tra, nên các cơ sở có biện pháp đối phó gây khó khăn trong việc bắt quả tang các hành vi nêu trên. Do đó, việc phát hiện hành vi gây ô nhiễm môi trường cần có sự phối hợp tham gia của cộng đồng, cơ quan truyền thông. Khi phát hiện vi phạm, cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã khẩn trương, tích cực, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm cũng như trách nhiệm của các bên liên quan.

Hiện nay, số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, dự án sản xuất trên phạm vi cả nước rất lớn, Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ có thể thanh, kiểm tra luân phiên 02 năm/lần/dự án. Để kiểm soát, hạn chế tình trạng gây ô nhiễm môi trường, Luật bảo vệ môi trường đã quy định các nguồn thải lớn [từ 1.000 m3/ngày và các KCN tập trung] phải có hệ thống quan trắc tự động, liên tục tại điểm xả thải và kết nối với Sở Tài nguyên và Môi trường. Khi xảy ra sự cố ô nhiễm nghiêm trọng, các cơ quan chức năng và Bộ Tài nguyên và Môi trường phải vào cuộc để xem xét trách nhiệm và xử lý nghiêm các vi phạm. Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở địa phương đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường, đặc biệt là các cơ sở có nguồn thải lớn và xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường, đặc biệt là các cơ sở có nguồn thải lớn và xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường; tăng cường kiểm soát hoạt động xả thải của doanh nghiệp [quy định phải có hệ thống quan trắc tự động, lắp camera theo dõi, có hồ sinh học, điểm xả thải phải dễ kiểm soát, …]. Về lâu dài, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ kiến nghị Quốc hội, Chính phủ cần nghiên cứu sửa đổi quy định pháp luật đề hoạt động thanh tra môi trường được chủ động, linh hoạt; ngoài ra, bổ sung giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho Chi cục Bảo vệ môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường để tăng cường trách nhiệm, thẩm quyền choc ơ quan quản lý môi trường ở địa phương.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

Giải pháp giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn, ô nhiễm nguồn nước, không khí trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề?

Câu hỏi:

Cử tri tiếp tục phản ánh tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn, ô nhiễm nguồn nước, không khí trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề đang rất nghiêm trọng, làm ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, sinh hoạt của người dân. Cử tri đề nghị có giải pháp quyết liệt để giải quyết tình trạng trên; đặc biệt là bảo vệ nguồn nước ngầm và cung cấp nước sạch sinh hoạt cho người dân [Cử tri tỉnh Thái Bình] ?

Trả lời:

1.  Đối với ô nhiễm môi trường nông thôn, làng nghề:

Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm bởi chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, các loại vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật, nước thải, chất thải trong nông nghiệp và chăn nuôi, các nghĩa trang, nhà tiêu không hợp vệ sinh, chất thải y tế khu vực nông thôn, hoạt động của các làng nghề, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, nguồn nước không hợp vệ sinh. Để từng bước khắc phục vấn đề ô nhiễm moi trường nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố sẽ thực hiện một số biện pháp cụ thể như sau:

-  Hoàn thành chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường nông thôn, trong đó tập trung vào việc quy định tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới trên cơ sở lượng hóa các nội dung đánh giá và công nhận đạt chuẩn; xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật để các địa phương áp dụng;

-  Trong triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020, bên cạnh việc tập trung tái cấu trúc nông nghiệp, tăng năng suất, phải chú trọng công tác bảo vệ môi trường nông thôn;

-  Quy hoạch khu vực sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khu vực nông thôn; chú ý đầu tư thu gom, xử lý nước thải; ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến cấp nước sạch, xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh. Đầu tư nghiên cứu, xây dựng và phát triển các mô hình quản lý, xử lý chất thải phù hợp với điều kiện khu vực nông thôn, trong đó cần bố trí diệc tích phù hợp để chon lấp chất thải rắn hợp vệ sinh hoặc tái chế chất thải tại các cụm dân cư; tránh tình trạng chất thải sinh hoạt nông thôn được xử lý thiếu quy hoạch. Kiểm soát việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thu gom xử lý chất thải y tế. Sớm nghiên cứu giải quyết vấn đề chất thải nông nghiệp như rơm, rạ sau thu hoạch;

-  Triển khai phân loại rác tại nguồn, đặc biệt là tại các hộ gia đình để giảm tổng lượng chất thải cần xử lý; tận dụng chất thải hữu cơ để tái chế thành phân bón sử dụng trong trồng trọt;

-  Huy động nguồn tài chính, tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và các nguồn khác cho hoạt động bảo vệ môi trường khu vực nông thôn; lồng ghép trong quá trình thực hiện tiêu chí môi trường trong công nhận nông thôn mới. Bên cạnh đầu tư từ ngân sách nhà nước, cần đẩy mạnh xã hội hóa để huy động nguồn tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường nông thôn nói chung và cho việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020 [trong đó có vấn đề về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường làng nghề …] nói riêng;

-  Tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, xử lý dứt điểm những điểm nóng về môi trường, công khai thông tin vi phạm theo quy định của pháp luật để tạo áp lực buộc các doanh nghiệp thực hiện nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường;

-  Quy hoạch các khu làng nghề tập trung. Rà soát, đánh giá các công nghệ, giải pháp phù hợp với điều kiện sản xuất tại làng nghề hoặc các mô hình đã vận hành bảo đảm có hiệu quả trước khi phổ biến, nhân rộng; ưu tiên các biện pháp giảm thiểu chất thải tại nguồn phát sinh, tăng cường tận thu, tái chế, tái sử dụng chất thải tại làng nghề như cụm công nghiệp tập trung;

2.     Đối với ô nhiễm môi trường tại các KCN, CCN:

Trong thời gian vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tăng cường thực hiện thanh tra, kiểm tra nhiều cơ sở sản xuất trên địa bàn cả nước, trong đó có các KCN, đồng thời phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức kiểm tra, đôn đốc các KCN nhanh chóng hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật về môi trường của KCN. Tỷ lệ các KCN đã hoạt động và có hệ thống xử lý nước thải tập trung [XLNTTT] đã tăng lên đáng kể. Mặc dù đã có những cải thiện nhưng thực tế vẫn tồn tại một số KCN có cơ sở thứ cấp đi vào hoạt động, chưa hoàn thành hệ thống XLNTTT. Thực tế này có một số nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do lịch sử để lại, song chủ yếu vẫn là do ý thức tuân thủ, năng lực của đơn vị đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn tới hoạt động đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN chưa đáp ứng quy định. Bên cạnh đó, vẫn còn có tình trạng Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố thực hiện thủ tục cấp phép đầu tư cho các dự án đẩu tư vào KCN mặc dù KCN chưa hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường.

Từ thực tế này, để giải quyết tồn tại đối với những KCN đang hoạt động nhưng chưa có hệ thống XLNTTT theo quy định, Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, ngành tăng cường kiểm tra, giám sát đồng thời đôn đốc các KCN này hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường theo đúng quy định. Vì vậy, vấn đề xử lý nước thải của KCN cần có thời gian và lộ trình để giải quyết triệt để. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 05 tháng 9 năm 2012 đã đặt ra mục tiêu tỷ lệ khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu đến năm 2015 là 75% và đến năm 2020 đạt 95%.

Để khắc phục những bất cập, tồn tại nêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành địa phương thực hiện tốt các giải pháp sau đây:

-  Theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 thì cả nước sẽ có 142 khu công nghiệp được ưu tiên thành lập mới và mở rộng. Trong quá trình hoạt động, các khu công nghiệp mới vẫn tiếp tục được Chính phủ đồng ý bổ sung vào quy hoạch và thành lập mới. Do đó cần phải thực hiện việc rà soát, đánh giá tổng thể về tác động môi trường việc phát triển các khu công nghiệp hiện nay.

-  Trong số hơn 500 khu công nghiệp đã được đưa vào quy hoạch tới năm 2020 mới chỉ có 283 khu công nghiệp hoạt động. Như vậy, theo định hướng phát triển còn khoảng hơn 200 khu công nghiệp nữa sẽ được thành lập và đi vào hoạt động. Điều này sẽ tạo ra áp lực môi trường rất lớn. Do đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan kiên quyết yêu cầu các khu công nghiệp này thực hiện đúng quy định pháp luật, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường trước khi đi vào hoạt động. Đối với các khi công nghiệp hiện nay đã đi vào hoạt động nhưng chưa hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường, kiến nghị Chính phủ chỉ đạo không cho phép thu hút các dự án đầu tư vào khu công nghiệp hoặc thực hiện thủ tục mở rộng khu công nghiệp.

-  Tập trung thanh tra, kiểm tra các khu công nghiệp còn lại chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung để giám sát chất lượng nước thải ra môi trường theo các quy định pháp luật hiện hành; tăng cường kiểm tra, giám sát việc vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung đối với khu công nghiệp đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung.

-  Xây dựng quy định hướng dẫn việc kết nối hệ thống quan trắc nước thải tự động từ các khu công nghiệp tới các Sở Tài nguyên và Môi trường đồng thời đôn đốc chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp đầu tư hệ thống quan trắc nước thải tự động theo quy định của pháp luật.

-  Phối hợp với các địa phương đôn đốc, tăng cường chỉ đạo các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp đẩy nhanh tiến độ xây dựng và đưa vào vận hành kịp thời hệ thống xử lý nước thải tập trung của các khu kinh tế, khu công nghiệp; giám sát chặt chẽ việc thu hút đầu tư các ngành nghề phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt để giảm thiểu rủi ro trong quá trình thiết kế, thi công và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung khu công nghiệp, cụm công nghiệp.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

Rà soát quy định cụ thể về lắp đặt hệ thống xả thải nhằm xử lý có hiệu quả vấn đề xả thải ra môi trường

Câu hỏi:

Theo quy định của Luật bảo vệ môi trường tại Điều 101 [Hệ thống xử lý nước thải], Khoản 2 Điểm d [Hệ thống xử lý nước thải phải đảm bảo các yêu cầu sau: … Cửa xả nước thải vào hệ thống tiêu thoát phải đặt ở vị trí thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát]. Tuy nhiên, hiện Nghị định, Thông tư hướng dẫn, các quy chuẩn của Bộ Tài nguyên và Môi trường có liên quan thì chưa có điều khoản nào quy định cụ thể cho phép hay không cho phép việc các doanh nghiệp lắp đặt hệ thống xả thải ngầm hoặc không ngầm, nên các doanh nghiệp lợi dụng vấn đề này để lắp đặt hệ thống xả thải ngầm ra môi trường, gây ô nhiễm môi trường, tác hại đến sức khỏe nhân dân và khó khăn cho công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng. Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, rà soát lại quy định trên để tham mưu cho Chính phủ ban hành hướng dẫn cụ thể nhằm xử lý có hiệu quả vấn đề xả thải ra môi trường [Cử tri tỉnh Quảng Ngãi] ?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 37 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu thì các KCN, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải đầu tư xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trước khi thải ra môi trường, không phân biệt hệ thống xử lý nước thải và nổi hay ngầm. Đồng thời, hoạt động xả nước thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và khu công nghiệp dù thải nổi hay ngầm đều được quan trắc định kỳ theo báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt, kế hoạch bảo vệ môi trường đã được xác nhận hoặc các hồ sơ, giấy tờ tương đương theo quy định của pháp luật. Các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nằm ngoài khu công nghiệp có quy mô xả nước thải từ 1.000 m3/ngày đêm trở lên phải lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải tự động liên tục, truyền số liệu trực tiếp cho Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương. Như vậy, việc thu gom, xử lý nước thải tại các cơ quan quản lý nhà nước về môi giám sát thường xuyên thông qua theo dõi quan trắc tự động của doanh nghiệp cũng như hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm về xả thải.

Trong trường hợp cần thiết, căn cứ Điểm d, Khoản 2, Điều 101 Luật bảo vệ môi trường năm 2014, trong quá trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án [hoặc kiểm tra các đề án bảo vệ môi trường hoặc trong quá trình kiểm tra, thanh tra], cơ quan quản lý môi trường có quyền xem xét, yêu cầu chủ dự án [hoặc chủ cơ sở] xây dựng, lắp đặt hệ thống xả thải nổi [hoặc nửa nổi] đảm bảo vừa phù hợp thực tế vừa thuận tiện cho việc kiểm tra, giám sát.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

V/v đề nghị xem xét điều chỉnh chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, môi trường và khoáng sản theo hướng xử lý nghiêm khắc hơn để răn đe và phòng ngừa vi phạm

Câu hỏi:

Cử tri đề nghị xem xét điều chỉnh chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, môi trường và khoáng sản theo hướng xử lý nghiêm khắc hơn để răn đe và phòng ngừa vi phạm [Cử tri Quảng Ninh] ?

Trả lời:

Về nội dung xem xét điều chỉnh chế tài xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường xin tiếp thu, nghiên cứu để tham mưu Chính phủ xây dựng, ban hành Nghị định thay thế Nghị định 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trong thời gian tới.

Về nội dung điều chỉnh chế tài xử lý vi phạm hành chính về lĩnh vực môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Việc ban hành Nghị định 155/2016/NĐ-CP sẽ tác động mạnh mẽ đến ý thực và nhận thức của cá nhân, tổ chức phải đầu tư kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường là cao nhất trong các lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam [Mức phạt tiền cảnh cáo đến 01 tỷ đồng đối với cá nhân và 02 tỷ đồng đối với tổ chức]. Trước đây, Nghị định số 179/2013/NĐ-CP đã có tính răn đe cao, tuy nhiên nhiên Nghị định 155/2016/NĐ-CP hiện nay còn có tính răn đe cao hơn đối với các hành vi cố y gây ô nhiễm môi trường [như trước đây hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn cho phép trên 10 lần với lưu lượng nước thải trên 10.000 m3/ngày đêm thì mức phạt tiền là tối đa, hiện nay chỉ cần xả nước thải vượt trên 10 lần với lưu lượng lớn hơn 5.000 m3/ngày đêm  nhưng dưới mức tội phạm môi trường theo quy định của Bộ luật Hình sự thì đã bị xử phạt ở mức tối đa]. Bên cạnh hình thức phạt tiền Nghị định số 155/2016/NĐ-CP còn quy định các hình thức xử phạt bổ sung [đình chỉ hoạt động, tước quyền sử dụng giấy phép môi trường, tịch thi tang vật vi phạm], biện pháp khắc phục hậu quả [buộc khắc phục lại tình trạng ô nhiễm môi trường đã bị ô nhiễm và phục hồi môi trường bị ô nhiễm] và công khai thông tin đối với hành vi vi phạm nghiêm trọng, gây ô nhiễm môi trường hoặc tác động xấu đến xã hội,…

Ngoài công cụ xử phạt vi phạm hành chính theo quy định Nghị định số 155/2016/NĐ-CP nêu trên, ngày 27/11/2015 Quốc hội đã thông qua Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13, trong đó đã định lượng các hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường để xử lý trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức vi phạm. Hiện tại Bộ Luật hình sự đang được Ủy ban Tư pháp Quốc hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan để sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn. Đây là một công cụ hữu hiệu để răn đe cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh trách nhiệm để thực hiện các hành vi cố ý gây ô nhiễm môi trường.

Về nội dung điều chỉnh chế tài xử lý vi phạm hành chính về lĩnh vực khoáng sản, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 30/3/2015 về việc tăng cường hiệu lực thi hành chính sách, phát luật về khoáng sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 [thay thế Nghị định số 142/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013] quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản. Trong đó, đã đề xuất tăng mức xử phạt, bổ sung các hành vi cần xử phạt vi phạm hành chính nhằm tăng cường trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản.

Đối với hành vi tàng trữ, mua bán, vận chuyển, tiêu thụ khoáng sản không có nguồn gốc hợp pháp đã được quy định hình thức và mức xử phạt bằng tiền tại Điều 21 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng [đã được điều chỉnh, bổ sung tại Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015].

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

V/v đề nghị các ngành chức năng tăng cường công tác kiểm tra và xử lý nghiêm minh, nhằm hạn chế thấp nhất việc xả thải ra môi trường

Câu hỏi:

Cử tri cho rằng, tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi ngày càng phức tạp là do chính con người gây ra: các cơ sở, doanh nghiệp, công ty sản xuất xả thải ra môi trường… Tuy nhiên, các cơ quan quản lý không phát hiện mà do các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải thì các cơ quan mới vào cuộc, bên cạnh việc xử lý chưa nghiêm nên việc xả thải vẫn tiếp diễn. Cử tri đề nghị các ngành chức năng tăng cường công tác kiểm tra và xử lý nghiêm minh, nhằm hạn chế thấp nhất việc xả thải ra môi trường; cung cần quy trách nhiệm cụ thể đối với người đứng đầu địa phương để xảy ra tình trạng ô nhiễm [Cử tri tỉnh An Giang] ?

Trả lời:

1. Về tăng cường công tác kiểm tra và xử lý nghiêm minh, nhằm hạn chế thấp nhất việc xả thải ra môi trường:

Trong thời gian gần đây, các vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường diễn biến phức tạp, tinh vi, đặc biệt là các vi phạm về xả thải vượt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường. Các doanh nghiệp tìm cách trốn tránh nghĩa vụ đầu tư hệ thống xử lý chất thải, chi phí vận hành xử lý nên che đậy bằng các phương thức tinh vi [xả lén, xả về đêm hoặc trời mưa,…] rất khó kiểm soát; trong khi hoạt động kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước bị ràng buộc thực hiện trong giờ hành chính, phải thông báo trước cho cơ sở được kiểm tra, trình tự thủ tục phải tuân theo Luật thanh tra, nên các cơ sở có biện pháp đối phó gây khó khăn trong việc bắt quả tang các hành vi nêu trên. Do đó, việc phát hiện hành vi gây ô nhiễm môi trường cần có sự phối hợp tham gia của cộng đồng, cơ quan truyền thông. Khi phát hiện vi phạm, cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã khẩn trương, tích cực, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm cũng như trách nhiệm của các bên liên quan.

Hiện nay, số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, dự án sản xuất trên phạm vi cả nước rất lớn, Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ có thể thanh, kiểm tra luân phiên 02 năm/lần/dự án. Để kiểm soát, hạn chế tình trạng gây ô nhiễm môi trường, Luật bảo vệ môi trường đã quy định các nguồn thải lớn] [từ 1.000m3/ngày và các KCN tập trung] phải có hệ thống quan trắc tự động, liên tục tại điểm xả thải và kết nối với Sở Tài nguyên và Môi trường. Khi xảy ra sự cố ô nhiễm nghiêm trọng, các cơ quan chức năng và Bộ Tài nguyên và môi trường phải vào cuộc để xem xét trách nhiệm và xử lý nghiêm các vi phạm. Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở địa phương đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường, đặc biệt là các cơ sở có nguồn thải lớn và xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường; tăng cường kiểm soát hoạt động xả thải của doanh nghiệp [quy định phải có hệ thống quan trắc tự động, lắp camera theo dõi, có hồ sinh học, điểm xả thải phải dễ kiểm soát,…] Về lâu dài, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ kiến nghị Quốc hội, Chính phủ cần nghiên cứu thay đổi quy đinh pháp luật về hoạt động thanh tra môi trường chủ động, linh hoạt hơn trong hoạt động; ngoài ra, bổ sung giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho Chi cục Bảo vệ môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường để tăng cường trách nhiệm, thẩm quyền cho cơ quan quản lý môi trường ở địa phương.

2.Về trách nhiệm cụ thể đối với người đứng đầu địa phương để xảy ra tình trạng ô nhiễm:

Đối với trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan quản lý, đã có các quy định cụ thể tại Luật bảo vệ môi trường năm 2014 [Khoản 16 Điều 7 - những hành vi bị nghiêm cấm: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái quy định về quản lý môi trường; Điều 143 – trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Ủy ban nhân dân các cấp] và bộ Luật hình sự [chương XXIII – các tội phạm về chức vụ]. Bên cạnh đó, để khắc phục những hạn chế, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm, ngày 31/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 25/CT-TTg về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường, trong đó yêu cầu chủ đầu tư, cơ quan quyết định, phê duyệt đầu tư, thẩm định công nghệ sản xuất, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường phải chịu trách nhiệm về vấn đề môi trường của dự án. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm toàn diện về các vấn đề môi trường xảy ra trên địa bàn.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo các cơ quan chức năng tại địa phương định kỳ phối hợp liên ngành kiểm tra nghiêm ngặt về việc xả thải, xử lý chất thải rắn

Câu hỏi:

Hiện nay công tác bảo vệ môi trường và quản lý chất thải rắn, kiểm soát yếu tố tác động đến môi trường tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, doanh nghiệp quy mô lớn là vấn đề cử tri hết sức quan tâm. Cử tri kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo các cơ quan chức năng tại địa phương định kỳ phối hợp liên ngành kiểm tra nghiêm ngặt về việc xả thải, xử lý chất thải rắn; báo cáo cụ thể từng đợt kiểm tra, công khai minh bạch để nhân dân giám sát, nêu cao trách nhiệm người đứng đầu, nếu để xẩy ra vi phạm phải bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật?

Trả lời:

Vấn đề mà cử tri nêu cũng đang là mối quan tâm, lo ngại với công tác quản lý bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức về vấn đề Bộ tài nguyên và Môi trường đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ đề án kiểm soát đặc biệt đối với các cơ sở có quy mô gây ô nhiễm môi trường cao; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường, trông đó đã bổ sung Phụ lục IIa về danh mục các loại hình sản xuất công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiểm môi trường để có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ đối tượng này. Bộ cũng đã thành lập Tổ giám sát đặc biệt đối với một số khu, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất quy mô lớn và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường [cụm công nghiệp Phú Lâm và làng nghề giấy Phong Khê, Bắc Ninh; khu Kinh tế Nghi Sơn, Thanh Hóa; khu công nghiệp Tằng Loong, Lào Cai; Công ty TNHH khai thác, chế biến khoáng sản Núi Pháo, Thái Nguyên; các dự án Bauxite Tây Nguyên…..].

Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ đề nghị các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, thống nhất trong thanh tra, kiểm tra cần chú trọng làm tốt công tác công khai, minh bạch để người dân cùng tham gia giám sát. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 25/CT-TTg  ngày 31/8/2016 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách bảo vệ môi trường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp phải chịu trách nhiệm toàn diện các vẫn đề môi trường trên địa bàn.


Rà soát các chính sách liên quan, tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các đơn vị vi phạm

Câu hỏi:

Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm về môi trường còn nhiều bất cập, hiệu quả thấp và chưa được quan tâm đúng mức. Cử tri và nhân dân tiếp tục kiến nghị các bộ ngành liên quan và chính quyền địa phương rà soát các chính sách liên quan, tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các đơn vị vi phạm, kiên quyết tạm đình chỉ hoặc cấm hoạt động đối với các trường hợp vi phạm nghiêm trọng, công khai danh sách các doanh nghiệp vi phạm pháp luật và bảo vệ môi trường?

Trả lời:

Bộ Tài nguyên và Môi trường ghi nhận ý kiến của cử tri liên quan đến công tác của thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về môi trường. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác này đối với công tác bảo vệ môi trường, trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, giảm số lượng các cơ sở thanh tra theo kế hoạch, tăng cường thanh tra đột xuất, tập trung vào các cơ sở có quy mô lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, xử phạt nghiêm các đối tượng vi phạm để răn đe và tạo dư luận buộc các cơ sở đang hoạt động sản xuất, kinh doanh phải quan tâm, đầu tư cho môi trường. Trong giai đoạn từ năm 2009 đến nay, Bộ đã thanh tra tổng cộng 6.768 cơ sở, khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn các tỉnh thành trên cả nước, qua đó đã phát hiện và xử lý gần 3.000 cơ sở, xử phạt vi phạm hành chính lên tới 446,258 tỷ đồng. Kết quả, các đoàn thanh tra đã phát hiện nhiều cơ sở xả hàng ngàn m3 nước thải ra môi trường không qua xử lý ra ngoài môi trường như: Công ty TNHH Phương Duy, Công ty TNHH Thủy sản Biển Đông, Công ty TNHH một thành viên Kaneshiro Việt Nam, Công ty TNHH thủy sản Đông Hải, Trung tâm xử lý nước thải  khu công nghiệp Phố Nối B… Ngoài ra trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xử lý nhiều điểm nóng về môi trường, tiêu biểu như: Công ty Cổ phần Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 tại Bình Thuận, vụ sạt lở bãi Guyps thải của công ty cổ phần D.A.P – Vinachem tại thành phố Hải Phòng, sự cố cá chết tại sông Bưởi Thanh Hóa, Công ty Cổ phần Tại tập đoàn Á Cường tại Bắc Giang, Công ty TNHH Khai thác về Chế biến khoáng sản Núi Pháo tại Thái Nguyên, Công ty TNHH Dệt Pacific Crystal ở Khu công nghiệp Lai Vũ, xã Lai Vũ, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, Công ty Cổ phần kim loại màu Nghệ Tĩnh tại thị trấn Quỳ Hợp, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An…

Bên cạnh đó, Bộ cũng đã triển khai nhiều công cụ, biện pháp nhằm tăng cường giám sát chặt chẽ việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của cơ sở như: tăng cường quan trắc, giám sát tự động, công khai thông tin; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng và nhân dân; thành lập và duy trì hiệu quả hoạt động của đường giây nóng tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị của tổ chức và cá nhân về ô nhiễm môi trường của trung ương và địa phương.

Tuy nhiên, công tác thanh tra,kiểm tra và bảo vệ môi trường vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập làm giảm hiệu lực hiệu quả. Lực lượng làm công tác thanh kiểm tra, kiểm tra từ Trung ương, địa phương còn mỏng, chưa đáp ứng được như cầu công tác của việc bảo vệ môi trường, trang thiết bị cho hoạt động  thanh tra, kiểm tra còn thiếu, lạc hậu. Trong khi đó, các quy định của pháp luật về hoạt động của thanh tra, kiểm tra hiện nay còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường. Ví dụ như, theo quy định của pháp luật về thanh tra, các đoàn thanh tra sau khi có quyết định thành lập phải thông báo trước cho đối tượng thanh tra biết. Quy định này không phù hợp với đặc thù trong lĩnh vực môi trường đòi hỏi phải đảm bảo tính đột xuất, không để các doanh nghiệp có thời gian đối phó [dùng hoạt động xả thải trộm, hay có hành vi pha loãng nước thải trong thời gian thanh tra]. Luật cũng quy định thời gian thanh tra chỉ thực hiện trong giờ hành chính là không phù hợp do các hành vi xả thải trộm chủ yếu được các doanh nghiệp thực hiện vào ban đêm để tranh bị phát hiện.

Trong thời gian tới Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ chỉ đạo trực tiếp đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra bảo vệ môi trường, tăng cường các hoạt động thanh tra đột xuất; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa và nâng cao nghiệp vụ cho các bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra; tiếp tục kiến nghị Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ nghiên cứu sửa đổi Luật  xử lý vi phạm hành chính, Luật Thanh tra phù hợp với đặc thù của hoạt động thanh tra, kiểm tra bảo vệ môi trường. Qua đó, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác này.


Đề nghị nhà nước có chính sách đầu tư để xử lý nước thải sinh hoạt trong các đô thị và khu dân cư nông thôn

Câu hỏi:

Về việc đề nghị nhà nước có chính sách đầu tư để xử lý nước thải sinh hoạt trong các đô thị và khu dân cư nông thôn, do tình trạng ô nhiễm ngày càng tăng ?

Trả lời:

Bộ Tài nguyên và Môi trường chia sẻ với lo ngại của cử tri trước tình trạng ô nhiễm môi trường do nước thải và khó khăn, bất cập trong công tác thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt tại các địa phương, nhất là khu vực đô thị, nông thôn [tỷ lệ nước thải sinh hoạt tại đô thị được xử lý mới ước đạt khoảng 12,5%]. Luật bảo vệ môi trường và các văn bản quy định chi tiết thi hành đã quy định một số chính sách cụ thể về xử lý nước thải sinh hoạt trong các đô thị và khu vực dân cư tập trung; khoản 1 Điều 100 Luật bảo vệ môi trường quy định đô thị, khu dân cư tập trung phải có hệ thống thu gom riêng nước mưa và nước thải; khoản 2 Điều 147 của Luật cũng quy định chi cho các dự án xây dựng, cải tạo công trình xử lý chất thải là một nội dung của chi đầu tư phát triển bảo vệ môi trường. Theo Phụ lục III Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật bảo vệ môi trường [đã được sửa đổi bởi Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường], việc xử lý nước sinh hoạt tập trung có công suất thiết kế từ 2.500 m3 /ngày [24 giờ] trở lên đối với khu vực đô thị từ loại IV trở lên thuộc danh mục hoạt động bảo vệ môi trường được ưu đãi, hỗ trợ [bao gồm các ưu đãi, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và đất đai; ưu đãi, hỗ trợ về vốn, thuế và các hình thức khác theo quy định tại Chương VII Nghị định số 19/2015/NĐ-CP].

Về trách nhiệm quản lý nhà nước, điểm d khoản 3 Điều 142 Luật bảo vệ môi trường quy định Bộ trưởng Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng về cấp nước, thoát nước, xử lý chất thải rắn và nước thải tại đô thị, khu sản xuất dịch vụ tập trung, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, làng nghề và khu dân cư tập trung. Trong thời gian tới, Bộ Xây dựng cần chủ trì, phối hợp với các địa phương tổ chức kiểm tra, đánh giá việc đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải sinh hoạt tại các đô thị, khu dân cư tập trung ở địa phương, làm căn cứ kiến nghị các chính sách đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Xây dựng trong triển khai nhiệm vụ nêu trên. 


Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của người dân trong bảo vệ môi trường, đặc biệt là việc giảm tác hại của chất thải nhựa; chỉ đạo có hiệu quả công tác dự báo khí tượng, thủy văn, phòng chống thiên tai

Câu hỏi:

Về việc kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đoàn thể xã hội tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của người dân trong bảo vệ môi trường, đặc biệt là việc giảm tác hại của chất thải nhựa; chỉ đạo có hiệu quả công tác dự báo khí tượng, thủy văn, phòng chống thiên tai ?

Trả lời:

Vấn đề rác thải nhựa là vấn đề lớn trên phạm vi toàn cầu và ở Việt Nam, thu hút sự quan tâm của người dân, xã hội. Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo về vấn đề này. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành, địa phương đã và đang tích cực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như: rà soát, đề xuất sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm giảm thiểu, tăng cường tái chế, tái sử dụng, ngăn chặn tác hại của rác thải nhựa đối với môi trường; đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức nhằm thay đổi thói quen tiêu dùng đối sản phẩm nhựa một lần của các doanh nghiệp, người dân và cộng đồng, khuyến khích sử dụng các sản phẩm thay thế, thân thiện môi trường; phát động phong trào toàn dân tham gia chống rác thải nhựa, kêu gọi các doanh nghiệp cùng chung tay thành lập Liên minh chống rác thải nhựa, chứng nhận đại sứ phong trào chống rác thải nhựa .v.v. Nhiều doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, cá nhân đã tích cực hưởng ứng, xuất hiện nhiều mô hình điểm như: thay đổi các bao bì sản phẩm theo hướng thân thiện với môi trường; không sử dụng sản phẩm nhựa một lần trong các hội nghị, hội thảo; sử dụng làn, túi xách để đi chợ thay vì sử dụng túi nilon 1 lần để bao gói.

Ghi nhận và tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh, phát huy hơn nữa hiệu quả công tác truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của người dân, giảm thiểu phát sinh rác thải khó phân hủy trong sinh hoạt, tăng cường sản xuất và sử dụng sản phẩm bao gói, túi xách thân thiện với môi trường thay thế vật liệu khó phân hủy, trong đó tập trung vào một số nội dung sau đây:

- Đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức về những tác hại của việc sử dụng túi nilon khó phân hủy, dùng một lần, lợi ích của việc sử dụng các sản phẩm thay thế, túi nilon thân thiện với môi trường thông qua việc đa dạng hóa các kênh truyền thông.

- Tăng cường truyền thông để cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức, huy động sự tham gia của các tổ chức, cộng đồng cùng chung tay giải quyết bài toán về rác thải nói chung và chất thải nhựa nói chung; thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường; nâng cao nhận thức, thay đổi hành 11 vi của người dân trong việc giảm thiểu sử dụng túi nilon, bao bì nhựa dùng 1 lần.

 - Tổ chức tuyên truyền về các mô hình, biện pháp phân loại rác tại nguồn, đẩy mạnh thu gom và tăng dần tỷ lệ tái chế chất thải nilon tại các đô thị, khu vực nông thôn, nhằm giảm lượng chất thải túi nilon ra môi trường.

- Phối hợp với các Bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội và các địa phương lồng ghép các hoạt động nâng cao nhận thức của người dân, giảm thiểu rác thải nhựa, tăng cường sản xuất và sử dụng sản phẩm bao gói, túi xách thân thiện với môi trường thay thế vật liệu khó phân hủy tại các dịp tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn như: Ngày Môi trường thế giới, Ngày đại dương thế giới, Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn,…

Về dự báo khí tượng, thủy văn, phòng chống thiên tai: Trong những năm gần đây, độ chính xác, độ tin cậy trong các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai ngày càng được nâng cao hơn. Đặc biệt trong vấn đề dự báo, cảnh báo bão, mưa lớn, lũ lụt vốn là những loại hình thời tiết rất nguy hiểm, tác động và gây thiệt hại trên diện rộng về cơ bản đáp ứng được những yêu cầu của công tác phòng chống thiên tai, góp phần giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra.

- Dự báo, cảnh báo bão: độ chính xác trong bản tin dự báo bão [vị trí và cường độ bão] của Việt Nam đã dần tiệm cận với trình độ dự báo bão của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

- Dự báo, cảnh báo mưa lớn: trước 2-3 ngày với độ tin cậy khoảng 75%. Đối với mưa lớn cục bộ hoặc mưa lớn trong cơn dông: mới chỉ cảnh báo trước từ 30 phút đến 2-3 giờ.

- Dự báo, cảnh báo rét đậm, rét hại gây ra bởi không khí lạnh: trước 2-3 ngày với độ tin cậy 80-90%. - Dự báo, cảnh báo lũ trên các sông khu vực miền Trung, Tây Nguyên trước 1-2 ngày và ở khu vực Bắc Bộ trước 3-5 ngày với độ tin cậy 70-80%.

- Dự báo, cảnh báo các đợt nắng nóng diện rộng: trước từ 2-3 ngày có độ tin cậy 70%, thời điểm kết thúc các đợt nắng nóng diện rộng có độ tin cậy từ 80-90%.

Để nâng cao chất lượng công tác dự báo, cảnh báo thiên tai, Bộ đã có kế hoạch để xây dựng các hệ thống quan trắc hiện đại, hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường công nghệ dự báo, năng lực chuyên môn, đặc biệt là xây dựng và đưa vào dự báo nghiệp vụ dùng mô hình dự báo bão, mưa lớn của Việt Nam. Tăng cường đào tạo cán bộ dự báo, mở rộng hợp tác quốc tế, cải tiến thay đổi nội dung, hình thức truyền tin thiên tai với những giải pháp cụ thể như sau:

- Tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế-kỹ thuật lĩnh vực khí tượng thủy văn nhằm tạo hành lang pháp lý để triển khai thực hiện đầy đủ các nội dung quy định của Luật Khí tượng thủy văn năm 2015, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về khí tượng thủy văn, phục vụ hiệu quả công tác phòng chống thiên tai và phát triển kinh tế - xã hội.

- Thực hiện dự báo, cảnh báo; cung cấp đầy đủ, kịp thời và có độ tin cậy cao các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai phục vụ công tác chỉ đạo ứng phó hiệu quả với các tình huống thiên tai.

- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chia sẻ các thông tin, dữ liệu quan trắc và vận hành hồ chứa thủy điện, thủy lợi trong công tác dự báo khí tượng thủy văn. Phối hợp với các đơn vị đã được phân công trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các quy định trong các Quy trình vận hành liên hồ chứa do Chính phủ ban hành trên các lưu vực sông.

- Tăng cường mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn tại khu vực thượng lưu và hạ lưu các hồ chứa nhằm cung cấp đẩy đủ các thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn phục vụ công tác cảnh báo, dự báo lũ. Đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác quan trắc, cảnh báo sớm thiên tai. Từ năm 2019-2025, dự kiến có khoảng 4000 trạm đo mưa tự động sẽ được lắp đặt dựa trên hoạt động xã hội hóa công tác quan trắc.

- Các nguồn thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn sẽ được tập hợp thành cơ sở dữ liệu chung của ngành khí tượng thủy văn phục vụ công tác đồng hóa dữ liệu, chia sẻ, sử dụng theo thời gian thực trong công tác dự báo, cảnh báo thiên tai khí tượng thủy văn.

- Tiếp tục đầu tư xây dựng các hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, phát triển công nghệ dự báo số [digital forecasting] để tăng cường năng lực dự báo định lượng mưa từ hạn cực ngắn đến hạn dài; xây dựng, ứng dụng, tiếp cận các công nghệ và các mô hình toán thủy văn hiện đại thông qua quan hệ hợp tác quốc tế với các quốc gia có nền khoa học công nghệ khí tượng thủy văn phát triển; phát triển công nghệ dự báo số cảnh báo, dự báo lũ sớm và nguy cơ ngập lụt hạ du do tác động điều tiết của hồ chứa.

- Hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung: Quyết định số 46/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về dự báo, cảnh báo và truyền tin thiên tai; Quyết định số 44/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết về cấp độ rủi ro thiên tai, cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, trước năm 2020.

- Tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 18/6/2018 của Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai.


Kiến nghị cần sớm có phương án nạo vét sông Hồng từ cửa biển vào để tránh gây ngập lụt ở khu vực nội thành Hà Nội

Câu hỏi:

Về việc kiến nghị cần sớm có phương án nạo vét sông Hồng từ cửa biển vào để tránh gây ngập lụt ở khu vực nội thành Hà Nội ?

Trả lời:

Trong thời gian qua, nguyên nhân chủ yếu xảy ra tình trạng xảy ra ngập lụt ở khu vực nội thành Hà Nội là do mưa lớn, hệ thống hạ tầng và tiêu thoát nước kém mà không phải do ảnh hưởng bởi mực nước cũng như biến đổi lòng dẫn của sông Hồng [sông Hồng ở khu vực Đồng bằng đã có hệ thống bảo vệ].

Do đó, việc giải quyết vấn đề ngập lụt ở khu vực nội  thành Hà Nội cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và không phụ thuộc nhiều vào việc nạo vét sông Hồng từ cửa biển. Trân trọng và cảm ơn sự quan tâm và kiến nghị của cử tri.


V/v tăng cường các biện pháp nhằm giảm tình trạng ô nhiễm nước, sông Đáy, sông Nhuệ

Câu hỏi:

Cử tri đề nghị nhà nước chỉ đạo Bộ, ngành có biện pháp nhằm giảm tình trạng ô nhiễm nước, sông Đáy, sông Nhuệ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người [Cử tri tỉnh Hà Nam] ?

Trả lời:

Trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng, nỗ lực như: thành lập Ủy ban Bảo vệ môi trường lưu vực sông [sau đây gọi tắt là Ủy ban BVMT LVS] Nhuệ - sông Đáy; phê duyệt và triển khai Đề án Bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy. Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương trên lưu vực sông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường nước của lưu vực sông. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tích cực triển khai nội dung của các Đề án Bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đã được phê duyệt.

Hiện nay, xử lý ô nhiễm môi trường nước sông Tô Lịch và sông Nhuệ - sông Đáy đã và đang được phối hợp và tích cực triển khai đồng bộ ở cấp Trung ương và địa phương, đặc biệt là thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Chất lượng môi trường nước sông Tô Lịch, sông Nhuệ - Đáy vẫn còn tiếp tục bị ô nhiễm, đặc biệt đáng báo động đối với các đoạn sông chảy qua các đô thị. Nguyên nhân là do nguồn thải từ các làng nghề, cơ sở sản xuất dịch vụ; nước thải sinh hoạt từ các đô thị chưa có biện pháp đầu tư xử lý ô nhiễm, vẫn tiếp tục đổ ra sông. Việc huy động nguồn lực để xử lý vào khu vực này là rất khó khăn do nguồn vốn lớn và chưa rõ trong cơ chế hoạt động của Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực sông cũng như chưa rõ trong trách nhiệm huy động nguồn lực của các địa phương.

Về giải pháp, trước tiên cần làm rõ cơ chế phân công triển khai giữa các địa phương trong lưu vực. Đối với sông Nhuệ - sông Đáy, 90% nước thải ra lưu vực là từ Hà Nội, 10% còn lại xuất phát từ Hòa Bình, Hà Nam và một số địa phương khác. Như vậy, Hà Nội phải là địa phương chịu trách nhiệm chính về vấn đề môi trường của sông Nhuệ - sông Đáy.

Thứ hai, về công nghệ và huy động nguồn lực. Bên cạnh các mô hình xử lý nước thải tập trung, cần tính toán tới giải pháp xây dựng các mô hình xử lý nước thải phân tán, công nghệ phân tán, thu gom nước thải dọc theo bờ sông. Đồng thời, phải có giải pháp bổ sung nguồn nước, khơi thông dòng chảy, bảo vệ môi trường các vùng thủy sinh, kè bờ sông v.v. Để huy động được nguồn lực, bên cạnh việc tăng cường nguồn vốn ODA, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, cần xem xét lựa chọn mô hình phù hợp để khuyến khích được doanh nghiệp tham gia đầu tư như mô hình hợp tác công tư để để giải quyết vấn đề thu gom, xử lý nước thải [tuy nhiên cần lưu ý tới việc thường sẽ có những áp đặt nhất định về công nghệ nếu sử dụng nguồn vốn ODA]. Rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong triển khai thực hiện dự án đầu tư theo mô hình hợp tác công tư. Dần dần tiếp cận nguyên tắc người gây ô nhiễm thì phải trả tiền, theo đó tất cả các làng nghề phải xử lý tập trung từ rác thải, nước thải và phải chi trả chi phí xử lý. Đối với nước thải sinh hoạt, Nhà nước phải đảm bảo kinh phí để có thể vận hành các hệ thống xử lý nước thải tập trung.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, đối với mỗi dòng sông, nếu có đầy đủ các điều kiện về vốn, công nghệ, cách thức thu gom, xử lý cho đến các mô hình quản trị, các mô hình 3 trên thì trong vòng 5 năm có thể khắc phục được tình trạng ô nhiễm. Hiện nay Hà Nội đang tổ chức thực hiện theo hình thức này và Bộ đang phối hợp chặt chẽ để sớm tổng kết, nhân rộng mô hình.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

V/v giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường do sinh hoạt nguồn nước, rác thải, khí thải, do hoạt động vi phạm của các nhà máy, khu công nghiệp và chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản gây ra ngày càng nghiêm trọng

Câu hỏi:

Cử tri bức xúc trước tình trạng ô nhiễm môi trường do sinh hoạt nguồn nước, rác thải, khí thải, do hoạt động vi phạm của các nhà máy, khu công nghiệp và chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản gây ra ngày càng nghiêm trọng. Tuy nhiên, biện pháp xử lý hành chính, phạt tiền chưa tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi này gây ra. Cử tri kiến nghị Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu, xử lý nghiêm nâng mức chế tài và cần thiết có thể áp dụng chế tài hình sự đối với những vi phạm nêu trên [Cử tri các tỉnh: Đồng Tháp, Ninh Thuận] ?

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước. Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến hành rà soát các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ lớn, tiềm ẩn nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường trên diện rộng; trên cơ sở kết quả rà soát đã thành lập các Tổ công tác liên ngành, chương trình kiểm tra định kỳ, chế độ giám sát đặc biệt như quan trắc online tự động liên tục và kết nối số liệu trực tuyến với cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở Trung ương cũng như địa phương, xây dựng hồ sinh học để kiểm chứng chất lượng nước thải sau khi xử lý khi thải ra ngoài môi trường đảm bảo chủ động phòng ngừa, không để xảy ra các sự cố, thảm họa môi trường từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

Hiện nay, cùng với việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tập trung hoàn thiện các thể chế, chính sách có liên quan; đặc biệt đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nghị định này sẽ có tác động mạnh mẽ đến ý thức và nhận thức của cá nhân, tổ chức trong công tác bảo vệ môi trường; buộc cá nhân, tổ chức phải đầu tư kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường là cao nhất trong các lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam [mức phạt tiền từ cảnh cáo đến 01 tỷ đồng đối với cá nhân và 02 tỷ đồng đối với tổ chức]. Trước đây, Nghị định số 179/2013/NĐ-CP đã có tính răn đe cao, tuy nhiên Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ hiện nay còn có tính răn đe cao hơn đối với các hành vi cố ý gây ô nhiễm môi trường [như trước đây hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn cho phép trên 10 lần với lưu lượng nước thải trên 10.000 m3/ngày đêm thì mức phạt tiền là tối đa, hiện nay chỉ cần xả nước thải vượt trên 10 lần với lưu lượng lớn hơn 5.000 m3/ngày đêm nhưng dưới mức tội phạm môi trường theo quy định của Bộ luật Hình sự thì đã bị xử phạt ở mức tối đa]. Bên cạnh hình thức phạt tiền, Nghị định này còn quy định các hình thức phạt bổ sung [đình chỉ hoạt động, tước quyền sử dụng giấy phép môi trường, tịch thu tang vật vi phạm], biện pháp khắc phục hậu quả [buộc khắc phục lại tình trạng ô nhiễm môi trường đã bị ô nhiễm và phục hồi môi trường bị ô nhiễm] và công khai thông tin đối với hành vi vi phạm nghiêm trọng, gây ô nhiễm môi trường hoặc tác động xấu đến xã hội,…

Ngoài việc xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ nêu trên, ngày 27/11/2015 Quốc hội đã thông qua Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13, trong đó đã định lượng các hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường để xử lý trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức vi phạm. Hiện tại Bộ Luật hình sự đang được Ủy ban Tư pháp Quốc hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan để sửa đổi cho phfu hợp với thực tiễn. Đây là một công cụ hữu hiệu để răn đe cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh trách nhiệm để thực hiện các hành vi cố ý gây ô nhiễm môi trường.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

V/v vấn đề ô nhiễm sông Cầu

Câu hỏi:

Cử tri phản ánh mặc dù đã có dự án Tăng cường năng lực quản lý môi trường nước lưu vực sông Cầu, nhưng nước sông Cầu hiện nay vẫn bị ô nhiễm, một số đoạn chảy qua địa phận các huyện Việt Yên, Yên Dũng của tỉnh Bắc Giang có tình trạng cá, tôm chết hàng loạt, nước sông có mùi khó chịu…[Cử tri tỉnh Bắc Giang] ?

Trả lời:

Dự án tăng cường năng lực quản lý môi trường nước lưu vực sông bắt đầu triển khai từ tháng 1 năm 2016 bởi tổ chức JICA [Nhật Bản]. Mục tiêu dài hạn của dự án là cải thiện chất lượng môi trường nước lưu vực sông tại Việt Nam thông qua việc tăng cường năng lực quản lý cho các cơ quan Trung ương và địa phương. Trong năm 2016, dự án JICA đã phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức thành công các lớp tập huấn cơ bản cho 03 tỉnh trên lưu vực sông Cầu là Bắc Giang, Bắc Ninh và Thái Nguyên và 01 chương trình tham quan học tập trao đổi kinh nghiệm quản lý môi trường nước lưu vực sông giữa các tỉnh trên lưu vực sông Cầu và các tỉnh, thành phố trên lưu vực hệ thống sông Đồng Nai.

Ngoài ra, trong các năm qua, Ủy ban Bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có nhiều văn bản nhằm triển khai thực hiện Đề án bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu. Hàng năm, Ủy ban Bảo vệ môi trường sông Cầu tổ chức đoàn công tác đi kiểm tra tình hình triển khai Đề án, tình hình thống kê, quản lý các nguồn thải của các tỉnh trên lưu vực sông Cầu, những khó khăn vướng mắc và kiến nghị của các địa phương được ghi nhận và hàng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đều có báo cáo gủi Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, với các vấn đề ô nhiễm môi trường xảy ra đột xuất, Ủy ban Bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu luôn phối hợp với Tổng cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường kịp thời thành lập đoàn công tác để giải quyết các vấn đề nóng, vấn đề ô nhiễm môi trường lưu vực sông liên tỉnh. Trong năm 2016, thành lập đoàn công tác đi kiểm tra, khảo sát đoạn giáp ranh 02 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang theo đơn khiếu kiện về cá chết từ người dân Bắc Giang.

Tuy nhiên, đến nay, môi trường nước lưu vực sông Cầu vẫn còn bị ô nhiễm, nước sông có mùi khó chịu, nguyên nhân là do:

-  Hoạt động của Ủy ban Bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu còn nhiều hạn chế. Việc kết nối thông tin và phối hợp công tác chủ yếu giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương còn thiếu sự tham gia của các Bộ, ngành khác;

-  Các địa phương chưa thống kê, kiểm soát được đầy đủ các nguồn thải trên địa bàn, vì vậy chưa xác định được nhiệm vụ trọng tâm trong công tác giám sát, quản lý. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn hạn chế, chưa quyết liệt và triệt để;

-  Vai trò của cộng đồng trong việc tham gia công tác bảo vệ môi trường tuy đã chuyển biến tích cực như chủ động thu gom rác, giữ gìn vệ sinh môi trường xung quanh, nhưng chưa được phát huy mạnh mẽ trong công tác giám sát, phản ánh các hành động gây ô nhiễm môi trường.

Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục phối hợp với dự án JICA cũng như chủ động tiếp tục triển khai các hoạt động nhằm triển khai Đề án Bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu, cụ thể:

- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao vai trò của Ủy ban Bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu trong công tác chỉ đạo, điều phối các hoạt động bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu;

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai Đề án tổng thể lưu vực sông tại địa phương thuộc lưu vực sông Cầu;

-  Nghiên cứu, đề xuất cơ chế tăng cường nguồn lực tài chính để triển khai Đề án;

-  Hướng dẫn các tỉnh thực hiện hoạt động kiểm kê, xác định các nguồn thải gây ô nhiễm môi trường, thống nhất các chỉ số môi trường cần thống kê, theo dõi và báo cáo;

-  Xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin môi trường cho lưu vực sông Cầu; chủ trì rà soát, tăng cường hệ thống quan trắc, nhất là hệ thống quan trắc tự động và giám sát môi trường trên toàn lưu vực, ban hành định mức kỹ thuật quan trắc môi trường đối với nước thải sinh hoạt và sản xuất;

-  Phối hợp dự án JICA triển khai thực hiện các dự án thí điểm, xây dựng và ban hành được các văn bản về quản lý môi trường nước lưu vực sông.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

Giải pháp quyết liệt tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật về vệ sinh môi trường

Câu hỏi:

Hiện nay, một số khu công nghiệp, các nhà máy, cơ sở sản xuất xả nước thải và khói bụi chưa qua xử lý ra môi trường gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân. Cử tri đề nghị Chính phủ cần phải xem xét kỹ lưỡng khâu quy hoạch các dự án, không xây dựng các nhà máy sản xuất sắt thép, phân bón, xi măng, khu công nghiệp, làng nghề gần khu dân cư. Đồng thời, các cơ quan chức năng có giải pháp quyết liệt tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật về vệ sinh môi trường [Cử tri tỉnh Ninh Bình].

Trả lời:


1.  Về quy hoạch các dự án, không xây dựng các nhà máy sản xuất sắt thép, phân bón, xi măng, khu công nghiệp, làng nghề: Theo quy định tại Luật bảo vệ môi trường 2014, Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định về quy hoach bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường thi đối với các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại, làng nghề, dự án xây dựng cơ sở sản xuất sắt thép, xi măng, dự án xây dựng kho chứa thuốc bảo vệ thực vật, phân bón đều thuộc đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường. Khoản 2 Điều 19 Luật bảo vệ môi trường năm 2014 quy định các dự án phải thực hiện đánh giá tác động môi trường trong giai đoạn chuẩn bị dự án và phải được các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường thẩm định và phê duyệt trước khi triển khai xây dựng dự án; Khoản 2 Điều 27 Luật bảo vệ môi trường năm 2014 quy định chủ dự án “Phải báo cáo cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường phục vụ vận hành dự án đối với dự án lớn, có nguy cơ tác động xấu đến môi trường do Chính phủ quy định. Những dự án này chỉ được vận hành sau khi cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường”. Tùy thuộc vào quy mô của dự án, các cơ quan trung ương hoặc địa phương sẽ tiến hành thẩm định đảm bảo dự án tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường khi triển khai xây dựng, trong đó sẽ có các quy định về vị trí xây dựng phải đảm bảo cách xa khu dân cư theo quy định pháp luật; đồng thời tổ chức kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình, biện pháp bảo vệ môi trường đối với dự án trước khi đi vào vận hành chính thức.

2.  Về giải pháp tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật về vệ sinh môi trường: Trong thời gian từ năm 2011-2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chú trọng và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về BVMT trên phạm vi cả nước; đã tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với 3.440 cơ sở, KCN và CCN [cơ sở], phát hiện 2.087 tổ chức vi phạm [chiếm 60%], với tổng tiền phạt trên 280 tỷ đồng, buộc truy thu phí BVMT đối với nước thải trên 127 tỷ đồng, bồi thường thiệt hại cho người dân gần 220 tỷ đồng, đồng thời buộc các tổ chức vi phạm phải đầu tư các công trình xử lý chất thải đạt QCVN với số tiền lên đến hang ngàn tỷ đồng. Riêng năm 2016, đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 952 cơ sở [trong đó, thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch đối với 815 cơ sở tại 32 tỉnh/thành phố; thanh tra diện rộng đối với 137 cơ sở có nước thải trên 500 m3/ngày tại 22 tỉnh/thành phố và thanh tra đột xuất đối với 11 cơ sở]. Kết quả thanh tra, kiểm tra nhận thấy có 203/952 cơ sở [chiếm 21,6%] không vi phạm, còn lại hầu hết các cơ sở đều có các vi phạm về thủ tục hành chính và quản lý chất thải với mức phạt tiền trên 140 tỷ đồng, buộc bồi thường thiệt hại cho người dân số tiền trên 1,4 tỷ đồng và 500 triệu USD. Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là tại các địa phương; vi phạm diễn ra khá phổ biến, tinh vi, một số địa phương xử lý chưa nghiêm; nguồn nhân lực làm công tác thanh tra, kiểm tra còn thiếu và yếu về nghiệp vụ; phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm chưa được đầu tư nên khó khăn trong việc phát hiện vi phạm.

Để khắc phục tồn tại trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục thực hiện một số giải pháp để tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra đáp ứng yêu cầu gồm: [i] Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. thanh tra, kiểm tra, đảm bảo cho hoạt động này chủ động, linh hoạt, đúng pháp luật, không chồng chéo, không làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp; [ii] Tăng cường nhân lực, năng lực, cơ sở vật chất và phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm về môi trường theo quy định của Nghị định số 165/2013/NĐ-CP của Chính phủ; [iii] Kiện toàn tổ chức và xây dựng hệ thống thanh tra chuyên ngành môi trường từ Trung ương đến địa phương, trước mắt kiến nghị Chính phủ cho phép sửa đổi, bổ sung Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012, trong đó bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành môi trường cho Chi cục Bảo vệ môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh/thành phố. Bên cạnh đó, Bộ sẽ tăng cường công tác giám sát các nguồn thải, đặc biệt là các nguồn thải lớn [có lưu lượng xả thải từ 1.000 m3/ngày và các KCN tập trung; các cơ sở có lưu lượng xả khí thải lớn thuộc các ngành có nguy cơ gây ô nhiễm như: sản xuất sắt thép, phân bón, xi măng, …], đồng thời yêu cầu các cơ sở này phải có hệ thống quan trắc tự động, liên tục nước thải, khí thải tại điểm xả thải và kết nối với Sở Tài nguyên và Môi trường theo quy định tại Thông tư số 31/2016/TT-BTNMT ngày 14/10/2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc bảo vệ môi trường cụm công nghiệp, kh kinh doanh, dịch vụ tập trung, làng nghề và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; trường hợp không thực hiện sẽ xử lý nghiêm theo quy định tại Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]

Giải pháp ngăn chặn và xử lý ô nhiễm môi trường sông Kẻ Sặt

Câu hỏi:

Cử tri đề nghị các Bộ, ngành chức năng có giải pháp ngăn chặn và xử lý ô nhiễm môi trường sông Kẻ Sặt là ranh giới giữa 2 tỉnh Hải Dương, Hưng Yên do một số khu công nghiệp của 02 tỉnh đổ nước thải ra gây ô nhiễm nguồn nước nghiên trọng [Cử tri tỉnh Hải Dương].
1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường

Trả lời:

Vấn đề cử tri nêu, hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 về bảo vệ môi trường các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, trong đó đã quy định các yêu cầu đối với các khu công nghiệp thực hiện các biện pháp kiểm soát ô nhiễm phát sinh từ các khu công nghiệp gồm có: yêu cầu hoàn thành các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường trước khi đi vào hoạt động, xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN, lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải tự động, liên tục … Bên cạnh đó, năm 2016 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 31/2016/TT-BTNMT ngày 14/10/2016 về bảo vệ môi trường đối với CCN, khu kinh doanh dịch vụ tập trung, làng nghề và cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, trong đó đã quy định về quan trắc, giám sát môi trường đối với tất cả các cơ sở [bao gồm các cơ sở nằm trong KCN].

Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp, phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh Hải Dương và Hưng Yên để tăng cường công tác kiểm soát ô nhiễm tại các KCN trên địa bàn 2 tỉnh.

[Nguồn: Công văn số 1842/BTNMT-PC ngày 19/4/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường]


Tăng cường công tác quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản, cát lòng sông

Câu hỏi:

Trong thời gian qua, tình hình sạt lở bờ sông, rừng bị tàn phá diễn ra ngày càng phức tạp, manh động và khó lường, cử tri kiến nghị các cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương cần tăng cường công tác quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản, cát lòng sông, đặt biệt là quản lý, kiểm soát vai trò trách nhiệm, ý thức đạo đức, hiệu lực, hiệu quả công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thực thi quản lý nhà nước ?

Trả lời:

Khai thác khoáng sản trái phép còn diễn ra tại nhiều địa phương trong cả nước [đến năm 2018 vẫn có trên 30 tỉnh có khai thác khoáng sản trái phép; riêng cát, sỏi lòng sông khoảng trên 20 tỉnh]. Khai thác trái phép chưa được giải quyết triệt để, tiềm ẩn nhiều nguy cơ tái diễn; công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trong khai thác cát, sỏi lòng sông trái phép ngày càng khó khăn, phức tạp. Hậu quả là gây thất thoát tài nguyên, ô nhiễm nguồn nước, sạt lở bờ sông, bãi sông…

Nguyên nhân của tình trạng này gồm: [1] nhu cầu sử dụng cát, sỏi làm vật liệu san lấp, xây dựng công trình hạ tầng ngày càng lớn, cung không đủ cầu; [2] công nghệ khai thác cát, sỏi lòng sông đơn giản, phương tiện khai thác cát, sỏi gọn nhẹ và linh hoạt; [3] hoạt động khai thác trái phép diễn ra bất kể ngày - đêm, kể cả những ngày lễ, gây khó khăn cho cơ quan chức năng; [4] nhiều địa phương chưa kiên quyết xử lý người đứng đầu địa phương, nhất là cấp xã; chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các địa phương, nhất là khu vực giáp ranh, chưa xử lý kiên quyết, kịp thời đối với hành vi khai thác trái phép; [5] để ngăn chặn hiệu quả khai thác cát, sỏi trái phép phải quản lý chặt chẽ từ khâu mua bán, vận chuyển, tập kết.

Chính phủ đã quy định cụ thể trách nhiệm quản lý, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác của Ủy ban nhân dân [UBND] các cấp tại Nghị định số 158/2016/NĐCP ngày 29/11/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản, đồng thời đã bổ sung hành vi, tăng mức xử phạt đối với một số hành vi, nhất là khai thác cát, sỏi lòng sông trái phép lên 2-3 lần trong Nghị định số 33/2017/NĐCP ngày 03/4/2017 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 30/3/2015 về tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về khoáng sản; Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ           Trương Hòa Bình đã chủ trì 01 cuộc họp trực tuyến các Bộ, ngành liên quan với 63 tỉnh thành phố; 02 cuộc họp trực 20 tiếp với các tỉnh, thành phố có hoạt động khai thác cát, sỏi trái phép kéo dài, phức tạp [mới đây là 3/4/2019] để bàn các giải pháp ngăn chặn vi phạm pháp luật trong hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông.

Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tại Thông báo số 142/TB-VPCP ngày 12/4/2019, trong 6 tháng đầu năm 2019, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham gia cùng Bộ Công an và các Bộ liên quan kiểm tra tình hình quản lý cát, sỏi lòng sông tại 15 tỉnh, thành phố cả nước

Nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới: Các địa phương, các Bộ liên quan tiếp tục thực hiện nghiêm Chỉ thị số 03 và chỉ đạo của Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tại Thông báo số 142/TB-VPCP ngày 12/4/2019; các địa phương tiếp tục ban hành quy chế phối hợp trong quản lý, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản [đến nay đã có 45 tỉnh, thành phố ký kết 35 quy chế phối hợp quản lý khoáng sản cát, sỏi lòng sông tại các khu vực giáp ranh]; cương quyết xử lý người đứng đầu địa phương nếu để xảy ra hoạt động khai thác cát, sỏi trái phép; Thanh tra Chính phủ tiến hành thanh tra một số địa phương để xảy ra tình trạng khai thác cát, sỏi trái phép, gây bức xúc dư luận, kiến nghị xử lý theo quy định.

 Để giải quyết căn cơ vấn đề này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định quản lý cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng, bờ, bãi sông đã trình Chính phủ xem xét, hiện nay đang được hoàn thiện để trình Chính phủ ban hành. 05 chính sách lớn của dự thảo Nghị định gồm: [1] quản lý cát, sỏi theo quy định Luật khoáng sản gắn với trách nhiệm bảo vệ lòng bờ, bãi sông theo quy định của Luật tài nguyên nước; [2] quản lý, cấp phép, sử dụng cát, sỏi lòng sông trên lưu vực sông phải gắn với trách nhiệm của địa phương theo địa giới hành chính; [3] quản lý cát, sỏi lòng sông chặt chẽ từ lập quy hoạch, cấp phép thăm dò, khai thác đến hoạt động mua bán, vận chuyển, tập kết; [4] cấp phép thăm dò, khai thác cát, sỏi chủ yếu thông qua hình thức đấu giá; [5] khuyến khích sử dụng nguyên liệu thay thế cát, sỏi lòng sông từ đá và vật liệu giàu silic.


Giải pháp nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và người dân trong việc bảo vệ môi trường

Câu hỏi:

Đề nghị tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; có giải pháp nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và người dân trong việc bảo vệ môi trường; quản lý chặt chẽ việc khai thác tài nguyên, khoáng sản, quan tâm tăng cường công tác trồng rừng và bảo vệ rừng, xử lý nghiêm các vi phạm ?

Trả lời:

         Bộ Tài nguyên và Môi trường chia sẻ kiến nghị của cử tri về tình trạng ô nhiễm môi trường trong giai đoạn hiện nay. Công tác bảo vệ môi trường, khắc phục ô nhiễm môi trường được Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương cũng như toàn xã hội hết sức quan tâm. Nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp quản lý đã được ban hành, tổ chức triển khai thực hiện. Theo đó, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã có những chuyển biến tích cực. Bức tranh toàn cảnh về môi trường hiện nay của Việt Nam đã xuất hiện các gam màu sáng, khu vực, địa bàn, địa phương, lĩnh vực làm tốt về công tác bảo vệ môi trường dần mở rộng; các tồn đọng, vấn đề môi trường bức xúc được thu hẹp dần.

         Tuy nhiên, thực tế là tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn còn diễn ra tại một số khu vực, một số thời điểm, gây bức xúc, lo lắng cho nhân dân như cử tri đã phản ánh. Điều này xuất phát từ ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của người dân và doanh nghiệp còn chưa cao; các vi phạm của cơ sở có xu hướng ngày càng tinh vi, mang tính chống đối cao trong khi lực lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường còn mỏng, lại bị ràng buộc bởi các quy định của Luật thanh tra nên việc phát hiện hành vi vi phạm là hết sức khó khăn.

         Thời gian tới, Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp để hạn chế, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, cụ thể như sau:
    - Hoàn thiện hệ thống, chính sách pháp luật đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác quản lý, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế, đồng thời chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các xung đột, tranh chấp về môi trường gây mất ổn định chính trị, an ninh trật tự xã hội. Trước mắt, đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án sửa đổi Luật bảo vệ môi trường, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, theo hướng kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường, tăng chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

    - Tiếp tục duy trì, phát huy hiệu quả hoạt động của đường dây nóng tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị của tổ chức và cá nhân về ô nhiễm môi trường của trung ương và địa phương; tập trung đẩy mạnh, làm tốt hơn việc tiếp nhận, xác minh và xử lý các thông tin; mở rộng hệ thống đường dây nóng đến cấp huyện, cấp xã nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vụ việc gây ô nhiễm môi trường, ngăn chặn đến mức thấp nhất các sự cố môi trường có thể xảy ra.

     - Yêu cầu các khu công nghiệp tiếp tục hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường trước khi đi vào hoạt động, không cho phép thu hút các dự án đầu tư vào khu công nghiệp hoặc thực hiện thủ tục mở rộng khu công nghiệp khi không có hoặc chưa hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường; thực hiện giám sát chặt chẽ việc thu hút đầu tư các ngành nghề phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt.

     - Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giám sát chặt chẽ việc vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung của khu công nghiệp, xử lý khí thải của các cơ sở trong khu công nghiệp; nhất là thanh tra, kiểm tra đột xuất, tổ chức thanh tra, kiểm tra theo loại hình, vùng, theo hình thức cuốn chiếu để đánh giá đầy đủ, toàn diện, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các vi phạm. Tổ chức thanh tra theo vùng để nắm bắt và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về môi trường. Đồng thời tiếp tục chỉ đạo các địa phương duy trì hoạt động giám sát thường xuyên đối với các dự án lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Đẩy mạnh việc kết nối truyền số liệu quan trắc môi trường của các cơ sở phát sinh chất thải lớn trực tiếp về Sở Tài nguyên và Môi trường để theo dõi, giám sát.

     - Tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác bảo vệ môi trường [ngân sách nhà nước; các dự án, chương trình tài trợ trong và ngoài nước; Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam; Quỹ Bảo vệ môi trường của địa phương huy động vốn từ cộng đồng, hợp tác công tư,...]. Ưu tiên xã hội hóa, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ cho việc phát triển các công nghệ xử lý, tái chế chất thải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, khí hậu và hiện trạng chất thải của nước ta. Có cơ chế đột phá để huy động các nguồn tài chính từ nguồn lực xã hội, bên cạnh các nguồn lực tài chính của nhà nước để phục hồi, xử lý ô nhiễm môi trường, cơ chế sử dụng nguồn thu từ môi trường đầu tư trở lại cho môi trường.

           Về vấn đề quản lý khai thác tài nguyên, khoáng sản: Ngày 30/3/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-TTg về việc tăng cường hiệu lực thực thi chính sách, pháp luật về khoáng sản. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan và các địa phương thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về khoáng sản; nhất là công tác thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật về khoáng sản, thanh tra trách nhiệm đối với các tổ chức hành chính và người đứng đầu trong quản lý nhà nước về khoáng sản, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về khoáng sản và bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản; chỉ đạo kiểm tra, xử lý đối với các cơ sở chế biến, sử dụng khoáng sản không có nguồn gốc hợp pháp, các cơ sở chế biến có công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

           Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ từ khâu hoàn thiện thể chế quản lý khoáng sản đến công tác cấp phép hoạt động khoáng sản, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản. Theo đó, từ năm 2015 đến nay, Bộ đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành các Nghị định: [1] số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản thay thế Nghị định số 15/2012/NĐ-CP ngày 09/3/2012; [2] số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản thay thế Nghị định số 142/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013.

          Nghị định số 158/2016/NĐ-CP đã bổ sung nhiều nội dung mới và quan trọng nhằm tăng cường công tác quản lý khoáng sản, nâng cao trách nhiệm doanh nghiệp khi được giao quyền khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường, đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm quản lý bảo vệ khoáng sản chưa khai thác tại Chương III; hướng dẫn nội dung Phương án bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, quy định rõ trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu các địa phương nếu xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ nếu xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép hoặc khai thác trái phép kéo dài mà không xử lý...

          Nghị định số 33/2017/NĐ-CP đã bổ sung, điều chỉnh theo hướng nâng mức phạt đối với một số hành vi, nhất là hành vi khai thác cát, sỏi trái phép; bổ sung thêm các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt cho Uỷ ban nhân dân cấp các cấp nhằm kịp thời ngăn chặn các sai phạm trong khai thác khoáng sản. Mặt khác, Bộ đã thực hiện nhiều hình thức phổ biến pháp luật về khoáng sản; đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm của Bộ nội dung thanh tra, kiểm tra chuyên đề theo từng loại khoáng sản; thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân để xử lý đối với các hành vi gây tổn thất lớn khoáng sản, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phối hợp với các địa phương trong việc nắm bắt thông tin, kiểm tra, xử lý hoạt động khai thác khoáng sản trái phép.

         Các quy định của Luật và các văn bản dưới Luật theo hướng chặt chẽ, minh bạch và bền vững. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về khoáng sản và chấn chỉnh hoạt động khoáng sản của tổ chức, cá nhân. Qua kiểm tra, thanh tra và báo cáo định kỳ về công tác quản lý nhà nước về khoáng sản của các địa phương cho thấy hoạt động khoáng sản của các tổ chức, cá nhân đã dần đi vào nề nếp; việc quản lý và cấp phép hoạt động khoáng sản đã tuân thủ theo đúng quy hoạch, quy định của pháp luật về khoáng sản.


Về việc kiến nghị tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các điều ước quốc tế về ứng phó biến đổi khí hậu và các điều ước quốc tế

Câu hỏi:

Về việc kiến nghị tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các điều ước quốc tế về ứng phó biến đổi khí hậu và các điều ước quốc tế khác để các địa phương nắm bắt kịp thời các chủ trương chính sách [Cử tri thành phố Hồ Chí Minh] ?

Trả lời:

Việt Nam đã tích cực và ngày càng chủ động tham gia vào các Điều ước quốc tế nhiều bên tham gia cũng như các Điều ước quốc tế hai bên về biến đổi khí hậu. Đến nay Việt Nam đã tham gia nhiều Điều ước song phương và Điều ước quốc tế song phương.

        Là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, trong những năm qua, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nỗ lực thực hiện của các Bộ, ngành, địa phương, trong đó có việc chỉ đạo, thực hiện các Điều ước quốc tế về biến đổi khí hậu mà Việt Nam tham gia là thành viên. Bên cạnh việc kịp thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn thực hiện các Điều ước quốc tế; bổ sung, hoàn thiện bộ máy, thẩm quyền, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng đáp ứng các nhiệm vụ quản lý, chủ trì thực hiện các Điều ước quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu… thì công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức cộng đồng bước đầu đã góp phần tạo chuyển biến tích cực về nhận thức của người dân và cộng đồng về tác động của biến đổi khí hậu và các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.

        Bộ Tài nguyên và Môi trường với vai trò là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ chủ trì tổ chức đàm phán, ký kết, thực hiện điều ước quốc tế và tham gia tổ chức quốc tế về biến đổi khí hậu đã triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên với các hoạt động chính như sau:

      - Tổ chức các hội nghị, hội thảo, tập huấn nhằm nâng cao nhận thức về Điều ước quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu như các diễn đàn đối thoại chính sách, hội nghị hội thảo về cơ chế phát triển sạch CDM, JCM; tập huấn sử dụng các phần mềm kiểm kê khí nhà kính; tăng cường năng lực thực hiện công ước khí hậu tại Việt Nam; các hội thảo 3 miền Bắc, Trung, Nam về Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; các hội thảo tham vấn xây dựng, rà soát cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định NDC; các hội thảo chuẩn bị cho việc tham dự Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu [COP] và tóm tắt kết quả của COP; tổ chức Ngày quốc tế bảo vệ tầng  ô- dôn hàng năm.

      - Xây dựng các ấn phẩm về biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ô- dôn như: Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu; Nghị định thư Kyoto; các Thông báo quốc gia của Việt Nam cho Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu [lần thứ nhất, lần thứ hai và lần thứ ba]; Nghị định thư Kyoto, Cơ chế phát triển sạch và vận hội mới; Hỏi/đáp về Nghị định thư Kyoto và Cơ chế phát triển sạch; giới thiệu Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung cua Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và tình hình thực hiện Cơ chế phát triển sạch tại Việt Nam; một số văn bản quy phạm pháp luật thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto tại Việt Nam; hướng dẫn xây dựng, cấp Thư xác nhận, cấp Thư phê duyệt Dự án theo Cơ chế phát triển sạch trong khuôn khổ Nghị định thư Kyoto; “Thông tin tóm tắt về Cơ chế phát triển sạch và thị trường các-bon quốc tế”; Giới thiệu nghiên cứu Đo đạc, Báo cáo và Thẩm định cho phát triển các-bon thấp tại Châu Á; Kịch bản đường cơ sở quốc gia phát thải khí nhà kính - Kinh nghiệm các nước đang phát triển trên thế giới; các Báo cáo cập nhật hai năm một lần của Việt Nam cho Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu [lần thứ nhất và lần thứ hai]; Đề án Quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ cacbon ra thị trường thế giới; Thông tin biến đổi khí hậu [2 số/năm]; sổ tay hướng dẫn thực hiện cơ chế JCM; Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; Báo cáo kỹ thuật đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định; Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định nộp UNFCCC; một số ấn phẩm Ô-dôn như: Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn [Bản sửa đổi, bổ sung London 1990, Copenhagen 1992, Vienna 1995, Montreal 1997, Bắc Kinh 1999]; Sách 24 năm Việt Nam gia nhập và thực hiện Nghị định thư Montreal; Bản tin ô-dôn [4 số/năm]; Chương trình quốc gia của Việt Nam nhằm loại dần các chất làm suy giảm tầng ô-dôn.

      - Phối hợp với các cơ quan truyền thông xây dựng các tin, bài, các phim phóng sự về ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng Ô-dôn.

Thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua việc lồng ghép các hoạt động tuyên truyền, phổ biến trong các chương trình, dự án về biến đổi khí hậu, huy động sự tham gia của người dân, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và khuyến khích, tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào công tác ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn cả nước, chú trọng tại  các vùng chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu như vùng đồng bằng sông Cửu Long nhằm đảm bảo sinh kế cho người dân và phát triển bền vững.


Giải pháp tổng thể nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe, cuộc sống của người dân

Câu hỏi:

Vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay vẫn đang rất bức xúc và cấp bách, là vấn nạn gây ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt và đặc biệt là ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí,... tình trạng tái chế vật liệu, sản xuất chăn nuôi trong khu dân cư... Đề nghị nhà nước có giải pháp tổng thể nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe, cuộc sống của người dân ?

Trả lời:

Công tác bảo vệ môi trường, khắc phục ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường đất, nguồn nước, không khí tại các khu công nghiệp, khu dân cư nông thôn, làng nghề và đô thị được Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương cũng như toàn xã hội hết sức quan tâm. Nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp quản lý đã được ban hành, tổ chức triển khai thực hiện. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Bộ Công an, các Bộ, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh tích cực triển khai công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường, đã phát hiện, xử phạt nghiêm nhiều vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường để răn đe và tạo dư luận, buộc các cơ sở đang hoạt động sản xuất, kinh doanh phải quan tâm, đầu tư cho môi trường. Đồng thời, đã tích cực tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường; liên tục cập nhật để sửa đổi hoặc đề xuất Chính phủ, Quốc hội để sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra nhưng xu hướng tăng mạnh như trước đây được giảm dần. Đến nay, đã có 88,3% các khu công nghiệp hoàn thành việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung; gần 70% khu công nghiệp đã lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải tự động, liên tục.

       Tuy nhiên, đúng như cử tri phản ánh, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn còn diễn ra tại một số khu vực, một số thời điểm, gây bức xúc, lo lắng cho Nhân dân. Để hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang và sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

  - Hoàn thiện hệ thống, chính sách pháp luật đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác quản lý, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế, đồng thời chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các xung đột, tranh chấp về môi trường gây mất ổn định chính trị, an ninh trật tự xã hội. Trước mắt, đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án sửa đổi Luật bảo vệ môi trường, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, theo hướng kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường, tăng chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; khẩn trương hoàn thiện dự án sửa đổi Luật bảo vệ môi trường, trình Quốc hội xem xét và thông qua trong năm 2020.

   - Tiếp tục duy trì, phát huy hiệu quả hoạt động của đường dây nóng tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị của tổ chức và cá nhân về ô nhiễm môi trường của trung ương và địa phương; tập trung đẩy mạnh, làm tốt hơn việc tiếp nhận, xác minh và xử lý các thông tin; mở rộng hệ thống đường dây nóng đến cấp huyện, cấp xã nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vụ việc gây ô nhiễm môi trường, ngăn chặn đến mức thấp nhất các sự cố môi trường có thể xảy ra.

   - Yêu cầu các khu công nghiệp tiếp tục hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường trước khi đi vào hoạt động, không cho phép thu hút các dự án đầu tư vào khu công nghiệp hoặc thực hiện thủ tục mở rộng khu công nghiệp khi không có hoặc chưa hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường; thực hiện giám sát chặt chẽ việc thu hút đầu tư các ngành nghề phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt.

    - Đẩy mạnh việc đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác BVMT [ngân sách nhà nước; các dự án, chương trình tài trợ trong và ngoài nước; Quỹ BVMT Việt Nam; Quỹ BVMT của địa phương huy động vốn từ cộng đồng, hợp tác công tư,...]. Ưu tiên xã hội hóa, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ cho việc phát triển các công nghệ xử lý, tái chế chất thải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, khí hậu và hiện trạng chất thải của nước ta. Có cơ chế đột phá để huy động các nguồn tài chính từ nguồn lực xã hội, bên cạnh các nguồn lực tài chính của nhà nước để phục hồi, xử lý ô nhiễm môi trường, cơ chế sử dụng nguồn thu từ môi trường đầu tư trở lại cho môi trường.

    - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giám sát chặt chẽ việc vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung của khu công nghiệp, xử lý khí thải của các cơ sở trong khu công nghiệp; nhất là thanh tra, kiểm tra đột xuất, tổ chức thanh tra, kiểm tra theo loại hình, vùng, theo hình thức cuốn chiếu để đánh giá đầy đủ, toàn diện, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các vi phạm. Tổ chức thanh tra theo vùng để nắm bắt và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về môi trường. Đồng thời tiếp tục chỉ đạo các địa phương duy trì hoạt động giám sát thường xuyên đối với các dự án lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Đẩy mạnh việc kết nối truyền số liệu quan trắc môi trường của các cơ sở phát sinh chất thải lớn trực tiếp về Sở Tài nguyên và Môi trường để theo dõi, giám sát.


Tăng cường công tác điều phối và hoàn thiện về chính sách, bảo đảm nguồn lực, ứng dụng khoa học công nghệ, tổ chức thực hiện… để thực hiện có hiệu quả, đạt mục tiêu của Chiến lược đến năm 2020

Câu hỏi:

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 81/2006/QĐ-TTg ngày 14/6/2006 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020, với mục tiêu tổng quát “Bảo vệ, khai thác hiệu quả, phát triển bền vững tài nguyên nước quốc gia trên cơ sở quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chủ động phòng, chống, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại do nước gây ra; từng bước hình thành ngành kinh tế nước nhiều thành phần phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả hợp tác, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các nước có chung nguồn nước”. Tuy nhiên, hiện nay công tác quy hoạch, bảo vệ, sử dụng nguồn nước và ứng phó với các tình trạng thiếu nước còn rất nhiều hạn chế, làm ảnh hưởng đến khả năng tạo nguồn nước, nguồn nước dự phòng, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước và ứng phó với tình trạng thiếu nước,… Đề nghị Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành liên quan tăng cường công tác điều phối và hoàn thiện về chính sách, bảo đảm nguồn lực, ứng dụng khoa học công nghệ, tổ chức thực hiện… để thực hiện có hiệu quả, đạt mục tiêu của Chiến lược đến năm 2020 và tạo cơ sở cho mục tiêu lâu dài?

Trả lời:

       Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, hoàn thiện về chính sách trong lĩnh vực tài nguyên nước từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý tài nguyên nước, cụ thể Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và Bộ ban hành theo thẩm quyền 43 văn bản pháp luật để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành và triển khai Luật tài nguyên nước đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý tài nguyên nước. Thêm vào đó, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 11 quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông, đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc điều hòa, phân bổ nguồn nước các hồ chứa lớn, quan trọng trên các lưu vực sông, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích phát điện, cấp nước nông nghiệp với việc đảm bảo lợi ích của các hộ sử dụng nước phía hạ lưu các lưu vực sông, hạ lưu các hồ chứa, đặc biệt quan trọng nhất là đảm bảo nguồn nước cấp cho sinh hoạt và sản xuất của người dân phía hạ du.

       Thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ triển khai lập quy hoạch tài nguyên nước trên các lưu vực sông. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành kế hoạch tổ chức lập quy hoạch của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Quyết định số 1977/QĐ-BTNMT ngày 31/7/2019, theo đó lĩnh vực tài nguyên nước từ nay đến năm 2025 sẽ triển khai thực hiện lập 15 quy hoạch gồm Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, 01 Quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước và 13 Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh gồm lưu vực sông: Bằng Giang - Kỳ Cùng; Srepok; Sê San; Hồng - Thái Bình; Cửu Long; Đồng Nai; sông Ba; sông Mã; sông Cả; Vũ Gia - Thu Bồn; sông Hương; Trà Khúc; Kôn - Hà Thanh.

       Tại điều 72 Luật tài nguyên nước năm 2012 đã có những quy định cụ thể về điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông. Bộ đang hoàn thiện hồ sơ thành lập 04 Ủy ban lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đồng Nai. Đồng thời, kiện toàn Ủy ban sông Mê Công Việt Nam trên cơ sở lồng ghép chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, Ủy ban lưu vực sông Cửu Long và Ủy ban lưu vực sông Sê san - Srepok. Ủy ban lưu vực sông được xác định là tổ chức phối hợp liên ngành, có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết việc điều hoà, phân phối nguồn nước, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ môi trường lưu vực sông, việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra và tham gia, phối hợp giải quyết các vấn đề có tính liên ngành, liên vùng, liên địa phương trên các lưu vực sông liên tỉnh thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.

      Theo Nghị định số 54/2015/NĐ-CP đã được Chính phủ ban hành thì đã có quy định về các chính sách ưu đãi các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả giúp cải thiện và nâng cao chất lượng nước, huy động các nguồn lực tài chính từ mọi thành phần trong xã hội. Cụ thể có các quy định ưu đãi về vốn, giảm miễn thuế đối với các hoạt động xây dựng công trình, lắp đặt thiết bị, áp dụng công nghệ sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.

      Thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục nghiên cứu các cơ chế phối hợp với các cơ quan chức năng, các địa phương, các ngành sử dụng nước trong việc chia sẻ lợi ích của các ngành trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước để đảm bảo hài hòa lợi ích của các tổ chức, cá nhân trong khai thác, sử dụng chung các nguồn nước nhằm thực hiện hiệu quả, đạt mục tiêu của Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020.


Nghiên cứu thay thế sử dụng túi ni lông bằng các loại túi, bao gói dễ phân hủy nhằm khắc phục tình trạng gây ô nhiễm môi trường

Câu hỏi:

Về việc cần nghiên cứu thay thế sử dụng túi ni lông bằng các loại túi, bao gói dễ phân hủy nhằm khắc phục tình trạng gây ô nhiễm môi trường do sử dụng túi ni lông gây ra ?

Trả lời:

        Bộ Tài nguyên và Môi trường đồng tình với kiến nghị của cử tri, đặc biệt trước vấn nạn rác thải nhựa ở Việt Nam hiện nay. Đây cũng là vấn đề đang được Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm chỉ đạo. Trong thời gian vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành, địa phương đã và đang tích cực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như: rà soát, đề xuất sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm giảm thiểu, tăng cường tái chế, tái sử dụng, ngăn chặn tác hại của rác thải nhựa đối với môi trường; đẩy mạnh các hoạt động truyền thông,  nâng cao nhận thức nhằm thay đổi thói quen tiêu dùng đối sản phẩm nhựa một lần của các doanh nghiệp, người dân và cộng đồng, khuyến khích sử dụng các sản phẩm thay thế, thân thiện môi trường; phát động phong trào toàn dân tham gia chống rác thải nhựa, cùng chung tay thành lập Liên minh chống rác thải nhựa.

        Tiếp thu ý kiến của cử tri, để đẩy mạnh phong trào chống rác thải nhựa, trong thời gian tới, các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục triển khai có hiệu quả Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 với mục tiêu cụ thể đối với chất thải rắn sinh hoạt đô thị: Sử dụng 100% túi ni lông thân thiện với môi trường tại các Trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt thay thế cho túi nilon khó phân hủy; hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu, sản xuất và cung cấp các loại túi nilon khó phân huỷ kể từ năm 2026 tại các trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt.

        Thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tập trung triển khai đẩy mạnh một số giải pháp sau:

   - Tham mưu cơ chế, chính sách mới nhằm hạn chế tình trạng rác thải nhựa gây ô nhiễm môi trường như: [i] trong quá trình xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo vệ môi trường, chú trọng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp và người dân đầu tư, sản xuất, sử dụng các loại vật liệu thân thiện với môi trường [trình Quốc hội trong năm 2020]; [ii] tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trong đó chú trọng các chế tài xử lý nghiêm đối hành vi xả rác thải gây ô nhiễm môi trường [trình Chính phủ trong năm 2020]; [iii] tham mưu Thủ tướng Chính phủ xem xét, sửa đổi Quyết định 73/2014/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 về danh mục phế liệu được phép nhập khẩu, theo hướng chỉ cho phép nhập các loại nhựa có giá trị tái chế cao; [iv] tham mưu Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 24/4/2015 về thu hồi sản phẩm thải bỏ theo hướng bổ sung đối tượng thu hồi là các bao bì nhựa….

   - Phối hợp với Bộ Tài chính và một số Bộ, ngành liên quan triển khai các giải pháp định hướng hoạt động sản xuất và tiêu thụ túi nilon thân thiện với môi trường trong nước như: tăng thuế bảo vệ môi trường đối với túi nilon khó phân hủy; tạo lập thị trường tiêu dùng cho các sản phẩm túi thân thiện với môi trường; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tái chế chất thải túi nilon khó phân hủy thành các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường; sản xuất các loại túi có khả năng tự phân hủy sinh học; khuyến khích tái sử dụng, sử dụng các loại túi thân thiện với môi trường.

    - Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thúc đẩy sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường. Bộ Tài chính, Bộ Công Thương phối hợp trong việc hoàn thiện quy định pháp luật thuế bảo vệ môi trường, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu/nộp thuế bảo vệ môi trường và chống gian lận thương mại để bảo hộ các sản phẩm đã được công nhận túi nilon thân thiện với môi trường; đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế bảo vệ môi trường.

     - Tập trung đẩy mạnh các hoạt động truyền thông cao nhận thức về tác hại của các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa, túi nilon sử dụng một lần đối với môi trường, hệ sinh thái và sức khoẻ con người; thường xuyên phát động các phong trào phòng chống rác thải nhựa; khen thưởng kịp thời các cá nhân, tổ chức có thành tích tốt trong phong trào chống rác thải nhựa hoặc sáng kiến có giá trị; nhân rộng các mô hình tốt về thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt và các mô hình nói không với rác thải nhựa.

      - Đôn đốc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện: Hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu, sản xuất và cung cấp các loại túi nilon khó phân huỷ kể từ năm 2026 tại các trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt; tuyên truyền, vận động và tổ chức ký cam kết chống rác thải nhựa, không sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần đối với các cơ sở sản xuất, các tổ chức phân phối sản phẩm, trung tâm thương mại, cửa hàng, nhà hàng, chợ, siêu thị; xây dựng và tổ chức thực hiện các mô hình điểm thực hiện hạn chế sử dụng túi khó phân hủy, chuyển từ việc sử dụng túi nilon sang các loại túi giấy và bao gói khác; thúc đẩy thị trường tiêu thụ túi thân thiện với môi trường; kiểm soát chặt chẽ các hoạt động sản xuất túi nilon khó phân hủy trên địa bàn, đặc biệt là nhóm sản xuất quy mô hộ gia đình.


Kiểm tra và xử lý nghiêm việc Nhà máy giấy tại xã Bình Trung, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, hàng ngày xả thải gây ô nhiễm dòng sông Phó Đáy

Câu hỏi:

Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo cơ quan chức năng kiểm tra và xử lý nghiêm việc Nhà máy giấy tại xã Bình Trung, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, hàng ngày xả thải gây ô nhiễm dòng sông Phó Đáy chảy qua thôn Vàng On, xã Trung Minh, thôn Coóc, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, để không làm ảnh hưởng đến đời sống, sức khỏe của người dân trong khu vực này ?

Trả lời:

        Nhà máy giấy và gỗ Bình Trung thuộc Công ty TNHH giấy và gỗ Bình Trung có địa chỉ tại huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Trong quá trình hoạt động, Công ty đã lập và được Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn phê duyệt các Báo cáo đánh giá tác động môi trường cho các Dự án Đầu tư xây dựng Nhà máy giấy đế xuất khẩu Bình Trung, huyện Chợ Đồn tại các Quyết định số 2257/QĐ-UBND ngày 12/11/2008 và số 207/QĐ-UBND ngày 02/02/2018. Trong năm 2018, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường tại Công ty. Tại thời điểm thanh tra, Nhà máy đang ngừng hoạt động do đang triển khai xây dựng, lắp đặt thiết bị theo Báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn phê duyệt tại Quyết định số 207/QĐ-UBND nêu trên. Ngoài ra, sau khi nhận được ý kiến phản ánh về việc gây ô nhiễm môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Kạn đã tiến hành kiểm tra đột xuất tại Công ty vào ngày 17/01/2019, theo đó xác định việc Nhà máy xả nước thải ra môi trường với lưu lượng lớn theo phản ánh của Ủy ban nhân dân huyện Chợ Đồn ngày 09/01/2019 là có thật. Nguyên nhân là trong quá trình cải tạo hệ thống xử lý nước thải, Nhà máy xả nước thải từ bể điều hòa [bể cuối cùng của hệ thống xử lý nước thải] bằng hình thức xả đáy ra môi trường [sông Phó Đáy] để láng đáy bể theo thiết kế. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Kạn đã ban hành Công văn số 227/STNMT-MT ngày 19/02/2019 yêu cầu Công ty bịt kín cửa xả đáy bể điều hòa, nghiêm cấm việc xả đáy nước thải từ bể điều hòa ra môi trường; khẩn trương hoàn thiện công trình, biện pháp bảo vệ môi trường, thông báo kế hoạch vận hành thử nghiệm và lập hồ sơ đề nghị xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường gửi Sở theo quy định. Đến nay, Công ty đã lập hồ sơ gửi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Kạn kiểm tra thực tế. Trên cơ sở kết quả kiểm tra thực tế, Sở đã yêu cầu hoàn thiện một số nội dung về bảo vệ môi trường. Hiện tại, Công ty đang hoàn thiện hồ sơ trước khi trình Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Kạn xem xét, xác nhận theo quy định.

         Ghi nhận ý kiến của cử tri, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo Tổng cục Môi trường phối hợp chặt chẽ với Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Kạn theo dõi, giám sát công tác chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường tại Công ty, xử lý nghiêm, kịp thời các vi phạm về pháp luật về bảo vệ môi trường nếu có theo quy định.


Tăng cường công công tác quản lý nhà nước đối với việc khai thác nước ngầm, tránh tình trạng khai thác ồ ạt gây ra tình trạng sụt lún ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long trong thời gian qua

Câu hỏi:

Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường tăng cường công công tác quản lý nhà nước đối với việc khai thác nước ngầm, tránh tình trạng khai thác ồ ạt gây ra tình trạng sụt lún ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long trong thời gian qua ?

Trả lời:

        Nguồn nước dưới đất vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có vai trò rất quan trọng để phục vụ cấp nước cho sinh hoạt cho nhân dân và phục vụ sản xuất để phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, do việc khai thác chưa hợp lý, chưa được kiểm soát chặt chẽ, thiếu quy hoạch dẫn đến nguồn nước dưới đất tại một số khu 38 vực vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đã bị hạ thấp mực nước quá mức, đặc biệt là tại các khu vực đô thị đã gây ra tình trạng xâm nhập mặn, sụt lún bề mặt đất.

       Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có nhiều giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên nước dưới đất, cụ thể: Bộ đã ban hành các Thông tư số 47/2017/TT-BTNMT quy định về giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước [trong đó có việc quan trắc, giám sát đối với các công trình khai thác, sử dụng nước dưới đất]; Thông tư số 74/2017/TT-BTNMT quy định về xử lý, trám lấp giếng khoan không sử dụng; Thông tư số 75/2017/TT-BTNMT quy định bảo vệ nước dưới đất trong các hoạt động khoan, đào, thăm dò, khai thác nước dưới đất.

       Đặc biệt, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2018/NĐ-CP ngày 26/12/2018 quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất [có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/02/2019], trong đó quy định cụ thể nguyên tắc khoanh định và áp dụng các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất; quy định việc phân loại các vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; quy định cụ thể phạm vi khoanh định các khu vực hạn chế và tổng hợp thành các vùng hạn chế khai thác; quy định các hình thức, biện pháp hạn chế khai thác sẽ được áp dụng đối với từng đối tượng khai thác trong từng loại vùng hạn chế khai thác; quy định trình tự thực hiện việc khoanh định, lập Danh mục và Bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; quy định trình tự, thủ tục lấy ý kiến, thẩm định, phê duyệt, công bố Danh mục và Bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; quy định trình tự lập, tổ chức lấy ý kiến, phê duyệt Phương án tổ chức thực hiện việc hạn chế khai thác nước dưới đất và tổ chức thực hiện Phương án sau khi được phê duyệt... nhằm kiểm soát, hạn chế khai thác nước dưới đất đối với các khu vực nguồn nước dưới đất có nguy cơ bị suy thoái, cạn kiệt.

        Nghị định số 167/2018/NĐ-CP của Chính phủ cũng quy định trách nhiệm của UBND cấp tỉnh là chỉ đạo tổ chức việc khoanh định, thẩm định, phê duyệt, công bố Danh mục, Bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trên địa bàn tỉnh; phê duyệt Phương án tổ chức thực hiện việc hạn chế khai thác nước dưới đất trên địa bàn tỉnh và chỉ đạo tổ chức thực hiện sau khi Phương án được phê duyệt. Đồng thời Nghị định cũng quy định các địa phương phải hoàn thành việc phê duyệt, công bố Danh mục và Bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trong thời hạn không quá 03 năm kể từ ngày Nghị định có hiệu lực thi hành.

        Ngoài ra, Bộ cũng đang chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án Chính phủ bảo vệ nước dưới đất các đô thị lớn [trong đó có một số đô thị tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long như: Cần Thơ, Mỹ Tho - Tiền Giang] và Đề án điều tra, đánh giá việc khai thác, sử dụng nước dưới đất, tác động đến sụt lún bề mặt đất khu vực thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng bằng sông Cửu Long, định hướng quản lý, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước dưới đất, trong đó một trong những mục tiêu của Đề án là đánh giá tác động của việc khai thác nước dưới đến sụt lún bề mặt đất, trên cơ sở đó đề xuất định hướng quản lý, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước dưới đất, giảm thiểu tác động đến sụt lún bề mặt đất. 

Đề nghị Bộ xem xét có đề án, chính sách khuyến khích dùng túi đựng sinh học để thay thế dần túi ni lông được sử dụng tràn lan như hiện nay

Câu hỏi:

Hiện nay, tình trạng rác thải nhựa đặc biệt là túi nilon được người dân sử dụng quá nhiều, trong khi túi nilon là rác thải khó phân hủy, gây ô nhiễm môi trường đất trong tương lai. Đề nghị Bộ xem xét có đề án, chính sách khuyến khích dùng túi đựng sinh học để thay thế dần túi ni lông được sử dụng tràn lan như hiện nay?

Trả lời:

Vấn đề cử tri nêu là một thực tiễn khá phổ biến hiện nay, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan gắn với thói quen tiêu dùng trong cuộc sống của đa số người dân. Năm 2013, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng túi nilon khó phân hủy trong sinh hoạt đến năm 2020 [Quyết định số 582/QĐTTg ngày 11/4/2013], trong đó đã xác định rõ quan điểm thay thế từng bước việc sử dụng túi nilon khó phân hủy bằng việc sử dụng các loại sản phẩm thân thiện với môi trường trong đời sông sinh hoạt cộng đồng. Năm 2018, Bộ tiếp tục phối hợp với Bộ Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 [Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07/5/2018] với mục tiêu cụ thể đối với chất thải rắn sinh hoạt đô thị: Sử dụng 100% túi nilon thân thiện với môi trường tại các Trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt thay thế cho túi nilon  khó phân hủy; hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu, sản xuất và cung cấp các loại túi nilon khó phân huỷ kể từ năm 2026 tại các trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt.

          Để góp phần giảm thiểu rác thải nhựa, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tập trung triển khai đẩy mạnh một số giải pháp sau:

      - Tham mưu cơ chế, chính sách mới nhằm hạn chế tình trạng rác thải nhựa gây ô nhiễm môi trường như: [i] trong quá trình xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, chú trọng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp và người dân đầu tư, sản xuất, sử dụng các loại vật liệu thân thiện với môi trường [trình Quốc hội trong năm 2020]; [ii] tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trong đó chú trọng các chế tài xử lý nghiêm đối hành vi xả rác thải gây ô nhiễm môi trường [trình Chính phủ trong năm 2019]; [iii] tham mưu Thủ tướng Chính phủ xem xét, sửa đổi Quyết định 73/2014/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 về danh mục phế liệu được phép nhập khẩu, theo hướng chỉ cho phép nhập các loại nhựa có giá trị tái chế cao; [iv] tham mưu Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 24/4/2015 về thu hồi sản phẩm thải bỏ theo hướng bổ sung đối tượng thu hồi là các bao bì nhựa….

      - Phối hợp với Bộ Tài chính và một số Bộ, ngành liên quan triển khai các giải pháp định hướng hoạt động sản xuất và tiêu thụ túi nilon thân thiện với môi trường trong nước như: bổ sung đối tượng chịu thuế đối với túi nilon khó phân hủy, tăng thuế bảo vệ môi trường đối với túi nilon khó phân hủy; tạo lập thị trường tiêu dùng cho các sản phẩm túi thân thiện với môi trường; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tái chế chất thải túi nilon khó phân hủy thành các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường; sản xuất các loại túi có khả năng tự phân hủy sinh học; khuyến khích tái sử dụng, sử dụng các loại túi thân thiện với môi trường.

       - Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thúc đẩy sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường. Bộ Tài chính, Bộ Công Thương phối hợp trong việc tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu/nộp thuế bảo vệ môi trường và chống gian lận thương mại để bảo hộ các sản phẩm đã được công nhận túi nilon thân thiện với môi trường; đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế bảo vệ môi trường.

        - Tập trung đẩy mạnh các hoạt động truyền thông cao nhận thức về tác hại của các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa, túi nilon sử dụng một lần đối với môi trường, hệ sinh thái và sức khoẻ con người; thường xuyên phát động các phong trào phòng chống rác thải nhựa; khen thưởng kịp thời các cá nhân, tổ chức có thành tích tốt trong phong trào chống rác thải nhựa hoặc sáng kiến có giá trị; nhân rộng các mô hình tốt về thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt và các mô hình nói không với rác thải nhựa.

       - Đôn đốc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện: Hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu, sản xuất và cung cấp các loại túi nilon khó phân huỷ kể từ năm 2026 tại các trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt; tuyên truyền, vận động và tổ chức ký cam kết chống rác thải nhựa, không sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần đối với các cơ sở sản xuất, các tổ chức phân phối sản phẩm, trung tâm thương mại, cửa hàng, nhà hàng, chợ, siêu thị; xây dựng và tổ chức thực hiện các mô hình điểm thực hiện hạn chế sử dụng túi khó phân hủy, chuyển từ việc sử dụng túi nilon sang các loại túi giấy và bao gói khác; thúc đẩy thị trường tiêu thụ túi thân thiện với môi trường; kiểm soát chặt chẽ các hoạt động sản xuất túi nilon khó phân hủy trên địa bàn, đặc biệt là nhóm sản xuất quy mô hộ gia đình.


Đề nghị giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trên lưu vực sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu Giang gây ảnh hưởng tới môi trường sản xuất và sinh hoạt của nhân dân

Câu hỏi:

Đề nghị giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trên lưu vực sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu Giang gây ảnh hưởng tới môi trường sản xuất và sinh hoạt của nhân dân ?

Trả lời:

           Bộ Tài nguyên và Môi trường chia sẻ với cử tri về tình hình ô nhiễm môi trường trên lưu vực sông lớn Nhuệ, sông Đáy, sông Châu Giang. Năm 2018, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo Tổng cục Môi trường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố: Hà Nội, Hà Nam, Hòa Bình, Ninh Bình và Nam Định tiến hành thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và có lưu lượng xả thải lớn, xả thải trực tiếp và gián tiếp ra lưu vực sông. Kết quả thanh tra, kiểm tra, Tổng cục Môi trường đã xử phạt vi phạm hành chính đối với 38 cơ sở trong tổng số 67 cơ sở được thanh tra, kiểm tra với tổng số tiền xử phạt gần 9 tỷ đồng.

          Nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường lưu vực sông Nhuệ - Đáy là do nước thải chưa được xử lý hoặc xử lý không đạt quy chuẩn trước khi thải ra môi trường. Trong khi hầu hết các khu công nghiệp đều có hệ thống xử lý nước thải tập trung và cơ bản tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường thì các cụm công nghiệp đã và đang xây dựng trạm xử lý tập trung chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ [dưới 30%], ngoại trừ thành phố Hà Nội [khoảng trên 60%]; nước thải làng nghề cơ bản không được thu gom và xử lý. Nguồn gây ô nhiễm môi trường lớn nhất là nước thải sinh hoạt, chiếm tỷ lệ lên tới 70% tổng lượng nước thải vào sông Nhuệ - sông Đáy nhưng không được thu gom, xử lý và thải thẳng ra nguồn tiếp nhận. Kết quả quan trắc chất lượng môi trường nước tại 42 điểm trên lưu vực sông Nhuệ

- Đáy do Tổng cục Môi trường thực hiện từ năm 2016 đến 2018 cho thấy: sông Nhuệ, sông nội thành Hà Nội và sông Châu Giang bị ô nhiễm các thông số DO, COD, BOD5, N-NH4+, TSS và có xu hướng gia tăng mức độ ô nhiễm qua các năm; sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Đào với đoạn từ điểm quan trắc cầu Mai Lĩnh và Ba Thá, nước bị ô nhiễm các thông số: DO, COD và N-NH4+; đoạn sông Đáy từ điểm Tế Tiêu xuống Trung Hiếu Hạ bị ô nhiễm thông số N-NH4 .

         Một trong những nguyên nhân cơ bản khác gây ô nhiễm nguồn nước lưu vực sông Nhuệ - Đáy là dòng chảy trên sông không đáp ứng được khả năng tự làm sạch chất ô nhiễm, đặc biệt là đối với sông Nhuệ. Biện pháp để giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước sông Nhuệ là đảm bảo dòng chảy tối thiểu thông qua việc tăng cường bổ sung nước từ sông Hồng [qua cống Liên Mạc]. Việc vận hành cống Liên Mạc hiện nay được thực hiện theo Quy trình kỹ thuật về quản lý khai thác và bảo vệ cống Liên Mạc ban hành năm 1968 và Quyết định số 105/2002/QĐ-BNN ngày 19/11/2002 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành Quy trình vận hành hệ thống công trình thủy lợi sông Nhuệ. Tuy nhiên, vào mùa khô khi mực nước sông Hồng thấp hơn cao trình vận hành của cống Liên Mạc thì không thể lấy nước từ sông Hồng vào bổ cập cho sông Nhuệ. Việc lấy nước chỉ thực hiện được trong các đợt các hồ chứa phía thượng lưu xả theo quy định của quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng, các ngày còn lại trong tháng 11 đến tháng 5 năm sau hầu như phải đóng cống để tránh chảy ngược nước từ trong hệ thống ra sông Hồng. Ngoài ra, trong những năm gần đây việc khai thác cát cũng diễn ra gần khu vực lấy nước của cống, dẫn đến tình trạng hạ thấp lòng dẫn, suy giảm mực nước sông Hồng nên cũng ảnh hưởng đến việc lấy nước trong mùa cạn của cống.

        Để giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường, đồng thời cải thiện chất lượng nước lưu vực sông Nhuệ - Đáy, đảm bảo đáp ứng cho mục đích sử dụng 45 theo quy định, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn số 3638/BTNMTTCMT ngày 29/7/2019 gửi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hà Nam, Hòa Bình, Ninh Bình và Nam Định đề nghị triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, bao gồm:

         Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: có biện pháp chặt chẽ kiểm soát nước thải, chất thải trong sản xuất nông nghiệp để giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước trong các kênh, mương tưới tiêu thủy lợi trên lưu vực; Tăng cường, phối hợp đẩy mạnh công tác thẩm định, cấp phép xả nước thải vào các công trình thủy lợi thuộc lưu vực sông Nhuệ - Đáy đặc biệt chú trọng công tác hậu kiểm; Nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh, bổ sung Quy trình kỹ thuật về quản lý khai thác và bảo vệ cống Liên Mạc ban hành năm 1968 và Quy trình vận hành hệ thống công trình thủy lợi sông Nhuệ theo hướng cập nhật năng lực vận hành các công trình thủy lợi đảm bảo duy trì dòng chảy tối thiểu [đặc biệt là vận hành cống Liên Mạc phù hợp theo lịch xả nước của quy trình vận hành liên hồ chứa trên sông Hồng]; Tiếp tục chỉ đạo thực hiện các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số: 937/QĐTTg ngày 01/7/2009 về việc Phê duyệt Quy hoạch tiêu nước hệ thống sông Nhuệ; Quyết định số 1821/QĐ-TTg ngày 07/10/2014 về việc phê duyệt Quy hoạch phòng, chống lũ và đê điều hệ thống sông Đáy. Theo đó, ưu tiên nội dung liên quan đến Trạm bơm cống Liên Mạc công suất 170 m3/s vào sông Nhuệ và đưa nước chủ động từ sông Hồng vào sông Đáy với công suất tối đa vào mùa kiệt là 170 m3/s.

          Đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội: Chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ các dự án cải thiện nguồn nước sông Nhuệ, sông Đáy, các dự án xử lý nước thải theo các quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Chỉ đạo việc vận hành các nhà máy xử lý nước thải, các công trình điều tiết nguồn nước hiện hữu nhằm đảm bảo giảm thiểu ô nhiễm nước sông Nhuệ, sông Đáy; Tiếp tục thực hiện các biện pháp cải thiện chất lượng môi trường sông Tô Lịch, chất lượng các hồ trên địa bàn, đặc biệt là các hồ nội đô; Chỉ đạo việc lập và ban hành danh mục nguồn nước nội tỉnh, trong đó xác định rõ các nguồn nước nội tỉnh trên lưu vực sông Nhuệ-Đáy; việc xác định, cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước theo quy định của pháp luật về tài nguyên nước; Quy hoạch các điểm tập kết chất thải rắn; tổ chức thu gom, xử lý toàn bộ chất thải rắn, chuyển giao cho đơn vị có chức năng xử lý đúng quy định; chấm dứt và xử lý nghiêm tình trạng thải chất thải rắn bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường; Kiểm soát chặt chẽ các nguồn xả nước thải và chất lượng nước sông Nhuệ, sông Đáy trước khi chảy vào địa bàn các tỉnh phía hạ lưu; Đầu tư hệ thống quan trắc chất lượng nước mặt tự động trên hệ thống sông Nhuệ - Đáy; xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu quan trắc chất lượng nước mặt, nước thải, hoạt động xả nước thải của các cơ sở xả nước thải và cơ chế quản lý, sử dụng phần mềm; Có cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ các hộ gia đình, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong làng nghề di dời hoạt động vào các khu, cụm công nghiệp.

            Đối với Ủy ban nhân dân các tỉnh: Hà Nam, Hòa Bình, Nam Định và Ninh Bình: Đẩy nhanh tiến độ đầu tư, xây dựng đưa vào vận hành các công trình xử lý nước thải, đặc biệt là hệ thống xử lý nước thải tập trung cho các khu đô thị, khu dân cư tập trung, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề trên địa bàn; Kiểm soát chặt chẽ các nguồn xả thải trên địa bàn, đặc biệt là những nguồn xả thải 46 lớn [trên 200 m3/ngày.đêm], xả thải trực tiếp ra lưu vực sông; Quy hoạch các điểm tập kết chất thải rắn; tổ chức thu gom, xử lý toàn bộ chất thải rắn, chuyển giao cho đơn vị có chức năng xử lý đúng quy định; chấm dứt và xử lý nghiêm tình trạng thải chất thải rắn bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường; Tăng cường tổ chức thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường tại các khu đô thị, khu dân cư tập trung [có chủ đầu tư hạ tầng]; các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; các khu, cụm công nghiệp, làng nghề có hoạt động xả thải vào lưu vực sông Nhuệ - Đáy; Đầu tư hệ thống quan trắc chất lượng nước mặt tự động trên hệ thống sông Đáy; xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu quan trắc chất lượng nước mặt, nước thải, hoạt động xả nước thải của các cơ sở xả nước thải và cơ chế quản lý, sử dụng phần mềm; Chỉ đạo việc lập và ban hành danh mục nguồn nước nội tỉnh, trong đó xác định rõ các nguồn nước nội tỉnh trên lưu vực sông Nhuệ-Đáy; việc xác định, cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước theo quy định của pháp luật về tài nguyên nước; có cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ các hộ gia đình, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong làng nghề di dời hoạt động vào các khu, cụm công nghiệp.

Tăng cường kiểm tra, giám sát và có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý dứt điểm tình trạng ô nhiễm môi trường, xả thải tại các khu công nghiệp, rác thải sinh hoạt trong nhân dân, nhất là vấn đề về rác thải nhựa trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Câu hỏi:

Đề nghị tăng cường kiểm tra, giám sát và có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý dứt điểm tình trạng ô nhiễm môi trường, xả thải tại các khu công nghiệp, rác thải sinh hoạt trong nhân dân, nhất là vấn đề về rác thải nhựa trên địa bàn tỉnh Hải Dương ?

Trả lời:

          Bộ Tài nguyên và Môi trường chia sẻ lo ngại của cử tri trước tình trạng ô nhiễm môi trường, xả thải tại các khu công nghiệp, rác thải sinh hoạt trong nhân dân, nhất là vấn đề về rác thải nhựa. Trong thời gian qua, để thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý các trường hợp vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường, đặc biệt là vấn đề xả thải gây ô nhiễm môi trường. Riêng đối với chất thải rắn, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2019, chính thức giao Bộ Tài nguyên và Môi trường giúp Chính phủ thống nhất quản lý chất thải rắn, trong đó có rác thải sinh hoạt, rác thải nhựa trên phạm vi cả nước.
           Thời gian tới, Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ các Bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp để hạn chế, khắc phục tình trạng nêu trên, cụ thể:

         - Trước mắt, đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án sửa đổi Luật bảo vệ môi trường, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, theo hướng kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường, tăng chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

           - Tiếp tục duy trì, phát huy hiệu quả hoạt động của đường dây nóng tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị của tổ chức và cá nhân về ô nhiễm môi trường của trung ương và địa phương; tập trung đẩy mạnh, làm tốt hơn việc tiếp nhận, xác minh và xử lý các thông tin; mở rộng hệ thống đường dây nóng đến cấp huyện, cấp xã nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vụ việc gây ô nhiễm môi trường, ngăn chặn đến mức thấp nhất các sự cố môi trường có thể xảy ra.

         - Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, nhất là thanh tra, kiểm tra đột xuất, tổ chức thanh tra, kiểm tra theo loại hình, vùng, theo hình thức cuốn chiếu để đánh giá đầy đủ, toàn diện, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các vi phạm. Tổ chức thanh tra theo vùng để nắm bắt và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về môi trường. Đồng thời tiếp tục chỉ đạo các địa phương duy trì hoạt động giám sát thường xuyên đối với các dự án lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Đẩy nhanh tiến độ kết nối truyền số liệu quan trắc môi trường của các cơ sở phát sinh chất thải lớn trực tiếp về Sở Tài nguyên và Môi trường để theo dõi, giám sát.

       - Tích cực chuẩn bị nội dung cho Hội nghị toàn quốc về công tác quản lý chất thải rắn, dự kiến tổ chức trong tháng 10/2019 để trao đổi, thống nhất các giải pháp lớn trong công tác quản lý chất thải rắn, bao gồm từ các giải pháp quản lý, các cơ chế, chính xác hỗ trợ đến các giải pháp về khoa học, công nghệ. Dự kiến sau Hội nghị này, Bộ sẽ xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn trên phạm vi cả nước, trong đó có vấn đề quản lý chất thải nhựa.

Kiểm soát chất lượng nước sinh hoạt

Câu hỏi:

Xin hãy cho biết, chủ trương và cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành trong việc thanh tra, kiểm tra, giám sát các công ty cung cấp dịch vụ nước phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân?

Trả lời:


Về nguyên tắc, các công ty cung cấp dịch vụ nước phục vụ đời sống, sinh hoạt của con người sau khi khai thác nguồn nước [nước thô] đều phải xử lý chất lượng nước, bảo đảm nước sau xử lý đạt quy chuẩn chất lượng cho ăn uống, sinh hoạt mới được cấp cho người dân.

Hiện nay, theo quy định của Luật tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước, bảo gồm việc quản lý chất lượng nguồn nước khai thác [nước thô] cho các mục đích khác nhau, trong đó có nguồn nước khai thác để cấp cho mục đích sinh hoạt. Còn việc quản lý chất lượng nước sau khi đã được xử lý [nước sạch] để cấp nước cho ăn uống và sinh hoạt của nhân dân được Chính phủ giao cho Bộ Xây dựng, đối với hệ thống cấp nước đô thị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đối với các hệ thống cấp nước nông thôn. Bô Y tế thống nhất quản lý về tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng nước cấp cho ăn uống và sinh hoạt của người dân. Do đó, việc kiểm tra, thanh tra, giám sát các công ty cung cấp dịch vụ nước sạch phục vụ đời sống, sinh hoạt thuộc phạm vi trách nhiệm của các Bộ nêu trên.

Tuy nhiên, để quản lý, bảo vệ chất lượng nguồn nước khai thác, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước [Nghị định số 43/2015/NĐ-CP] để quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động ven sông, ven hồ có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước; ban hành Thông tư Quy định việc xác định và công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt [Thông tư 24/2016/TT-BTNMT] nhằm kiểm soát các hoạt dộng có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước của các công trình khai thác nước để cấp cho sinh hoạt của nhân dân; ban hành Thông tư quy định về việc giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước [Thông tư 47/2017/TT-BTNMT] để giám sát tự động, trực tuyến hoạt động khai thác nước của các tổ chức, cá nhân, bao gồm cả việc giám sát chất lượng nguồn nước khai thác. Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã chỉ đạo quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động xả thải vào nguồn nước, quy định áp dụng tiêu chuẩn cao nhất đối với việc xả nước thải vào nguồn nước có mục đích khai thác nước để cấp nước cho sinh hoạt ngay từ khâu thẩm định, phê duyệt báo cáo, đánh giá tác động môi trường cũng như việc cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước.


Căn cứ hướng dẫn xác định, phân vùng nước lợ

Câu hỏi:

Trong quá trình triển khai thực hiện dự án Nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1 tại xã Long Đức, huyện Long Phú, Sóc Trăng tôi có gặp vấn đề vướng mắc, phân vân về phân loại nước khu vực là nước lợ hay không. Do nước sông Hậu tại khu vực NMNNĐ Long Phú 1 là với hàm lượng Clorua trung bình năm là 110 mg/l [thấp nhất 8,87 mg/l, cao nhất 1.703 mg/l] do thay đổi theo mùa khô, mưa [Xin xem kết quả phân tích nước sông Hậu gửi]. kèm. Xin Quý Bộ cho biết nước sông Hậu tại khu vực này được phân loại là nước lợ có đúng không? Nếu xác định là nước lợ thì theo Quy chuẩn QCVN 40:2011/BTNMT cột A quy định hàm lượng Clorua không phải xử lý khi xả vào nguồn nước lợ nước mặn. Vì vậy, Ban QLDA kính đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét cho ý kiến hướng dẫn về việc nhà máy LP1 xả thải vào nước sông Hậu [nếu được xác định là nước lợ] thì không cần thiết phải khử hàm lượng Clorua trong nước thải về dưới giá trị

Chủ Đề