Bố mẹ bác hồ là ai

Bà Hoàng Thị Loan sinh năm 1868 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong một gia đình có truyền thống Nho học. Cả hai gia đình nội, ngoại của bà đều giàu lòng thương người, trọng nghĩa khí, có cách nhìn tân tiến trong cuộc sống, vượt ra ngoài sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến đương thời. Chính bởi thế mà ngay từ khi sinh ra đến suốt cuộc đời, bà Loan vẫn khiến người đời ngưỡng mộ bởi tài, đức vẹn toàn.Lớn lên trong sự bao bọc và giáo dục của một gia đình tiến bộ, lại sống tại vùng quê giàu truyền thống văn hóa, bà Loan tiếp thu các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian rất nhanh, không chỉ thuộc nhiều điệu hò câu ví mà sự am hiểu của bà về các loại hình này cũng không ai bì kịp. Nổi tiếng với dung nhan xinh đẹp, duyên dáng, tình tình luôn nhã nhặn, nết na và cởi mở hết với tất cả mọi người, bà Loan còn được biết đến là một thiếu nữ chăm chỉ việc đồng áng và là một trong ít những thợ dệt lụa có tiếng trong vùng ngày đó.Vượt lên những quan niệm cổ hủ của xã hội lúc bấy giờ, bà Hoàng Thị Loan đem lòng yêu thương và kết hôn với ông Nguyễn Sinh Sắc - một người mồ côi cả cha lẫn mẹ được cụ tú Hoàng Xuân Đường [thân sinh bà Loan] xin về nuôi từ bé. Nhận thấy tư chất thông minh, chịu thương chịu khó của ông Nguyễn Sinh Sắc, cụ Hoàng Xuân Đường đã tác hợp cho ông bà nên duyên.Từ đó, ông Nguyễn Sinh Sắc được học tập trong tình yêu và sự giúp đỡ hết lòng của người vợ trẻ. Tình yêu, sự đảm đang, tháo vát và sự hy sinh thầm lặng cho gia đình của bà Hoàng Thị Loan là nguồn động viên lớn lao, cơ sở vững chắc trên con đường cử nghiệp của ông.Ngôi nhà tranh ba gian ghi đậm dấu ấn những tháng ngày vất vả nhưng đầm ấm, hạnh phúc của gia đình bà. Để chồng yên tâm học hành, ban ngày, bà Loan không quản ngại khó khăn, vất vả, một nắng hai sương lao động ngoài đồng ruộng; tối đến lại ngồi bên khung cửi, vừa dệt vải, vừa đưa võng ru con ngủ, nhiều đêm thức tới khuya để động viên chồng ôn luyện văn chương cho đỡ phần hiu quạnh.Hai ông bà có với nhau 4 người con là Nguyễn Thị Thanh [1884 - 1954], Nguyễn Sinh Khiêm [1888 - 1950], Nguyễn Sinh Cung [1890 - 1969] và Nguyễn Sinh Nhuận [1900 - 1901]. Cuộc sống gia đình tuy khó khăn nhưng tất cả mọi người đều yêu thương và hết lòng vì nhau.Nếu ảnh hưởng của ông Nguyễn Sinh Sắc đối với các con là nền học vấn với một nhân cách yêu nước thương nòi mang đậm tính nhân văn thì bằng tấm lòng nhân hậu và mẫn cảm của người mẹ, bà Hoàng Thị Loan đã vun trồng, uốn nắn, dạy dỗ con cái những bài học đầu tiên về đạo lý làm người. Bà đã truyền vốn hiểu biết văn học dân gian phong phú của mình cho con qua những lời ru ngọt ngào, chan chứa tình cảm. Chính điều này đã góp phần tạo nên tâm hồn rộng mở, tấm lòng nhân ái, nhen nhóm tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng trong tâm hồn cậu bé Nguyễn Sinh Cung.

 
 Khung cửi bà Hoàng Thị Loan đã ngồi dệt vải tại ngôi nhà ở làng Hoàng Trù
Nhờ có bà động viên, khuyến khích nên dù cuộc sống nghèo khó, khốn khổ ông Nguyễn Sinh Sắc vẫn gắng lòng cho sự nghiệp học hành. Khi ông Nguyễn Sinh Sắc lên Huế tu học, để hỗ trợ chồng, bà Hoàng Thị Loan đã gửi con gái đầu lòng mới 11 tuổi ở lại với mẹ già, rồi đưa hai con trai là Nguyễn Sinh Khiêm [7 tuổi] và Nguyễn Sinh Cung [5 tuổi] gồng gánh theo chồng vào Huế. Hình ảnh người vợ chân đi dép mo cau, vai quẩy đôi gánh, một bên là con nhỏ, một bên là cả gia tài mang theo, vượt qua chặng đường dài vào Huế giữa những cơn mưa rào, giữa những ngày nắng gắt không bao giờ phai mờ trong tâm trí của ông Nguyễn Sinh Sắc. Ở Huế, bà tảo tần làm nhiều nghề khác nhau để nuôi gia đình.Năm 1900, sau khi sinh người con thứ tư là Nguyễn Sinh Nhuận, cộng với sự vất vả khó nhọc trước đó bà Hoàng Thị Loan sinh bệnh nặng rồi qua đời ở tuổi 33, vào ngày 10/2/1901 [tức ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý]. Không lâu sau đó, người con trai út của bà vì sức khỏe kém cũng qua đời.

Thi hài của bà được mai táng ở núi Tam Tầng bên dòng sông Hương tại Huế. Năm 1922, hài cốt của bà được con gái Nguyễn Thị Thanh đưa về mai táng tại vườn nhà ở làng Sen. Năm 1942, cậu cả Nguyễn Sinh Khiêm cải táng thi hài bà tại ngọn núi Động Tranh Thấp trong dãy Đại Huệ. Năm 1984, để bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với người đã có công sinh thành và dưỡng dục Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh và lực lượng vũ trang Quân khu 4 thay mặt cho đồng bào và chiến sỹ cả nước đã xây dựng khu mộ của bà đàng hoàng, khang trang và đẹp đẽ trên núi Động Tranh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Sau khi đậu cử nhân ở quê nhà Nghệ An, ông Nguyễn Sinh Sắc vào Huế dự kỳ thi Hội năm Ất Mùi 1895. Kỳ thi này bảng vàng chưa ghi tên Nguyễn Sinh Sắc. Được sự giúp đỡ của ông Cao Xuân Dục - Tế tửu Quốc sử quán, Nguyễn Sinh Sắc về quê đưa vợ con vào Huế tiếp tục học để dự kỳ thi Hội lần sau. Nguyễn Sinh Sắc đưa vợ và hai con trai Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung [tên của Bác Hồ thời niên thiếu] vào Huế, để lại người con gái cả ở quê nhà. [Ba người con của Ông bà Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan lúc đó là Nguyễn Thị Thanh [mọi người hay nói chữ là thanh bạch], Nguyễn Sinh Khiêm [khiêm tốn], và Nguyễn Sinh Cung [cung kính]. Lần vào Kinh đô này, gia đình đã ở lại đây 6 năm, từ 1895 đến 1901. Ở Huế, nhờ sự tác động của ông Cao Xuân Dục, Nguyễn Sinh Sắc được vào học Trường Giám, có chút học bổng, ngoài giờ học ông phải đi chép thuê để nuôi gia đình. Thêm vào đó bà Hoàng Thị Loan vừa chăm sóc con, vừa làm thêm nghề dệt vải. 

Cha mẹ thân sinh và chị gái, anh trai của Bác Hồ.

Vào năm Mậu Tuất 1898, Nguyễn Sinh Sắc tham gia kỳ thi Hội ở Huế lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Bao nhiêu hy vọng vào thi cử thành mây khói. Thi không đậu Nguyễn Sinh Sắc mất luôn học bổng ở Trường Giám. Đời sống kinh tế trong gia đình suy sụp. Giữa lúc đó, ở làng Dương Nỗ, cách Huế 6 km về phía Đông, học trò trong làng đang cần chữ. Ông Nguyễn Viết Chuyên, là người cùng quê với ông Sắc làm việc ở Bộ Hình giới thiệu Nguyễn Sinh Sắc về dạy học. Đang lúc buồn vì thi hỏng, lại khó khăn về miếng cơm manh áo, anh cử Nguyễn Sinh Sắc đã nhận lời. Và cuối năm Mậu Tuất 1898 đó, anh để lại người vợ ở Thành Nội và đưa hai con trai về làng Dương Nỗ. Đã phải sống xa với bà ngoại và chị gái ở quê nhà, nay Nguyễn Sinh Cung lại phải sống xa mẹ.

Nghe tin anh cử Sắc về dạy học, dân làng Dương Nỗ và các làng xung quanh đều xin cho con học rất đông. Hai anh em Khiêm và Cung cũng học cùng. Ở đây Cung bắt đầu học chữ Hán. Một hôm, có người đem con đến xin học, thấy hai người con, thầy ngồi bên cạnh liền hỏi: Bẩm thầy, vì sao hai cậu không ở trên thành nội với mẹ mà lại theo thầy về đây? Thầy cử Sắc cười, thầy chỉ vào hai người con và nói đùa rằng: Thằng này là thằng Khơm [tức Khiêm], thằng này là thằng Côông [Tức Cung], Khơm, Côông là không cơm, nên bầy tui đi mô thì đem đi nấy để nhờ gia chủ nuôi. Đó là một sự thật vừa khôi hài, vừa xót xa, chua chát.

Chuyện kể lại rằng, thời gian học ở Dương Nỗ, Nguyễn Sinh Cung học rất thông minh, nhớ rất giỏi nhưng hiếu động, hay bỏ lớp đi chơi lang thang hoặc đi chơi  với trẻ chăn trâu. Thấy Cung thông minh và có trí nhớ, các học trò đều tin rằng cậu sẽ đỗ đạt, cha mẹ cậu sẽ được giàu sang, xóm làng sẽ được tiếng hiển vinh. Nhưng Cung thì không thích như thế, hàng ngày cậu hay chốn học đi chơi. Thấy cái gì thích thì cậu học. Cậu thường ra sông tắm mát, hay xuống quét lá rồi nằm ngủ trưa trên cái bệ trước am Bà ở làng phố Nam; Thích nghe kể chuyện đào sông Phổ Lợi [là một con sông đào lớn ở Huế được đào dưới thời Minh Mạng, hoàn thành vào năm 1836. Con sông đã được khắc hình trên Cửu đỉnh ở Huế-TG]; chuyện các họ được thờ trong ngôi nhà thờ 7 gian; chuyện làm đình Dương Nỗ. Một hôm, thấy Cung đang hỏi chuyện một chị buôn bán ngoài chợ, bạn rủ về, Cung nói: Các anh về học sau này thi đỗ ra làm quan… còn tôi thì chỗ nào thích tôi học.

Nhiều hôm sau giờ học, từ Dương Nỗ, hai anh em Khiêm và Cung rủ nhau về thăm mẹ. Mỗi lần về, hai cậu mang theo một chút lộc của cha có vài chén rượu nếp, năm ba quả trứng gà. Thăm mẹ xong, hai anh em lại đi bộ trở về Dương Nỗ, bất kỳ trời mưa hay đã muộn bởi vì sáng sớm hôm sau đi học, cũng còn vì nếu ở lại không có cái ăn.

Ba cha con ở Dương Nỗ từ năm Mậu Tuất 1898 đó cho đến mùa hè năm 1900, khi cử nhân Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở Trường thi Hương Thanh Hóa. Một điều đáng nhớ là khi đi coi thi, ông Nguyễn Sinh Sắc đem theo người con trai lớn Nguyễn Sinh Khiêm, còn Nguyễn Sinh Cung ở lại với mẹ và người em trai Nguyễn Sinh Xin mới sinh còn nhỏ. Một biến cố lớn đã đến với gia đình trong lần chia tay này. Đó là sức khỏe của bà Hoàng Thị Loan vì sinh thêm đứa con trong hoàn cảnh túng thiếu nên đã lâm bệnh và bà đã qua đời. Sau đó bé Xin vì khát sữa mẹ, quá yếu và cũng đi theo mẹ. Mẹ và em mất khi cha và anh vắng nhà. Ngôi nhà nhỏ trong thành nội ngập trong đau thương, nỗi đau ấy Nguyễn Sinh Cung phải chịu gấp bội phần vì chỉ có một mình không có người ruột thịt bên cạnh.


Làng Sen quê Bác ngày nay.

Trở lại Huế sau khi chấm thi xong, ông Nguyễn Sinh Sắc đem theo các con về Nghệ An. Thời kỳ ở Huế lần thứ nhất này, trong ký ức của tuổi thơ Nguyễn Sinh Cung là những gánh chịu tình cảnh hết sức éo le. Mẹ và em mất, Nguyễn Sinh Cung đã sống trong sự đùm bọc yêu thương của bà con lối xóm. Thêm nữa, so với quê hương xứ Nghệ thì ở Kinh thành Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm. Ở Huế, Nguyễn Sinh Cung cũng thấy có nhiều lớp người, những người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông quan Nam triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn nhưng lại khúm núm, rụt rè. Phần đông người lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục. Họ là những người nông dân rách rưới mà người Pháp gọi là bọn nhà quê, những phu khuân vác, những người cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố… Những hình ảnh đó đã in sâu vào ký ức Nguyễn Sinh Cung. Đó chắc chắn là những nhân tố góp phần hình thành nhân cách và quyết định đúng đắn của Nguyễn Tất Thành sau này.

Riêng ở Dương Nỗ, tuy sống ở đó không dài, chỉ hơn hai năm so với 10 năm cùng gia đình sống ở Huế. Nhưng sau này, khi gặp các cán bộ Thừa Thiên Huế, Bác vẫn nhắc nhớ về ngôi đình làng Dương Nỗ, Bến Đá, Am Bà và những nơi Người thường lui tới thời ấu thơ.

Vẫn sẽ còn nhiều điều phải tìm hiểu về thời kỳ gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Huế. Như cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói trong Bức điện gửi Hội thảo khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh tại Thừa Thiên Huế năm 1993: “Bác Hồ là một con người lạ lùng, một cuộc đời lạ lùng, với những hoạt động lạ lùng, đưa đến những thành tựu lạ lùng. Chính cái lạ lùng đó đã tạo nên sự huyền bí về một vĩ nhân trong lịch sử dân tộc mà chúng ta và con cháu mai sau vẫn mãi tìm tòi, suy ngẫm. Bởi vậy nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi trong và ngoài nước, nhiều chương trình cấp quốc gia đã đi sâu vào việc tìm hiểu con người và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng còn nhiều vấn đề chưa giải quyết thỏa đáng. Một trong những vấn đề chưa thỏa đáng đó là thời gian Bác Hồ sống ở Huế…với thời gian và cảnh vật của nó đã ảnh hưởng như thế nào đến sự hình thành con người Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.”

Bác Hồ thời trẻ.

Chúng ta biết sau khi đưa hai con trở về Nghệ An, năm 1901, ông Nguyễn Sinh Sắc lại trở lại Huế dự kỳ thi Hội lần thứ ba. Kỳ thi năm Tân Sửu đó ông đã đỗ Phó bảng. Và mãi đến năm 1906 ông mới nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ, trông coi việc học hành ở Quốc Tử Giám. Tháng 6 năm 1901, hai anh em Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung với tên mới là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế sống và làm việc đến tháng 7 năm 1909.

Huế là “quê hương thứ hai” nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống, học và lao động trong hai giai đoạn [1895 - 1901] và [1906 - 1909]. Nơi đây đã ghi những dấu ấn sâu đậm trong sự trưởng thành của tuổi trẻ Bác Hồ, nay vẫn được bảo tồn trong một hệ thống các di tích về gia đình Người: Đó là cụm di tích nằm trên trục đường Đông Ba [nay là đường Mai Thúc Loan] có ngôi nhà số 112 gia đình Người đã sống, Trường Tiểu học Pháp- Việt Đông Ba, nơi Nguyễn Tất Thành đã học; Có cụm di tích trên đường Lê Lợi với Trường Quốc học nơi Bác đã học, Tòa Khâm sứ Trung kỳ, nơi Nguyễn Tất Thành tham gia phong trào chống thuế năm 1908, có Bảo tàng Hồ Chí Minh, Chi nhánh Thừa Thiên Huế…

Cụm di tích tại làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang với Nhà lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số địa điểm như Đình làng, Bến Đá và Am Bà. Đó là nơi tuổi thơ Bác Hồ đã sống, trải nghiệm  những biến cố đầu tiên của gia đình, vào đúng năm Mậu Tuất 122 năm trước.

Theo thegioidisan.vn

Video liên quan

Chủ Đề