Các chính sách kích cầu của Việt Nam

Kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ [hay còn gọi tiêu dùng công cộng] để làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.

Biện pháp kích cầu cụ thể có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai. Kích cầu thường chỉ được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thoái, đang cần vực dậy. Kích cầu đặc biệt hay được sử dụng khi nền kinh tế rơi vào trạng thái bẫy thanh khoản, là khi mà chính sách tiền tệ trở nên mất hiệu lực vì lãi suất đã quá thấp.[1][2]

Kích cầu đôi khi còn được gọi là chính sách Keynes vì biện pháp này tác động tới tổng cầu. Trong cuốn Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, John Maynard Keynes cũng nhắc đến việc "chi tiêu thâm hụt" khi cần thiết để giúp nền kinh tế khỏi suy thoái. Tư tưởng của Keynes là nếu cần, chính phủ có thể chi tiêu ngân sách mạnh đến mức dẫn tới thâm hụt cả ngân sách nhà nước để kích thích tổng cầu.[3]

Theo nhà kinh tế Lawrence Summers, để biện pháp kích cầu có hiệu quả thì việc thực hiện nó phải đảm bảo: đúng lúc, trúng đích và vừa đủ.[1][4][5]

Đúng lúc tức là phải thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện sớm quá, kích cầu có thể làm cho nền kinh tế trở nên nóng và tăng áp lực lạm phát. Nhưng nếu thực hiện chậm quá, thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm. Việc thực hiện kích cầu đúng lúc càng phải được chú ý nếu các quá trình chính trị và hành chính để cho một gói kích cầu được phê duyệt và triển khai là phức tạp. Thường thì chính phủ phải đệ trình quốc hội kế hoạch kích cầu và phải được cơ quan lập pháp tối cao này thông qua. Và, không phải lúc nào công việc này cũng suôn sẻ.

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với việc thực hiện kích cầu đúng lúc chính là sự thiếu chính xác trong xác định thời điểm chuyên pha của chu kỳ kinh tế. Có trường hợp kinh tế đã chuyển hẳn sang pha suy thoái một thời gian rồi mà công tác thu thập và phân tích số liệu thống kê không đủ khả năng phán đoán ra.[1][6]

Trúng đích tức là hướng tới những chủ thể kinh tế nào tiêu dùng nhanh hơn khoản tài chính được hưởng nhờ kích cầu và do đó sớm gây ra tác động lan tỏa tới tổng cầu hơn; đồng thời hướng tới những chủ thể kinh tế nào bị tác động bất lợi hơn cả bởi suy thoái kinh tế. Thường thì đó là những chủ thể kinh tế có thu nhập thấp hơn. Người có thu nhập cao thường ít giảm tiêu dùng hơn so với người có thu nhập thấp trong thời kỳ kinh tế quốc dân khó khăn. Việc hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp để họ không phải giảm tiêu dùng hay thậm chí còn tăng tiêu dùng sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa, kích thích doanh nghiệp mở rộng sản xuất và thuê mướn thêm lao động.[1]

Để kích cầu trúng đich, các nhà hoạch định chính sách thường dựa vào các mô hình kinh tế lượng để mô phỏng hiệu quả của gói kích cầu qua các kịch bản khác nhau tương ướng với các mục tiêu khác nhau, từ đó tìm ra mục tiêu hợp lý nhất.

Vừa đủ tức là gói kích cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở nên tốt hơn. Nếu gói kích cầu quá bé thì kích thích sẽ bị hụt hơi và tổng cầu có thể không bị kích thích nữa, khiến cho gói kích cầu trở thành lãng phí. Ngược lại gói kích cầu lớn qua tạo ra tác động kéo dài khiến cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn trong trạng thái tiếp tục được kích thích thì sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức, lạm phát tăng lên. Điều này càng được chú ý nếu ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối nhà nước không dư dật.

Trong hai loại biện pháp cụ thể là giảm thuế và tăng chi tiêu ngân sách nhà nước, biện pháp thứ hai được cho rằng có hiệu suất kích thích tổng cầu cao hơn.[5][7]

Việc sử dụng kích cầu như một công cụ chính sách để ổn định kinh tế vĩ mô nhận được cả sự ủng hộ lẫn phản đối. Cuộc tranh luận về hiệu quả kích cấu năm trong một cuộc tranh luận lớn hơn về hiệu quả của chính sách tài chính và cuộc tranh luận về giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thì đằng nào có hiệu suất bình ổn kinh tế vĩ mô cao hơn.

Những người phản đối kích cầu đưa ra luận điểm rằng vì chính phủ không có khả năng xác định chính xác thời điểm, mục tiêu và lượng của gói kích cấu, nên kích cầu không những không hiệu quả mà còn đem lại thâm hụt ngân sách nhà nước và hệ quả tiếp theo là nợ chính phủ gia tăng. Có luận điểm nữa cho rằng khi chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tài chính cho kích cầu, lãi suất trên thị trường sẽ tăng lên làm ức chế đầu tư của xí nghiệp và tiêu dùng của cá nhân. Có luận điểm còn đi xa hơn, viện đến lý luận của Robert Barro [1974][8] về việc một chủ thể kinh tế điển hình có thể suy nghĩ rằng hôm nay chính phủ cho mình [có thể bằng giảm thuế hoặc chuyển khoản qua tăng chi tiêu chính phủ] tức là hôm nay chính phủ phải đi vay, ngày mai chính phủ phải trả nợ vay đó thì chính phủ sẽ lại lấy của mình bằng cách tăng thuế.

Những người ủng hộ kích cầu và rộng hơn là ủng hộ chính sách tài chính thì cho rằng nền kinh tế tồn tại những cái bất hoàn hảo mà một trong số đó là người tiêu dùng - nhất là những người có thu nhập thấp - vì lý do này hay khác [chẳng hạn như vì không đủ thông tin, vì không có công cụ tài chính, vì không có dự tính duy lý, v.v...] không thể ổn định tiêu dùng của mình. Một bộ phận lớn dân cư là những người "có tiền trả thì mới dám tiêu dùng". Chính vì vậy, một sự cắt giảm thuế tạm thời hay chuyển khoản tài chính có thể giúp những người này ổn định tiêu dùng, và do đó ổn định kinh tế vĩ mô.[9]

  1. ^ a b c d * Douglas W. Elmendorf and Jason Furman, "If, When, How: A Primer on Fiscal Stimulus," Strategy paper, the Brookings Institution, January 2008.
  2. ^ The Economist, "The next front is fiscal," 30 tháng 10 năm 2008.
  3. ^ The General Theory of Employment, Interest, and Money.
  4. ^ Lawrence Summers, "Why America must have a fiscal stimulus," Financial Times, ngày 6 tháng 1 năm 2008.
  5. ^ a b Chad Stone and Kris Cox, "Economic policy in a weakening economy: Principles for Fiscal Stimulus," Center on Budget and Policy Priorities, 11 tháng 1 năm 2008
  6. ^ Dynan, Karen E. and Douglas W. Elmendorf, "Do Provisional Estimates of Output Miss Economic Turning Points?" Federal Reserve Board, Finance and Economics Discussion Series 2001-52. tháng 11 năm 2001.
  7. ^ Peter Orszag and Joseph Stiglitz, "Tax Cuts Are Not Automatically the Best Stimulus: A Response to Glenn Hubbard," Center on Budget and Policy Priorities, 27 tháng 11 năm 2001.
  8. ^ Barro, Robert J., "Are Government Bonds Net Wealth?" Journal of Political Economy, University of Chicago Press, vol. 82[6], pages 1095-1117, Nov.-Dec.
  9. ^ Mankiw, N. Gregory, "The Savers-Spenders Theory of Fiscal Policy," American Economic Review, vol. 90, no. 2, pp. 120-25, tháng 5 năm 2000.

  • Alasdair Scott, "Making Fiscal Stimulus Effective During Downturns," IMFSurvey Magazine: IMF Research.
  • Jason Furman, "Fiscal Stimulus and Poverty,"
  • Harvard Kennedy School's Belfer Center for Science and International Affairs, "Fiscal Stimulus: What should be done now," 20 tháng 11 năm 2008.
  • John H. Cochrane [2009], Fiscal Stimulus, Fiscal Inflation, or Fiscal Fallacies? January 29.
  • Eugene F. Fama [2009], Bailouts and Stimulus Plans Lưu trữ 2009-11-19 tại Wayback Machine, January 13.
  • Brad Delong [2009], Time to Bang My Head Against the Wall Some More, January 26.
  • Paul Krugman [2009], A Dark Age of macroeconomics [wonkish], January 27.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Kích cầu.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kích_cầu&oldid=64605195”

Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng: Các gói kích thích kinh tế phải đúng trọng tâm, hiệu quả, kịp thời. Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Đó là trả lời của Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng đối với chất vấn của các đại biểu Quốc hội chiều 11/11 về một số vấn đề liên quan đến gói kích thích phục hồi kinh tế đang được xây dựng.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đặt vấn đề: “Chúng ta phải rút kinh nghiệm được gì và chưa được gì của gói kích cầu đầu tư những năm 2008-2009 để không vấp phải một lần nữa, phát huy được những mặt tốt, tránh những khiếm khuyết của chương trình trước đây”.

“Khi đó, chúng ta tập trung chủ yếu vào thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, kích cầu đầu tư, tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là 3 mục tiêu lớn nhất của chương trình lúc đó”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết.

Quy mô khi đó nước ta dành ra 122 nghìn tỷ đồng tương ứng với 6,9 tỷ USD. Riêng năm 2009, trong số 122 nghìn tỷ đồng đó, chúng ta đã tập trung thực hiện 100,6 nghìn tỷ đồng tương ứng với 5,7 tỷ USD và tương ứng với 5,6 % GDP lúc đó [khoảng 100 tỷ USD]. Các kết quả tích cực đã giúp đất nước vượt qua được khủng hoảng và là một trong số ít những nước có tăng trưởng dương. Năm 2008, chúng ta tăng trưởng 5,7% vào năm 2009 chúng ta tăng trưởng 5,4%.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng nhấn mạnh rất rõ những điểm chưa làm được của gói kích cầu kinh tế năm 2009. Dù tác động của gói này là giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, đạt được mức tăng trưởng dương vào thời điểm đó, nhưng cũng để lại những hệ lụy lớn khi chính sách thực hiện thiếu đồng bộ, thiếu giám sát.

“Mục tiêu của gói chính sách đó là kích cầu đầu tư, sản xuất, an sinh xã hội, nhưng không kiểm soát tốt, thiếu đồng bộ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, nên khi hỗ trợ lãi suất lớn, tiền không chảy vào sản xuất, mà chảy vào chứng khoán, bất động sản… Hậu quả là lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhìn nhận lại gói kích cầu năm 2009.

Bộ trưởng cũng thừa nhận, gói kích thích kinh tế này cũng có rất nhiều hạn chế, bất cập mà chúng ta cần phải rút kinh nghiệm. Đó là chính sách mới chủ yếu tập trung về phía cung, doanh nghiệp rất khó khăn về đầu ra, chúng ta hỗ trợ cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận được đầu ra.

Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ lãi suất thiếu đồng bộ với các chính sách tiền tệ và các chính sách tài khóa khác nên đã làm giảm hiệu quả, dẫn đến trục lợi chính sách. Tức là, vay vốn rồi gửi ngân hàng khác để hưởng chênh lệch. Tiền không chảy vào sản xuất mà chảy vào chứng khoán, bất động sản do chúng ta kiểm soát không chặt chẽ.

Điều này gây ra nhiều ảnh hưởng về ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát tăng cao trong thời kỳ này. Năm 2010, lạm phát của chúng ta là 9,2% còn năm 2011 là 18,6%.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, việc đầu tư dẫn đến dàn trải, nợ đọng, lãng phí, đình hoãn và nhiều dự án đến năm 2011 chúng ta dừng lại và cho đến nay không giải quyết được hậu quả. Nhiều gói hỗ trợ lãi suất đến nay chưa quyết toán được và để lại các hệ lụy rất lớn. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá của chúng ta thiếu sự chặt chẽ. Chính sách thực hiện trên nền kinh tế vĩ mô thiếu ổn định của giai đoạn trước. Tăng trưởng tín dụng luôn ở mức cao. Các chính sách hỗ trợ thì chưa sát thực tiễn. Những rào cản, điều kiện cho vay vốn của doanh nghiệp cũng chưa được công khai, minh bạch.

Chính vì vậy, gói kích thích kinh tế giai đoạn tới phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả, kịp thời, bảo đảm ổn định. Hỗ trợ thì phải có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số ngành, lĩnh vực có khả năng phục hồi. Hỗ trợ cho dòng tiền và ổn định tài chính và huy động các nguồn lực quốc tế khác. Đặc biệt là phải có kiểm soát rủi ro, có giám sát chặt chẽ trong thực hiện.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, chúng ta phải có chương trình tổng thể về phục hồi kinh tế với quy mô đủ lớn, đủ khả năng vay-trả và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Bây giờ chúng ta giải ngân đầu tư công còn chưa hết, vậy sắp tới có một cái gói kích cầu đầu tư thì phải làm sao giải ngân kịp trong năm 2022-2023. Đây là một thách thức đang đặt ra. Nếu chúng ta xây dựng một chương trình đầu tư như vậy mà công tác chuẩn bị, công tác giải phóng mặt bằng, công tác giải ngân như vừa qua thì không thể nào hấp thụ được. Có khi còn kéo dài đến 5-10 năm sau. Tất cả những vấn đề này đang là bài học và Bộ KH&ĐT đang nghiêm túc nghiên cứu, rút kinh nghiệm.

“Chúng tôi đã rút ra được 4 bài học kinh nghiệm để không lặp lại, làm cơ sở cho nghiên cứu, đề xuất và thực hiện các gói giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế tới đây”, Bộ trưởng cho hay.

Đó là, cần chương trình tổng thể, quy mô đủ lớn, tính đến khả năng vay trả và hấp thu của nền kinh tế; thực hiện đồng bộ, kịp thời các chính sách tài khóa-tiền tệ, mục tiêu hỗ trợ trọng tâm, trọng điểm, hỗ trợ dòng tiền cho doanh nghiệp; đặc biệt cần quan tâm công tác kiểm soát rủi ro, giám sát thực hiện chặt chẽ các gói hỗ trợ.

Hải Liên


Video liên quan

Chủ Đề