Các nhà khoa học Xanh- xi-mông, Phu-ri-ê Ô-oen là người đại diện cho trào lưu tư tưởng nào sau đây

MỞ ĐẦUTư tưởng XHCN không tưởng là một hệ thống các tư tưởng, các họcthuyết phản ánh ước mơ, khát vọng của con người về một xã hội tương laitốt đẹp, nhưng có tính chất không tưởng - thể hiện ở chỗ nó không chỉ rađược con đường và lực lượng xã hội cũng như điều kiện và phương thức đêthực hiện ước mơ khát vọng đó. Tuy nhiên CNXH không tưởng lại có mộtgiá trị vô cùng to lớn, làm nền tảng để các nhà triết học như Cac Mac, Angghen, Lê Nin phát triển thành khoa học, thành CNXH khoa học. Ph.Angghen đã cho rằng CNXH khoa học là sự tiếp nối Hangri Xanh Ximong[1760 – 1825], Sáclo phurie [1772 –1837] và Rôbot Owen [ 1771- 1858 ] 03 nhà tư tưởng tiêu biểu của CNXH không tưởng TK19- mặc dầu tất cảtính chất ảo tưởng và không tưởng trong các học thuyết của họ- thuộc vềnhững trí tuệ vĩ đại nhất…. và đã tiên đoán được một cách thiên tài vô sốnhững chân lý mà ngày nay chúng ta đang chứng minh sự đúng đắn củachúng một cách khoa học.Có thể thấy sự hình thành và phát triển tư tưởng XHCN là một dòngchảy liên tục của lịch sử nhân loại. Tư tưởng XHCN xuất phát từ nhữngước mơ lâu đời trong quá trình đấu tranh giai cấp của đông đảo nhữngngười lao khổ, nạn nhân của những chế độ người áp bức, bóc lột người vềmột xã hội công bằng, bình đẳng, không có tình trạng người áp bức bóc lộtngười và quan niệm về những con đường, giải pháp và những điều kiện tiếntới xã hội tương lai tốt đẹp. Tư tưởng XHCN thời cổ đại còn sơ khai đượcthể hiện tản mạn trong các câu chuyện thần thoại, truyện cổ tích dân gianvới nội dung phản ánh sự bất bình của quần chúng lao động đối với nhữnghành vi áp bức bóc lột của các tập đoàn, giai cấp thống trị; Phản ánh khátvọng của họ về một xã hội bình đẳng, công bằng, bác ái. Biện pháp để đạtđược những ước mơ khát vọng thường rất mơ hồ, thậm chí muốn quay vềquá khứ, ca ngợi chế độ bình quân của thời kỳ cộng đồng nguyên thuỷ.Tư tưởng XHCN thời trung đại [chế độ phong kiến] thể hiện trong cáctruyền thuyết tôn giáo cũnghản ánh khát vọng hạnh phúc của con ngườinhưng mang màu sắc tôn giáo, trong đó lấy Cơ đốc giáo sơ kỳ làm lýtưởng như: “đạo đức của chúa”, “nước thiên đàng”, “giang sơn ngànnăm của chúa” …; xây dựng các công xã nhỏ, trong đó áp dụng chế độtiêu dùng bình quân khổ hạnh. Biện pháp để đạt ước mơ là các cuộc khởinghĩa, các phong trào nông dân mang tính chất vô chính phủ.Từ cuối thế kỷ XV, chế độ phong kiến ở châu Âu bắt đầu suy tàn, quan hệsản xuất TBCN đã từng bước hình thành trong lòng chế độ phong kiến.Trong xã hội xuất hiện những giai cấp mới và những mâu thuẫn giai cấpđối kháng mới: đó là mâu thuẫn giữa quý tộc phong kiến với giai cấp tưsản mới hình thành, giữa tầng lớp giàu có với đông đảo quần chúng laođộng nghèo khổ. Hoàn cảnh đó đã làm xuất hiện và ngày càng phát triểnnhững trào lưu tư tưởng XHCN với nội dung và hình thức biểu hiện mới.Từ thế kỷ XVI – XVII, tư tưởng XHCN phát triển thành một trào lưu tưtưởng, một mặt phê phán những bất công của xã hội đương thời và mặtkhác phản ánh những khát vọng của nhân dân về một xã hội tương lai tốtđẹp. Các tư tưởng XHCN trong thời kỳ này được thể hiện dưới hình thứcvăn học với các tác phẩm văn học viễn tưởng như “Không tưởng” [Utopie]của T. Morơ, "Thành phố mặt trời"của T. Campanenla.Đến giai đoạn thế kỷ XVIII, các trào lưu tư tưởng XHCN dần dần đượcđúc kết thành lý luận, thể hiện trong các tác phẩm lý luận như tác phẩmLuật Tư do của Giêeắcdơ Uynxtenli, “Những di chúc của tôi” của GiăngMêliê, "Bộ luật của tự nhiên" của Morenly, "Quyền và nghĩa vụ công dân"của Gabrien Bonnơ Đờ Mabơly, "Tuyên ngôn của những người bình dân"của Grăccơ Babớp.Bước sang TK XIX, cùng với sự phát triển mới của CNTB, các tư tưởngXHCN phát triển thành một hệ thống các quan điểm lý luận và thể hiệnnhư là một học thuyết với 03 đại biểu tiêu biểu là Cơlôđơ Hăngri Đơ XanhXimông [1769 - 1825], Sáclơ Phuriê [1772 - 1837] và Rôbớt Ôoen [1771 1858].Có thể nói CNXH không tưởng đã có một quá trình phat triển lâu dài vàđạt đến đỉnh cao cào cuối TK XVIII, đầu TK XIX, với các nhà tư tưởngtiêu biểu là Cơlôđơ Hăngri Đơ Xanh Ximông [1769 - 1825], Sáclơ Phuriê[1772 - 1837] và Rôbớt Ôoen [1771 - 1858].CHƯƠNG VIIIHỌC THUYẾT KINH TẾCỦA CÁC NHÀ Xà HỘI CHỦ NGHĨA KHÔNG TƯỞNGChương này đề cập đến một trong hai khuynh hướng không tưởngtrong Kinh tế chính trị học: khuynh hướng hướng tới tương lai của các nhàXã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỷ XIX. Chương trước chúng ta đónghiên cứu khuynh hướng không tưởng của những người tiểu tư sản: quayvề với quá khứ. Vậy Chủ nghĩa xó hội không tưởng là gì? Đó là hình thứcđầu tiên của học thuyết Xã hội chủ nghĩa, có trước Chủ nghĩa cộng sảnkhoa học [chủ nghĩa Mác]. Nó xuất hiện cùng với sự ra đời của phươngthức sản xuất tư bản chủ nghĩa; là tiếng nói phản kháng của quần chúng laođộng chống lại bóc lột và chế độ làm thuê tư bản chủ nghĩa.Quá trình hình thành học thuyết của những người Xã hội chủ nghĩakhông tưởng có thể chia làm hai thời kỳ:-Thời kỳ sơ khai [Thế kỷ XVI – XVII]-Thời kỳ đỉnh cao [Thế kỷ XIX].I. CÁC NHÀ Xà HỘI CHỦ NGHĨA KHÔNG TƯỞNG THỜI KỲ SƠKHAI1. Tômat- Morơ [Thomas More 1478-1535]a. Sơ lược tiểu sử:- Thomas More là nhà tư tưởng – nhà văn nổi tiếng nhất nước Anhđầu thế kỷ XVI.-Xuất thân trong một gia đình quý tộc [luật sư]-26 tuổi đó vào nghị viện Anh.- 41 tuổi trở thành huân tước tể tướng [thủ tướng] nước Anh lúc bấygiờ.- Những ý tưởng tốt của More mâu thuẫn với nhà vua và ông bị quyvào tội phản quốc, bị bắt giam và bị kết án tử hình.- Sau 15 tháng giam cầm ông bị kết án bằng hình thức xử giảo[phanh thây]. Đến phút cuối cùng được nhà vua Henry VIII ra ân huệ:không phải phanh thây mà chặt đầu. Đó là tháng 7/1535.b. Tác phẩm:Lúc đầu tác phẩm của More có tên là: “Cuốn sách nhỏ về chế độ Nhànước tốt đẹp nhất và về hòn đảo mới – không tưởng”. Về sau này người tagọi tắt là tác phẩm “Không tưởng”.Xã hội “Không tưởng” mà More miêu tả là một xã hội cộng sản, mộtkhối kinh tế thống nhất được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tưliệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng và ruộng đất. Nhà nước mà đại diện là nghịviện sẽ tiến hành tổ chức sản xuất theo kế hoạch, tiến hành kiểm kê và thựchiện phân phối sản xuất. Nhà nước có thể điều tiết lực lượng lao động từkhu vực này sang khu vực khác. Nhà nước nắm giữ ngoại thương còn sảnxuất trực tiếp do các thành phố điều hành.Gia đình được coi là tế bào kinh tế của xã hội và mỗi gia đình làmmột nghề thủ công nhất định.Lao động nông nghiệp được xem là nghĩa vụ lao động theo nguyêntắc luân phiên hai năm một lần do Nhà nước điều hành.Nơi cư trú của dân cư và cơ quan điều hành là thành phố. Sản phẩmlà của chung và phân phối theo nhu cầu, điều này được Mo-rơ lý giải bằngsự “dồi dào sản phẩm” và “không có người lấy thừa”. Xã hội không cóngười ăn bám còn người lao động trí óc [điều hành] hay người lao độngchân tay là do khả năng và hợp với nguyện vọng của họ.Ngoài ra, ông còn đưa ra một số vấn đề cụ thể và rất tỉ mỉ về tổ chứcxã hội: các nhà chức trách là do dân bầu; những người nô lệ phải làmnhững công việc nặng nhọc; mọi thành viên đều ăn ở nhà ăn công cộng; 10năm phân phối lại nhà cửa một lần bằng hình thức rút thăm; thời gian làmviệc một ngày là 6 giờ, 8 giờ để ngủ, 10 giờ để giải trí và hoạt động vănhoá thể thao. Quy định tuổi kết hôn: nam giới 22 tuổi trở lên, nữ giới 18tuổi trở lên có quyền kết hôn và quyền ly hôn.Như vậy, những tư tưởng về một xã hội tốt đẹp được trình bày trongtác phẩm “Không tưởng” mang tính nhân đạo sâu sắc. Đó là nguyện vọngtự nhiên của con người khi còn những bất công và đau khổ xã hội, tư tưởngnhân đạo sẽ còn là tư tưởng chủ đạo cho các nhà xã hội chủ nghĩa khôngtưởng sau này.2. Tô-mát-đô Cam-pa-nel [Tomado Campanen 1538-1639]a. Sơ lược tiểu sử- Ông sinh ra trong một gia đình thợ giày ở Miền Nam nước Ý.- Là nhà văn, nhà triết học, nhà chính trị.- 1591 bị bắt do viết cuốn “Triết học của cảm giác”, bị giam một thờigian rồi được tha.- 1598 bị bắt lần thứ hai vì tham gia vào vận động quần chúng nổidậy chống thực dân Tây Ban Nha ở miền Nam nước Ý và lần này ông bị tù27 năm.- 1626 ông được ra tù nhưng 1 tháng sau bị bắt lại và bị giam 2 nămnữa.- Cuối đời ông sống lưu vong ở Pháp trong hoàn cảnh hết sức thiếuthốn và luôn bị toà án giáo hội bức hại.b. Tác phẩm:Đó là tác phẩm “Thành phố mặt trời” được viết trong thời gian ông ởtù. “Thành phố mặt trời” là một đất nước không còn chế độ tư hữu. Mọingười đều phải lao động theo khả năng của mình - thực hiện nguyên tắclàm theo năng lực và phân phối bình quân theo nhu cầu. Điều đặc biệt ởCampanen là ông coi mọi ngành sản xuất đểu coi trọng như nhau giống nhưcác bộ phận trong cơ thể. Ông giống More khi đưa ra quan điểm làm nôngnghiệp là bắt buộc và theo kiểu luân phiên 2 năm một lần. Ở “Thành phốmặt trời”, một ngày con người chỉ làm việc 4 giờ còn lại dành cho giải trí,khoa học và thể dục thể thao. Nhà nước sẽ kiểm soát để trong xã hội khôngmột ai dư thừa quá mức và không một ai bị thiếu thốn. Nhà nước có tiềnnhưng là để trao đổi buôn bán với nước ngoài còn trong “Thành phố mặttrời” chỉ có trao đổi hàng hoá trực tiếp.Nhà nước trong “Thành phố mặt trời” do hội nghị nhân dân chỉ ra vàcó quyền bãi miễn họ chỉ trừ 4 người gồm: một người tối cao và ba trợ lýcủa người tối cao đó. Người đứng đầu là mặt trời và ba trợ lý là sức mạnh:bảo vệ an ninh; trí tuệ: khoa học; tình yêu: hôn nhân sinh sản.Tổ chức xã hội trong “Thành phố mặt trời”: mọi người đều ăn ở nhàcông cộng, 6 tháng thay đổi một lần. Trong xã hội mặt trời, Campanenkhông nhắc tới gia đình, sự hôn phối do Nhà nước điều tiết và giống như“Nhà nước Platon” tất cả là của chung nhưng có kiểm soát để bảo đảm thếhệ sau tốt hơn, một xã hội cộng đồng có thể coi là tư tưởng chủ đạo trọnghệ thống quan điểm của Campanen. Theo ông đó là một xã hội lý tưởng,không có tham lam, đố kỵ, thù hằn, tự ái, keo kiệt, từ đó ông kết tội nhàcầm quyền hiện tại độc đoán, tư lợi, dám cản trở xã hội đi tới một trật tự tốtđẹp, lý tưởng.Việc ra đời một trật tự lý tưởng gắn với lý chí của con người đượcđạo đức xui khiến–theo quan điểm của Campanen: “Chúng tôi hình dungchế độ Nhà nước của chúng tôi không phải là một chế độ do Chúa ban cho,mà là một phát hiện ra bằng những duy lý triết học, và ở đây, chúng tôi xuấtphát từ khả năng của lý trí con người để chứng tỏ rằng chân lý của kinhphúc âm là phù hợp với tự nhiên”.Rõ ràng là những tư tưởng của Campanen về thành phố mặt trời tỉ mỉvà chi tiết hơn so với “Không tưởng” của More, điều đó do hoàn cảnh củaxã hội nước Ý quy định. Sau này trong “Chống Đuy-rinh”, Engels đã cónhững nhận xét hết sức tinh tế: Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng càngtỉ mỉ chi tiết bao nhiêu thì càng rơi vào không tưởng bấy nhiêu và chúngvẫn chỉ là thứ chủ nghĩa cộng sản “còn thô kệch” và “chưa được đẽo gọt”.Dẫu vậy, chính Mác và Ăngghen - những nhà sáng lập của chủ nghĩa cộngsản khoa học đánh giá cao những đóng góp của Campanen trong việc xâydựng và truyền bá hệ tư tưởng cộng sản ngay từ những ngày đầu trong quátrình phát triển của chủ nghĩa tư bản.Mặc dầu “Thành phố mặt trời” còn mang nặng tính chất tôn giáo,nhưng những tư tưởng về bình đẳng xã hội và quyền tự do của con ngườitoát lên chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.Ngoài ra còn có thể kể đến một số đại biểu không tưởng của thế kỷXVII như: Giê-rac Uynxtenli [1609-1652] ở Anh. Trong tác phẩm của ôngđã có một số tư tưởng độc lập, nhưng nhìn chung toàn bộ hệ thống tư tưởngcủa Uynxtenli mang nặng tính chất duy tâm thần bí và màu sắc tôn giáo,ngây thơ tin rằng đổi mới xã hội bằng con đường cải cách hoà bình.Đến thế kỷ XVIII, có một số đại biểu không tưởng:- Giăng Mêriê [1664-1729]: nhà duy vật vô thần Pháp-Frăng xoa Môrenly [không rõ năm sinh năm mất]: nhà triết họcduy tâm chủ quan.- Gabrien Bônnô Đơ Mably [1709-1785]- Grắc cơ Babớp [1760-1797]: bị kết án tử hình. Chủ nghĩa Babớpđược coi là cầu nối giữa xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỷ thứ XVI vớiXã hội Chủ Nghĩa không tưởng thế kỷ XIX ở Tây Âu.II. CÁC NHÀ Xà HỘI CHỦ NGHĨA KHÔNG TƯỞNG THỜI KỲĐỈNH CAO [THẾ KỶ XIX]Thế kỷ XIX với 3 nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng nổi tiếng có ảnhhưởng trực tiếp đến tư tưởng của các nhà sáng lập Chủ nghĩa cộng sản khoahọc. Đó là:-Saint Simon [Pháp]-Fourier [Pháp]-Owen [Anh]1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của Chủ nghĩa xã hội không tưởngthế kỷ XIXa. Hoàn cảnh ra đờiChủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp và Anh ra đời trong điều kiệnvề lịch sử, kinh tế, xã hội hết sức thuận lợi. Cuộc cách mạng công nghiệpAnh thế kỷ XVIII và cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 – 1794 và sau đó làcuộc cách mạng công nghiệp. Một mặt cuộc cách mạng công nghiệp làmcho kinh tế phát triển; mặt khác đưa tới sự phân hóa giai cấp: giai cấp tưsản bóc lột và giai cấp vô sản làm thuê.Những biến động chính trị ở nước Pháp từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thếkỷ XIX đó là cuộc đấu tranh giữa thế lực phong kiến, tư sản tự do và dânchủ cách mạng.Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản bắt đầu bộc lộtính chất bóc lột phản động của nó. Tuy nhiên, giai cấp công nhân côngnghiệp chưa thực sự lớn mạnh và có phong trào rộng khắp. Chính vì vậy,việc chống lại chủ nghĩa tư bản dưới hình thức của Chủ nghĩa xã hội khôngtưởng trở nên tất yếu và phổ biến. Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởngđã đưa ra hệ thống quan điểm phong phú và độc đáo, họ mường tượng ramột xã hội mới công bằng và hấp dẫn hơn chủ nghĩa tư bản và họ tin rằngcó thể dựa vào lòng tốt, lòng từ thiện của con người sẽ có được Chủ nghĩaxã hội ngay trong lòng xã hội tư bản. Điều này được Ăngghen lý giải đó làtình trạng sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa chín muồi, tình trạng giai cấpchưa chín muồi thì lý luận thích hợp - một xã hội được mường tượng ra vàcác giải pháp thực hiện cũng là chưa chín muồi…b. Đặc điểm cơ bảnCông lao lớn nhất mà các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỷthứ XIX đem đến cho tư tưởng chung của nhân loại là:- Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán chủ nghĩa tư bản theo quanđiểm mới tiến bộ hơn. Họ hướng con người tới tương lai tốt đẹp đang ởphía trước, điều đó khác hẳn về nguyên tắc so với trào lưu tư tưởng tiểu tưsản một khuynh hướng không tưởng của kinh tế chính trị học mà đại biểulà Sismondi. Họ đã phê phán Chủ nghĩa tư bản không phải dưới góc độluân lý, đạo đức mà theo quan điểm lợi ích kinh tế. Chủ nghĩa tư bản kìmhãm sự phát triển của xã hội và nó phải được thay thế bằng mô hình xã hộimới tốt đẹp hơn. Họ vạch rõ, Chủ nghĩa tư bản không phải tồn tại vĩnhviễn, điều đó thể hiện quan điểm lịch sử tiến bộ của họ.- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Tây Âu thế kỷ XIX lần đầu tiên đặtvấn đề Chủ nghĩa xã hội là một hệ thống tổ chức sản xuất mới có năng suấtlao động cao hơn Chủ nghĩa tư bản dựa trên nền tảng của sản xuất là nềnđại công nghiệp cơ khí. Một xã hội mà ở đó con người có đầy đủ điều kiệnđể phát triển tự do, toàn diện, văn minh hơn mặc dầu các nhà Xã hội chủnghĩa không tưởng đã phê phán thậm chí lên án Chủ nghĩa tư bản đã đưa ramô hình về một xã hội tương lai nhưng họ đã chưa tìm được con đườngđúng đắn, khoa học để tới Chủ nghĩa xã hội. Họ chưa nhận thức được quyluật vận động của Chủ nghĩa tư bản và chính họ chưa thấy được sứ mệnhlịch sử của giai cấp vô sản và sức mạnh của quần chúng lao động. Họ chủtrương xây dựng xã hội mới bằng các biện pháp không tưởng: tuyên truyền,giáo dục, giác ngộ lòng tốt của giai cấp tư sản, từ một vài xí nghiệp nêugương dần dần sẽ lan ra toàn xã hội. Chủ nghĩa xã hội không tưởng phảnánh giai đoạn chưa chín muồi của phong trào công nhân tức là chưa chuyểntừ tự phát sang tự giác.Tuy nhiên, những dự kiến thiên tài về một xã hội tương lai của cácnhà Xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỷ XIX đã được chính Mác vàĂngghen kế thừa và phát triển để xây dựng lý luận về Chủ nghĩa cộng sảnkhoa học, nó xứng đáng là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác:triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học Anh và Chủ nghĩa xã hội khôngtưởng phê phán Pháp.2. Học thuyết kinh tế của Xanh-xi-mông [Saint Simon]a. Sơ lược tiểu sử-Saint Simon [1765-1825]: nhà văn+ Là đại biểu nổi tiếng của Chủ nghĩa xã hội không tưởng.+ Xuất thân dòng dõi quý tộc Pháp+ Là người tài năng, có học vấn rộng. Đã từng tham gia cuộc chiếntranh ở Bắc Mỹ, được phong hàm đại tá.-Những tác phẩm của Saint Simon:+ Những bức thư của người dân Giơnevơ gửi những người cùng thời[1803]+ Khái luận về khoa học và con người [1813]+ Những bức thư gửi một người Mỹ [1817]+ Quan điểm về sở hữu và pháp chế [1818]+ Bàn về hệ thống công nghiệp [1821]+ Cẩm nang của các nhà công nghiệp [1823]+ Đạo cơ đốc mới - cuộc đàm thoại của kẻ bảo thủ với người đổi mới[1825]b. Quan điểm lịch sử tiến bộ của Saint SimonThừa nhận sự phát triển của xã hội diễn ra theo quy luật - lịch sử làmột quá trình phát triển liên tục thống nhất: xã hội được tổ chức cao hơnthay thế xã hội có tổ chức thấp hơn. Sự thay thế giữa các giai đoạn khácnhau phụ thuộc vào nhận thức của con người.Saint Simon coi động lực phát triển xã hội là những nhận thức khoahọc, sự tiến bộ của lý trí và tình cảm đạo đức của con người. Ông đã dànhsự chú ý đáng kể đến nhân tố kinh tế như hoạt động của con người trongnền sản xuất và chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất…Nhân tố khoa học trong quan điểm lịch sử của Saint Simon là sự thừanhận sự phát triển của xã hội có tính quy luật và ngày càng hoàn thiện hơn.Hơn hẳn những người tiểu tư sản, ông khẳng định: tương lai loàingười đang ở phía trước chứ không phải “thời đại hoàng kim” đã đi qua.Điều đó cũng có nghĩa ông đã bác bỏ về nguyên tắc đối với Kinh tế chínhtrị tư sản cho rằng Chủ nghĩa tư bản là tự nhiên và tồn tại vĩnh viễn.Hạn chế trong quan điểm lịch sử của ông đó là ông chưa thấy độnglực thực sự để phát triển xã hội đó là cuộc đấu tranh giai cấp để nhằm thiếtlập trật tự xã hội mới phù hợp hơn.“Đạo cơ đốc mới” tác phẩm cuối cùng tổng kết toàn bộ tư tưởng củaSaint Simon là những phát ngôn của giai cấp cần lao và ông tuyên bố giảiphóng giai cấp cần lao là mục đích cuối cùng của đời ông [ý Mác].c. Sự phê phán Chủ nghĩa tư bản của Saint SimonÔng phê phán cả chế độ phong kiến và Chủ nghĩa tư bản nhưngkhông phải bao giờ cũng phân định rõ ràng. Ông vừa tố cáo triều đình,quan lại, quý tộc và tăng lữ ăn bám. Xã hội tư sản là sự thống trị của cánhân, ích kỷ làm cho một số người thì giàu lên còn số khác thì bị phá sảnvà nghèo khổ. Ở đó các nhà công nghiệp không nghĩ đến lợi ích xã hộidùng các biện pháp bóc lột bằng bạo lực và lừa bịp, chính phủ tư sản đãkhông chăm lo đến lợi ích của người lao động.Trong phân tích về kết cấu giai cấp của xã hội tư sản, Saint Simonkhông đi xa hơn quan điểm của những người trọng nông: khi ông xếpnhững nhà công nghiệp bao gồm: công nhân, nhà tư bản, thương nhân, cònquý tộc, thầy tu, cha cố … ông gọi chung là “giai cấp không sinh lợi”.Lần đầu tiên Saint Simon vạch trần tính chất bất hợp lý của xã hội tưsản, phê phán mạnh mẽ tình trạng sản xuất vô chính phủ, sự cạnh tranh gaygắt dẫn đến khủng hoảng, phá sản nhưng ông không đả động gì đến bóc lộtlao động làm thuê trong sản xuất tư bản chủ nghĩa.d. Những dự đoán về xã hội tương lai hay hệ thống công nghiệp mớiSự quan tâm lớn nhất của Saint Simon là vấn đề cải cách xã hội. Xãhội mới đó là một xã hội tương lai hay hệ thống công nghiệp mới. Ở đó, sựlãnh đạo thuộc về các nhà công nghiệp và các nhà bác học. Sự tồn tại chínhquyền nhà vua bên cạnh quyền lực của các nhà công nghiệp là dự kiến độcđáo của Saint Simon về một xã hội tương lai. Chính quyền bảo đảm nhữngđiều kiện vật chất tốt nhất từ thức ăn, quần áo, nhà ở và cả vui sướng, hạnhphúc về tinh thần. Khi xã hội đã phát triển cao thì sẽ không cần tới bộ máyNhà nước nữa.Một điểm cần lưu ý là Saint Simon đã không khẳng định xoá bỏ chếđộ tư hữu và cũng không khẳng định phải thiết lập chế độ công hữu, nhưngNhà nước phải lập kế hoạch còn các nhà công nghiệp phải phục tùng ở mứcđộ nhất định. Ông không đặt vấn đề thủ tiêu sở hữu nói chung và cho rằngsự tồn tại của quyền sở hữu là cần thiết.Trong “xã hội công nghiệp mới” mỗi người làm việc theo năng lựcvà được trả công theo lao động. Đó là sự bình đẳng được bảo đảm tối đa vìtheo ông, tất cả mọi người lao động đều gắn bó với nhau và người lao độngchân tay hay người lao động trí óc đều được trả công xứng đáng. Ôngkhông thừa nhận đặc quyền dòng họ đã tồn tại trong xã hội từ trước tới nay.Thái độ của Saint Simon đối với giai cấp vô sản là tiến bộ, ông kêugọi chính quyền phải để cho những người vô sản có một vị trí chính trịquan trọng cao nhất. Saint Simon cho rằng tính chất quản lý xã hội trong xãhội tương lai có sự thay đổi: từ đối tượng là con người sẽ dần dần chuyểnsang đối tượng là vật. Tính chất không tưởng trong dự án về một xã hộitương lai của Saint Simon đó là không cần phải cải tạo cơ sở kinh tế củachế độ cũ mà dựa vào các biện pháp tinh thần và lòng tốt chung chung.Ông đã không hiểu chính những mâu thuẫn về lợi ích của các giai cấp và sựđấu tranh để giải quyết các mâu thuẫn đó là động lực cho sự phát triển củaxã hội.Quan niệm về một xã hội mới hoàn thiện và tiến bộ hơn so với Chủnghĩa tư bản là quan niệm khoa học mang tính chất phương pháp luận sâusắc có ảnh hưởng về sau này.Học thuyết của Saint Simon là không tưởng và chưa chín muồi, songnhững tư tưởng về một xã hội tương lai có vai trò quyết định của khoa họckỹ thuật và các nhà bác học, đặc biệt với tấm lòng thiết tha mong muốnmột cuộc sống tốt đẹp cho những người cần lao mang ý nghĩa nhân đạo tolớn.3. Học thuyết kinh tế của Fu-ri-ê [Fourier]a. Sơ lược tiểu sửFrancois Marie Charles Fourier [1772-1839] là điển hình thứ 2 củaChủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán ở Pháp. Xuất thân trong một giađình thương nhân miền Đông nước Pháp. Ông nghiên cứu vật lý, hoá học,giải phẫu, giỏi về vật lý, toán, lôgic nhưng bố mẹ ông lại cố đào tạo ôngthành thương nhân.- Ông đi học buôn bán qua nhiều nước, làm nhiều nghề: thủ quỹ, kếtoán, theo dõi thị trường chứng khoán.b. Các tác phẩm chính+ “Sự hoà hợp toàn thế giới” 1803.+ “Lý thuyết về 4 giai đoạn và những số phận chung” 1808.+ “Lý thuyết về hiệp hội gia đình và công nghiệp” 1822.+ “Thế giới kinh tế mới - Xã hội chủ nghĩa” 1829.c. Các lý luận cơ bản* Lý thuyết về lịch sử phát triển xã hộiFourier phân chia lịch sử xã hội thành 4 giai đoạn: Trạng thái môngmuội - thời dã man - chế độ gia trưởng - thời văn minh [Chủ nghĩa tư bản].Ông tỉ mỉ lập ra sơ đồ gồm 32 thời kỳ phát triển từ thấp đến cao: thơ ấu –niên thiếu - trưởng thành - già cỗi. Mỗi giai đoạn gồm những nhân tố củaquá khứ và mầm mống tương lai. Ông chứng minh rằng: thời văn minh[Chủ nghĩa tư bản] đã trải qua thời thịnh vượng và bước vào thời kỳ suyvong sau đó sẽ là nền sản xuất Xã hội chủ nghĩa công bằng và hấp dẫn [nềnkỹ nghệ]. Ăngghen đã đánh giá sự vĩ đại của Fourier biểu hiện rõ rệt nhất ởquan niệm của ông về lịch sử xã hội. Ở đây ông đã thấy tính quy luật trongquá trình phát triển xã hội, quá trình phát triển của sản xuất gắn liền với sựphát triển xã hội.* Sự phê phán Chủ nghĩa tư bảnĐặc điểm nổi bật nhất của Fourier trong khi phê phán Chủ nghĩa tưbản là tính chất gay gắt, sâu sắc và toàn diện. Ông đổ tội cho thương nghiệplà nguyên nhân của mọi tai hoạ: dối trá, ăn cắp, lừa đảo, không biếtngượng, đầu cơ, nâng giá. Vì thế ông cho rằng cần phải xoá bỏ tận gốc tấtcả các trò gian lận trong thương mại mà cha đẻ của nó là chế độ chủ nghĩatư bản.Fourier cho rằng chỉ có lao động trực tiếp mới là lao động sản xuất,mà trong xã hội có quá nhiều kẻ ăn bám của chế độ chủ nghĩa tư bản đãphung phí lao động và hình thành nên đội ngũ đông đảo những ngườikhông sản xuất. Theo ông, ngoài các nhà công nghiệp, bác học, bác sĩ cònlại cả phụ nữ, trẻ em, người già, người giúp việc trong nhà, quân nhân,công chức, nhân viên thuế vụ, 9/10 số thương nhân, những công nhân sảnxuất ra sản phẩm xấu, tù nhân, trộm cắp, lừa đảo và các nhà hoạt độngchính trị, những công nhân sản xuất vũ khí, xây dựng nhà tù … thì đều lànhững kẻ ăn bám. Có lẽ ý định của Fourier muốn phân chia xã hội thànhnhững người sản xuất vật chất và phi sản xuất vật chất. Tuy nhiên, kết luậncủa ông cho rằng chỉ có trong chủ nghĩa tư bản mới có lao động không sảnxuất còn tiến đến chủ nghĩa xã hội sẽ không còn là không sản xuất. Nhưvậy ông đã không hiểu được quá trình có tính quy luật của phát triển kinhtế xã hội là số người trực tiếp sản xuất ngày càng giảm, số người hoạt độngtrong lĩnh vực dịch vụ ngày càng tăng. Điều đó có được là nhờ năng suấtlao động xã hội ngày càng tăng, kết quả của sự phát triển lực lượng sảnxuất.Fourier lên án xã hội đương thời về tính chất sản xuất vô chính phủbị chi phối bởi lợi ích cá nhân và hậu quả sẽ dẫn đến sự cạnh tranh khốcliệt, khủng hoảng kinh tế và những người lao động bị bần cùng. Ở nướcAnh, các xí nghiệp tư bản như những “nhà tù”, giai cấp tư sản thì giàu cósống xa hoa, còn người nghèo sống như súc vật. Theo ông “sự nghèo đóichính là do sự thừa thãi sinh ra” nỗi bất hạnh lớn nhất của quần chúng laođộng là bị thất nghiệp.Thái độ cực đoan đối với thương nghiệp của Fourier dẫn ông đếnnhững đánh giá thiếu khách quan và khoa học. Ông cho rằng thươngnghiệp tư bản chủ nghĩa “làm đình chỉ lưu thông, gây cho người ta nỗi lo sợđiên cuồng” và con người trong xã hội tư bản như những con sói chỉ chựcnuốt chửng lẫn nhau… Rõ ràng, ông đã chưa hiểu đúng bản chất và nguồngốc của thương nghiệp Tư bản chủ nghĩa thậm chí ông còn đối lập nó vớicông nghiệp, thương nghiệp tư bản chủ nghĩa chỉ là hoạt động trao đổi hànghoá được sinh ra từ sản xuất và lưu thông hàng hoá của phương thức sảnxuất tư bản chủ nghĩa. Ông ghét cay ghét đắng thương nghiệp tư bản chủnghĩa và ông đổ tội cho nó chẳng khác nào “ghét chủ quay ra đánh chómèo”.Fourier phê phán chủ nghĩa tư bản đã giữ lại nền tiểu sản xuất trongnông nghiệp đã làm cho nông nghiệp gặp khó khăn làm hạn chế khả năngđóng góp của nó vào tổng sản phẩm xã hội. Trong khi phê phán chủ nghĩatư bản, Fourier đã chú ý đến tích tụ và tập trung tư bản phát sinh độcquyền. Ông phân chia thành 5 loại độc quyền khác nhau: Độc quyền hợptác trong phạm vi liên hợp; độc quyền quan liêu hay là độc quyền nhànước; độc quyền thuộc địa hay độc quyền ngoài nước; Độc quyền trên biểnvà độc quyền phong kiến phức tạp. Dựa vào tiêu chuẩn kinh tế và khuynhhướng phát triển để phân chia các loại độc quyền và kết luận của ông về sựtất yếu độc quyền sẽ thay thế cạnh tranh tự do, dẫn đến việc ra đời các côngty cổ phần đã được Mác đánh giá là những cống hiến quý giá.Như vậy ngoài những hạn chế do thái độ quá cực đoan đối vớithương nghiệp, trong khi phê phán chủ nghĩa tư bản Fourier đã đi đến mộtluận điểm quan trọng đó là phải thủ tiêu Chủ nghĩa tư bản chứ không thểchỉ là cải tiến hay cải tạo nó.* Dự đoán về mô hình Xã hội tương laiTrong hầu hết các tác phẩm của mình, Fourier đều xây dựng mô hìnhvề một xã hội tương lai.Điểm khác so với Saint Simon là Fourier đã đem ý đồ của mình thểnghiệm trong thực tiễn. Theo ông, nền sản xuất “công bằng và hấp dẫn”được dựa trên nền sản xuất tập thể của các hiệp hội trong đó những khảnăng lòng hăng say của con người được phát huy tối đa.Theo Fourier, để chuyển lên xã hội xã hội chủ nghĩa, phải trải qua bagiai đoạn kế tiếp nhau:-Chủ nghĩa bảo đảm nửa hiệp hội.-Chủ nghĩa xã hội, hiệp hội giản đơn.-Sự hoà hợp hiệp hội phức tạp.Tế bào của xã hội tương lai là các hiệp hội mà cơ sở của nó là các falăng giơ [Hợp tác xã]. Mỗi fa lăng giơ gồm 1800 thành viên chia thành 7nhóm: Kinh tế gia đình, Nông nghiệp, Công nghiệp, Thương nghiệp, Giaothông vận tải, Giáo dục, Khoa học và mỹ thuật.Trong mỗi fa lăng giơ các thành viên được chia thành 20 đến 24nhóm, mỗi nhóm có 7- 9 người gồm những người cùng sở thích. Các nhómlàm việc thay phiên nhau mỗi ngày hai giờ và mỗi người có thể tự ý dichuyển từ nhóm này qua nhóm khác. Mỗi ngày có 5 bữa ăn. Người lãnhđạo của nhóm do các thành viên bầu nên. Nhà ở của các thành viên đượcthiết kế theo mẫu thống nhất ở bên cạnh các xưởng, thư viện, nhà ăn, phòngkhách, trường học chung của fa lăng giơ. Trung tâm văn hoá giáo dục[Falanxte] là nơi tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của mỗi thànhviên.Fourier dự kiến trong xã hội tương lai chế độ tư hữu vẫn tồn tại, còncó các giai cấp, còn có người giàu, người nghèo nhưng không còn túngthiếu. Những người gia nhập fa lăng giơ, những đóng góp của họ về tư liệusản xuất, ruộng đất, vật liệu được định giá và ban quản trị cấp cổ phiếu vàhọ sẽ nhận được tiền lãi cổ phần. Có thể trả tiền lãi cao hơn để thu hút cácnhà tư bản đầu tư vào fa lăng giơ.Fourier khẳng định phân phối thu nhập trong fa lăng giơ sẽ làm chocả người giàu lẫn người nghèo đều thoả mãn và tạo nên sự “ hoà hợp giữacác giai cấp”.Tỉ lệ phân chia được ấn định: 4/12 cho người có cổ phần; 5/12cho người lao động; 3/12 cho người có tài năng.Theo Fourier, xã hội tương lai dựa trên nền đại sản xuất sẽ tiết kiệmđược lao động, sử dụng máy móc, kho tàng. Nhưng ông hình dung lao độngnông nghiệp là cơ sở và nền nông nghiệp lớn có tổ chức đóng vai trò chủđạo còn công nghiệp chỉ đóng vai trò bổ sung cho nông nghiệp. Các fa lănggiơ kết hợp sản xuất nông nghiệp với công nghiệp và vạch kế hoạch sảnxuất bảo đảm nhu cầu nội bộ và trao đổi với các fa lăng giơ khác. Như vậy,mặc dù không coi thường công nghiệp đặc biệt là phân công lao động trongcông nghiệp. Fourier rơi vào không tưởng khi chủ trương xây dựng nôngnghiệp thành cơ sở của nền đại sản xuất của xã hội tương lai.Theo Fourier, động lực của nền sản xuất là sự hấp dẫn của lao động,sự say mê với công việc của người lao động như một nhu cầu tự nhiên.Niềm thích thú lao động sẽ làm nên năng suất và chất lượng sản phẩm vàvới phẩm chất tự giác của con người, như vậy Fourier cho rằng có thể xoábỏ Nhà nước, quân đội, cảnh sát và các cơ quan cưỡng bức khác.Chỉ chú ý đến vai trò hoạt động có trật tự có kế hoạch trong từng falăng giơ còn sự phối hợp và điều hành giữa các fa lăng giơ thì ông chưa đềcập tới. Từ các điển hình, kiểu mẫu sẽ có hàng loạt các fa lăng giơ khácxuất hiện và hấp dẫn và dần dần sẽ là sự hiện diện của fa lăng giơ trongtoàn xã hội.Fourier dự đoán về việc thủ tiêu sự cách biệt giữa thành thị và nôngthôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc khi nền nông nghiệp lớn baotrùm toàn xã hội. Ông là người đầu tiên nêu ra ý tưởng giải phóng phụ nữlà tiêu chuẩn để đánh giá xã hội nói chung.Tính chất không tưởng ở Fourier còn thể hiện ở chỗ ông đặt niềm tinvào những lý tưởng tốt đẹp của con người, mục đích cao cả dẫn dắt hànhđộng đi đến xây dựng một xã hội mà mọi người đều giàu có và được hưởngmọi thú vui của cuộc đời.Không chỉ dừng lại ở các dự định và ý tưởng, ông đã bỏ tiền của đểxây dựng các mô hình Fa lăng giơ trong thực tế. Năm 1832 ông cùng cácmôn đệ bắt tay xây dựng một Falanxte nhỏ cách Pari 63km nhưng kết quảkhông như ông mong muốn. Ông đã thất bại nhưng vẫn hi vọng vào nhữngngười giàu có giúp ông thực hiện mô hình này. Những người ủng hộ quanđiểm của ông cũng định xây dựng một Falanxte ở Mỹ nhưng nó cũng cùngchung một số phận.Từ thất bại của Fourier trong thử nghiệm xây dựng một xã hội mớingay trong lòng xã hội tư sản cho chúng ta bài học về tính chất ảo tưởngcủa các nhà Xã hội chủ nghĩa không tưởng: Muốn xây dựng một xã hội màkhông cần phải đảo lộn trật tự kinh tế của xã hội cũ, chỉ có trái tim nhiệttình hết lòng thương yêu đồng loại là chưa đủ, cần phải có khối óc tỉnh táocủa một nhà cái cách xã hội mới tìm ra con đường và lực lượng vật chất đểxây dựng một xã hội tốt đẹp thành công.4. Chủ nghĩa xã hội không tưởng Anh Rô-be-ô-oen [Robert Owen]a. Đặc điểm Chủ nghĩa xã hội không tưởng Anh so với PhápĐiều kiện về kinh tế xã hội nước Anh khác so nước Pháp:Vào thế kỷ XIX cách mạng công nghiệp nước Anh đã hoàn thànhcòn ở Pháp mới bắt đầu.- Các ngành công nghiệp nước Anh đạt quy mô vượt ra ngoài phạmvi trong nước và mở rộng ra các thuộc địa rộng lớn ở khắp các châu lục.Chế độ công xưởng phát triển làm thay đổi cơ cấu giai cấp và những mâuthuẫn giai cấp cũng trở nên gay gắt hơn và điều này làm nên sự khác biệtcủa Chủ nghĩa xã hội không tưởng Anh so với Chủ nghĩa xã hội khôngtưởng Pháp.- Giai cấp công nhân Anh trưởng thành sớm hơn ở Pháp, có trình độgiác ngộ và tổ chức cao hơn thể hiện qua các cuộc đình công, bãi côngchống lại giới chủ. Đó chính là mảnh đất tốt để tư tưởng của Chủ nghĩa xãhội không tưởng bắt rễ và phát triển, thậm chí tham gia vào phong tràocông nhân.- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Anh còn chịu ảnh hưởng sâu sắc lýluận Kinh tế chính trị trường phái cổ điển với A.Smith và D.Ricardo, có hệthống lý luận hệ thống và khoa học hơn và những cải cách không tưởng vìthế cũng triệt để hơn. Chủ nghĩa xã hội không tưởng Anh gắn liền với têntuổi của R.Owen.b. Sơ lược tiểu sử Rô-be-ô-oen [Robert Owen 1771-1858]- Owen sinh năn 1771 trong gia đình thợ thủ công ở thành phốNewton thuộc xứ Oenxơ. 7 tuổi làm trợ giảng cho một thầy giáo. 9 tuổi đãxa gia đình để lao động, vừa lao động vừa học tập. 1789 với 100 livơrơxtéclinh vay được, ông cùng một người bạn tổ chức một xưởng kéo sợi ởMansetxtơ. Khi người bạn bỏ đi, một mình ông xây dựng lại cơ sở củamình với 3 máy kéo sợi. Khả năng quản lý của Owen bộc lộ rất sớm, mộtchủ xưởng lớn đã nhận thấy và rồi Owen trở thành người quản lý một xínghiệp 500 công nhân. Ít lâu sau ông đã trở thành giám đốc và là cổ đôngcủa một hãng lớn.- Năm 1799 [Owen 19 tuổi] mua một xưởng kéo sợi ở Niu Lênác[Xcốtlen].- Từ năm 1800 ông làm giám đốc của 4 phân xưởng sợi gồm 2000công nhân. Bắt đầu từ đây diễn ra những hoạt động độc đáo của ông: mộtnhà tư bản bác ái. Ông tìm các biện pháp cải thiện điều kiện làm việc vàsinh sống của công nhân và có lợi cho nhà kinh doanh. Ông biến xưởngmáy của mình là nơi thực hành ý tưởng không tưởng: Rút ngắn ngày laođộng từ 13-14 giờ xuống 10,5 giờ, tăng tiền công, cấm lao động trẻ emdưới 9 tuổi, xây dựng nhà ở cho công nhân, lập nhà trẻ, vườn trẻ, trườnghọc kiểu mẫu. Ông còn xây dựng một cửa hàng bán lương thực, quần áovới giá rẻ [thấp hơn ở địa phương 25%]… Owen cho rằng, điều kiện sốngcó ảnh hưởng quyết định đến tính tình con người. Con người có cuộc sốngtốt họ sẽ làm việc tốt và thu nhập của xí nghiệp và của họ đều tăng lên,giảm được các tệ nạn xã hội. Kết quả là 2000 công nhân trong xí nghiệpcủa ông đều trở nên tốt hơn. Mô hình được nhiều nơi đến tham quan và ôngtrở thành nổi tiếng.- Năm 1824 Owen cùng những người theo mình sang Mỹ thành lập“công xã lao động” lấy tên là “Sự hoà hợp mới”.- 1829 Owen quay về nước Anh tham gia tổ chức phong trào hợp tácxã.- 1832 xuất bản tạp chí “Khủng hoảng” tuyên truyền cho kế hoạchhợp tác xã và lập “cửa hàng trao đổi lao động công bằng” đến 1834 thì thấtbại.- Cố gắng cuối cùng của ông là xây dựng công xã Hácmônihôn ở Mỹ1839 nhưng đến 1844 thì tan vỡ.- Từ đó Owen đi giảng bài, viết báo để quảng bá cho tư tưởng khôngtưởng của mình và mất ngày 17/11/1858.- Trong cuộc đời hoạt động của mình, Owen viết một số tác phẩmtrong đó trình bày những quan điểm chủ yếu của mình:+ “Những nhận xét về ảnh hưởng của hệ thống công nghiệp”.+ “Báo cáo về giảm nhẹ tình hình của công nhân công nghiệp vànông nghiệp”.+ “Tiếp tục phát triển kế hoạch”.+ “Mô tả một loạt điều lầm lạc và tai họa bắt nguồn từ trạng tháitrước đây và hiện nay”.+ “Báo cáo về kế hoạch giảm bớt tai họa xã hội”.+ “Lời kêu gọi của đại hội các hợp tác xã của nước Anh và Irelandgửi các chính phủ Châu Âu và Châu Mỹ”.+ “Thế giới đạo đức mới”.c. Các lý luận cơ bản* Sự phê phán Chủ nghĩa tư bảnVới Owen, con người sinh ra là để hưởng hạnh phúc, xã hội củanhững con người hạnh phúc. Ông phê phán gay gắt chế độ tư hữu và coi đólà nguyên nhân đẻ ra lòng ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, cạnh tranh vô chínhphủ cả trong sản xuất và phân phối, nghĩa là chủ nghĩa tư bản đã gây ra mọitai hoạ xã hội: thù địch lẫn nhau, bịp bợm, mại dâm….Những tai hoạ mà con người phải gánh chịu là do chế độ công xưởngtư bản chủ nghĩa: Kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, sử dụngquá mức lao động phụ nữ và trẻ em. Ông cho rằng nguyên nhân trực tiếplàm đời sống công nhân đi xuống là do thất nghiệp, giá lao động bị giảm dosử dụng máy móc tối tân thay thế. Owen đả kích xã hội tư bản là xã hội chỉbiết chạy theo đồng tiền, biến những người lao động trở thành nô lệ củangười giàu. Một số ít kẻ giàu có, xa hoa còn đại đa số “lớp người dưới đáy”bị bần cùng, thảm hại. xã hội tư sản đã vì của cải mà hi sinh con người biến con người thành công cụ để kiếm tiền cho các nhà kinh doanh. Ôngcảm thông và bênh vực cho những người lao động - những người chịunhiều tai hoạ cả trong sản xuất và các tệ nạn xã hội. Ông lên án gay gắtđồng tiền tư bản chủ nghĩa – công cụ bẩn thỉu trong tay tư bản và ông đưara ý định thủ tiêu nó.Owen chú ý nhiều đến quan hệ phân phối tư bản chủ nghĩa và chorằng phân phối qua đồng tiền và thương nghiệp chỉ đem lại tai họa cho xãhội. Tham gia vào quá trình phân phối đó có quá nhiều kẻ trung gian: chủngân hàng, thương nhân, kẻ đầu cơ … Họ không làm ra giá trị nhưng lạilàm cho nó tăng vì những chi phí đủ loại và những người lao động nghèokhông cần đến tầng lớp trung gian này. Tuy nhiên, từ những đánh giá đóOwen đi đến cực đoan: phủ nhận toàn bộ quá trình trao đổi thông qua đồngtiền và hy vọng quay trở lại hình thức phân phối trao đổi trực tiếp bằnghiện vật và coi đó là phương thức phân phối lý tưởng mà ông sẽ áp dụngtrong xã hội tương lai mà ông xây dựng.Theo Owen, chế độ tư hữu, tôn giáo và hình thức hôn nhân hiện thờilà “3 trở lực” của công cuộc cải tạo xã hội.* Dự án về “tiền lao động” và sự “trao đổi công bằng”Dự án này được Owen đặt trên cơ sở chế độ công hữu của xã hộitương lai. Điều kiện để thực hiện dự án “tiền lao động” và sự “trao đổicông bằng” đó là sản phẩm đủ dồi dào vượt quá nhu cầu của con người.Một chế độ mà ông coi đó là sẽ “vượt tất cả những gì mà đầu óc con ngườicó thể hình dung ra được”. Luận điểm này rõ ràng là có nhiều ảnh hưởngđến các nhà sáng lập Chủ nghĩa cộng sản khoa học sau này. Ông càng thựctế hơn khi lý giải của cải dồi dào nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật,nâng cao năng suất lao động của nền sản xuất Đại công nghiệp cơ khí.Nhưng ông càng không tưởng hơn khi định đem áp dụng chế độ “ tiền laođộng” và “trao đổi công bằng” ngay trong xã hội tư sản đương thời.Để xoá bỏ tiền tệ mà vẫn duy trì lưu thông hàng hoá và “trao đổicông bằng” sản phẩm làm ra, Owen dự định xây dựng những “cửa hàngtrao đổi lao động công bằng, ở đó các sản phẩm của người sản xuất hànghóa làm ra đã có thước đo giá trị mới: tiền lao động. Thực chất đó là thứphiếu lao động ghi rõ số giờ lao động đã chi phí để sản xuất ra hàng hóa đó.Owen triệt để hơn Saint Simon khi ông đứng ra thành lập một “cửa hàngtrao đổi lao động công bằng” như thế vào năm 1832. Lúc đầu nó đã đem lạimột số kết quả nhất định, nhưng về sau, khi sản phẩm chưa đủ dồi dào thìcác “phiếu lao động” trở thành món hàng đầu cơ, cửa hàng phải đóng cửavà Owen chịu tổn thất 2000 livơrơ xteclin Đồng tiền Anh lúc bấy giờ làmột tài sản lớn.Dự án “tiền lao động” và thị trường “trao đổi lao động công bằng”của Owen đã không đem lại kết quả như ông mong muốn. Tiền tệ ra đời làmột quá trình và là kết quả của sản xuất và lưu thông hàng hóa tư bản chủnghĩa. Ông muốn xóa bỏ tiền tệ và trao đổi lao động công bằng mà khôngcần phải xóa bỏ cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Ông lại càng ảo tưởngvà ngây thơ khi tin rằng bằng phương pháp hoà bình và biện pháp “nêugương” thậm chí ông cho rằng báo chí châu Âu, châu Mỹ tuyên truyền giảithích về xã hội tương lai của ông thì chỉ cần một năm dư luận xã hội sẽthừa nhân sự cần thiết phải xây dựng một xã hội như thế!*Kế hoạch lập các hợp tác xã của OwenĐó là những thị trấn cộng đồng [kiểu như hợp tác xã] gồm: 500-1500người với diện tích 600-1800 acrơ được chia thành các trại nhỏ từ 1500300 acrơ. Bao quanh thị trấn là vườn rừng. Vòng ngoài của thị trấn là côngxưởng nhà máy, bên trong là nhà ăn công cộng, trường học, thư viện, bệnhviện và khu vui chơi giải trí. Mỗi gia đình ở trong căn nhà có 4 phòng. Ban

Video liên quan

Chủ Đề