Chùa ông hoàng mười ở đâu

Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản.

Sự tích ông Hoàng Mười

Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.

Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh [cũng chính là nơi quê nhà]. Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mọi người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã [có bản nói là xích điểu] và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời.

Cung thờ Ông Mười Nghệ An

Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười [hay còn gọi là Ông Mười Củi] không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha [như một số sách đã nói] mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn [“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn], không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong [tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông].

Ông Hoàng Mười chấm đồng

Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng [khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương]. Khi ngự về đồng Quan Hoàng Mười thường mặc áo vàng [có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ], đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam [quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền] và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10 ngàn đồng màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá [là những đặc sản của quê hương ông] rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.

Tiệc Ông Hoàng Mười vào ngày nào?

Ngày Quan Hoàng Mười giáng sinh 10 tháng 10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông. Vào ngày tiệc quan Hoàng Mười, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách … để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông.

Lễ hội đền Ông Hoàng Mười vào ngày nào?

Hàng năm vào ngày 10 tháng 10 âm lịch là ngày giỗ của ông Hoàng Mười. Ngoài lễ hội chính diễn ra vào ngày 10 tháng 10 âm lịch hằng năm còn có lễ hội khai điểm vào ngày rằm tháng 3. Lễ hội có các hoạt động hấp dẫn như rước sắc bằng thuyền từ nhà thờ họ Nguyễn ra đền, hát chầu văn, thi chọi gà, đánh cờ người…

Đền Quan Hoàng Mười cũng là một trong những nơi diễn ra Đại lễ cầu siêu cho các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh trong kháng chiến chống quân xâm lược

Đền thờ Ông Hoàng Mười

Đền ông Hoàng Mười Nghệ An

Đền Quan Hoàng Mười ở Nghệ An còn gọi là Mỏ Hạc Linh Từ được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê trên diện tích hơn 1 hecta ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Đền ông Hoàng Mười là ngôi đền nổi tiếng ở Nghệ An thờ đạo Mẫu Tứ phủ, vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay, đền có 3 toà chính: Thượng điện, Trung điện và Hạ điện.

Đền ông Hoàng Mười ở Hưng Nguyên, Nghệ An

Đền Quan Hoàng Mười ở Hà Tĩnh

Ông Hoàng Mười cũng được thờ ở Đền Chợ Củi [Xuân Hồng, Nghi Xuân, Hà Tĩnh], chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, cũng chính là nơi quê nhà của Ông. Năm 1993, ngôi đền được cấp chứng nhận di sản văn hóa quốc gia và là nơi gìn giữ và bảo vệ những văn hóa tâm linh song hành cùng lịch sử đất nước. Trước cửa chính của đền là lá cờ đại mang dòng chữ “Đệ thập vương quan” tức Quan Hoàng Mười. Soi mình dưới dòng sông Lam hiền hòa, ngôi đền có diện tích 1040 mét vuông, mang kiến trúc đặc sắc như hồ bán nguyệt, hạ điện, trung điện, thượng điện, sân ngoài và sân trong. Nơi đây còn có miếu cô Chín và bia thờ cô ở góc trái và phải sân ngoài.

Đền chợ Củi [Hà Tĩnh] thờ ông Hoàng Mười

Từ khóa:ông hoàng mười, ông mười, quan hoàng mười

 

Đền Củi nằm trên núi Khu Độc bên dòng sông Lam hữu tình là một trong những danh thắng có phong cảnh nổi tiếng ở Nghi Xuân. Trong tâm thức dân gian của người vùng Hà Tĩnh - Xứ Nghệ, ông Hoàng Mười là hiện thân của vị tướng Lê Khôi [Nghĩa quân Lam Sơn], gọi Lê Lợi bằng chú. Ông có nhiều công trong chống giặc Minh xâm lược và là quan qua ba đời vua Lê làm đến chức Khâm sai tiết chế thủy, lục chư dinh hộ vệ thượng tướng quân.

Ông mất năm Bính Dần [1446], an táng trên ngọn Long Ngâm của núi Nam Giới, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh và được xây đền thờ. Sau đó ông lại được tấn phong là Uy Mục Đại Vương rồi Chiêu Trưng Đại Vương năm 1487.

Cũng ở xứ Nghệ, ông Hoàng Mười được dân gian đồng nhất với nhân vật lịch sử nổi tiếng khác gắn bó với vùng quê này là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai thứ tám của Lý Thái Tổ từng làm Tri Châu Nghệ An.

Có chuyện kể rằng, là tướng tài của nhà Lê, khi ông đánh thắng giặc trở về thì một trận cuồng phong ập vào làm nhiều nhà dân vị đổ nát. Thương dân ông lại cùng binh sỹ lên ngàn chặt tre, gỗ đưa về giúp dân làm nhà. Một lần không may khi bè về đến chân Hồng Lĩnh ở núi Ngũ Mã thì cuồng phong lại ập đến làm vỡ bè, ông gặp nạn. Quân sỹ và dân làng chưa kịp mai táng cho ông thì mỗi đã đùn đất lên thi hài ông thành mộ. Cảm phục và biết ơn ông, người dân đã lập đền thờ. Ông rất linh thiêng và thường hiển thánh cứu giúp muôn dân.

Dù hiện thân của Chiêu Trưng Đại Vương hay Uy Minh Vương, nhưng ông Hoàng Mười vẫn rất gần gũi, gắn bó và có cái gì đó phù hợp với tâm lý và phong cánh người xứ Nghệ. Đó là con người có chí khí nam nhi, anh hùng ngang dọc, có tài văn võ và trí dũng hơn người. Ông biết lo nghĩ cho cuộc sống của dân chúng, biết vì dân, không ham danh lợi…

Từ quốc lộ 1, men theo chân núi Ngũ Mã khoảng 300 mét, rồi xuôi theo bờ sông vài chục mét là đến đền Củi. Đây chính là nơi dãy Hồng Lĩnh vườn mình sà và dòng sông Lam. Đền tọa lạc trên núi Khu Độc thuộc Ngũ Mã hướng về phương Bắc, tựa lưng vào núi nhìn xuống Lam giang. Các tòa điện cao dần theo thế núi uy nghiêm, đường bệ dưới bóng nhiều cây cối cổ thụ.

Trước đền sông nước mênh mang tạo nên không gian kiến trúc huyền ảo, linh thiêng. Qua vài lần tôn tạo nhưng đền vẫn giữ được nét xưa thần bí, hài hòa với cảnh quan sông núi. Tam quan của đền đặt liền biến sông, cao 2 tầng, đường nét tinh sảo và mền mại uyển chuyển của đôi rồng chầu nguyệt. Mặt trước tam quan có câu đối: "Lam giang hiển hách tự thiên thu/ Ngũ mã anh linh chung tú khí". Phía trong tam quan là hồ bán nguyệt ở sân thấp nhất của đền, vòng qua hồ qua 7 bậc thềm đến sân trên, bước thêm 5 bậc thềm nữa là tới đền.

Đền được xây dựng theo kiểu chữ tam gồm ba tòa, mỗi tòa ba gian. Các tòa thống nhất liên kết với nhau và bố trí thành các cung thờ. Thờ Tam tòa Thánh Mẫu, tiếp đến là Ngũ Vị Tôn Ông, sau đó là cung Hoàng Mười, cung Chầu Mười rồi cung Trần Triều.

ở cung thờ ông Hoàng Mười có hai bức đại tự "Mẫu Đức Chiếu ảnh" và "Huyền Từ Bố Chững" cùng câu đối: "Quá giả hóa tồn giả thần vị liệt Nam bang tứ bất/ Quốc hữu từ gia hữu danh cao thiên bản lục kỳ" [dịch: Cái đã qua là hóa, cái còn lại là thần, nước Nam có bốn vị bất tử/ Nước có đền, nhà có miếu, trời cao vốn có lục kỳ].

Mặt tiền hạ điện của ngôi đền có hai tầng mái, trông bề thế nhưng vẫn có nét thanh thoát. phần giữa hai tầng mái có đề: Linh Từ Thánh Mẫu. Trước đền và mặt bên của hàng cột hiên có khắc các câu đối ca ngợi vẻ đẹp của ngôi đền - nơi lưu đức ông Hoàng Mười muôn thuở.

Xưa nay, người ta truyền tụng đền thiêng, mọi người đến cầu nguyện thường được ông linh ứng phù hộ. Quanh năm, không riêng người xứ Nghệ mà muôn phương khách về đây vãn cảnh hành lễ. Hội đền được tổ chức vào ngày 10 tháng 8 âm lịch. Ngôi đền cổ và phong cảnh nên thơ sẽ tạo cho du khách những giờ phút thảnh thơi, tĩnh tại hoặc chìm đắm trong văn chầu và không khí lễ hội truyền thống linh thiêng.

Video liên quan

Chủ Đề