Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

  1. Đại học
  2. Đại học Văn Hiến
  3. Phương pháp học đại học

Tiểu luận "Khám phá nét đặc trưng văn hóa ẩm thực ngày Tết 3 miền Bắc - Trung - Nam"


Môn: Phương pháp học đại học

Trường: Đại học Văn Hiến


Thông tin:

31 trang 6 tháng trước


Tác giả:

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Trường Đại Học Văn Hiến

Khoa: Xã Hội – Truyền Thông

HỌC

TIỂU LUẬN

PHƯƠNG PHÁP HỌC ĐẠI

Đề Tài: “Khám phá nét đặc trưng văn hóa

ẩm thực ngày Tết 3 miền Bắc - Trung -

Nam”

Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Dương

Khắc Minh

Sinh viên thực hiện: Lại Thị Thanh Vy

1

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Nguyễn

Huỳnh Hoàng Lan

MSSV: 231A100244 -

231A100151

MỤC LỤC:

Mục

Năm Học: 2023 - 2024

lục.....................................................................

. ................................ 1

Phần 1: MỞ ĐẦU

1.1 Lí do chọn đề

tài………………………………………………..

1.2 Mục tiêu nghiên

cứu………………………………………….

1.3 Phương pháp nghiên

cứu…………………………………..

Phần mở

đầu........................................................

..........................Phần 2: NỘI DUNG

Chương 1: Nguồn gốc của ngày Tết và văn hóa ẩm thực

1.1 Khái niệm Tết, ngày Tết.....................................................

1.2 Đặc điểm về ngày Tết Việt Nam………………………….

1.3 Khái niệm văn hóa ẩm thực………………………………

2

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Chương 2: Đặc trưng ẩm thực Việt Nam

2.1 Quan niệm của người Việt Nam về ẩm thực……………….

2.2 Ẩm thực Việt Nam – nền ẩm thực phong phú và đa

dạng ....... 32

Chương 3: Những nét chung và khác biệt trong ẩm thực ba

miền

3.1 Khát quát ẩm thực ba miền………………………………..

3.2 Những nét chung trong ẩm thực ba miền………………….

3.3 Những điểm khác biệt trong ẩm thực ba miền…………….

Chương 4: Ẩm thực ngày Tết ba miền Bắc Trung Nam

4.1.

Mâm cỗ ngày Tết ở miền Bắc…………………………….

4.2.

Mâm cỗ ngày Tết ở miền Trung…………………………..

4.3.

Mâm cỗ ngày Tết ở miền Nam…………………………...

3

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Phần 1: Phần Mở Đầu

1.1

Lí do chọn đề tài.

Với dịp quan trọng như ngày Tết trong đời sống của người Việt

ta, các món ăn được lựa chọn kĩ càng trong ngày đầu năm mới

nó đã thể hiện được sự truyền thống và nét đặc sắc riêng của mỗi

miền Bắc - Trung - Nam. Những bữa ăn ngày Tết này giúp cho

chúng ta quay quần gần gũi bên gia đình hơn. Đây là một nét

4

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

văn hóa đẹp của nước ta, mặc dù khác vùng miền nhưng chúng

ta đều có một điểm chung là vẫn giữ nguyên nét đẹp truyền

thống và truyền tải những thông điệp chung về cội nguồn . Vì

các yếu tố khác nhau về cách sinh hoạt địa lí và các phong tục

tập quán. Từ đó đã hình thành nền văn hóa ẩm thực riêng từng

miền, mỗi miền có những cách chế biến , cách thưởng thức món

ăn khác nhau nên điều này đã tạo ra cho nền ẩm thực Việt Nam

ta phong phú đa dạng hơn. Chính vì như vậy để tìm hiểu rõ hơn

về văn hóa ẩm thực mỗi miền vào ngày tết nên nhóm chúng em

đã chọn đề tài “Khám phá nét đặc trưng văn hóa ẩm

thực ngày Tết 3 miền Bắc - Trung – Nam”. Nhóm

chúng em mong muốn đem lại các khám phá và

những điều thú vị về ẩm thực các vùng miền.

5

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

1.2

Mục tiêu nghiên cứu.

Bài tiểu luận cung cấp cho người đọc về khái niệm tổng quát về

ẩm thực ngày Tết Việt Nam, mang đến người đọc cái nhìn bao

quát về ẩm thực Việt. Hiểu sau hơn về các vùng miền và nét văn

hóa hết sức đa dạng, phong phú và mang đậm dấu ấn Việt.

Đồng thời, bài tiểu luận nghiên cứu đã và đưa ra những khác

biệt về ẩm thực của ba vùng miền, đưa đến cái nhìn bao quát về

văn hóa và nét truyền thống của người Việt ta. Và theo đó các

nước lân cận có nền văn hóa tương đồng với Việt Nam chính là

nước Trung Quốc hiện nay.

Ngoài ra, bài tiểu luận này đem đến cho người đọc nền văn hóa

ẩm thực Tết mới mẻ của một trong ba miền Bắc Trung Nam và

cũng là một trong 54 dân tộc Việt Nam.

1.3

Phương pháp nghiên cứu.

Trong quá trình làm và thực hiện bài tiểu luận, nhóm chúng em

đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu như phân tích tài

liệu, tham khảo và phương pháp tổng hợp đã hỗ trợ quá trình

làm bài.

6

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Phần 2: NỘI DUNGNội dung

Chương 1: Nguồn gốc của ngày Tết và văn hóa ẩm thực.

1.1

Khái niệm Tết, ngày Tết:

Theo các nhà nghiên cứu, Tết xuất xứ từ chữ Hán 節 đọc theo

âm Hán Việt là Tiết. Cả hai âm Hán Việt đều bắt nguồn từ tiếng

Hán trung cổ của chữ “Tiết” có nghĩa là đốt tre đốt trúc. Mở

rộng nghĩa là một quãng hay một đoạn thời gian trong năm.

Văn hóa Đông Á thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước, do nhu

cầu canh tác nông nghiệp đã phân chia thời gian thành 24 tiết

khác nhau, ứng với mỗi tiết là một thời khắc giao thời. Cư dân

nông nghiệp trồng lúa nước thời xa xưa chia thời gian thành hai

phần chính:

Phần thời vụ và phần nông nhàn. Phần thời vụ thì “nông vụ chí

kỳ” không còn thì giờ để sum họp, sắp đồ cúng lễ gia tiên, gặp

gỡ nhau.

Chính vì lẽ đó trong những lúc nông nhàn, người nông nghiệp

có tâm lý ăn bù, chơi bù nên đã đặt ra nhiều ngày Tết, phần lễ là

phần cúng bái tổ tiên, gia tiên, thánh thần,... và ăn uống bù cho

lúc làm ăn đầu tắt mặt tối.

Nói một cách khái quát, Tết chỉ những ngày lễ được phân bố

theo thời gian trong năm đan xen giữa các khoảng trống thời vụ.

7

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Đây là dịp để người Việt hưởng thụ thanh nhàn trong những lúc

nông vụ nhàn rỗi.

1.2

Đặc điểm về ngày Tết Việt Nam Đặc điểm về ngày Tết

Việt Nam:

Các ngày Lễ Tết được phân bố theo thời gian trong năm, đan

xen vào giữa các khoảng trống thời vụ. Lễ Tết gồm 2 phần là

phần cúng bái thần linh, trời Phật, tổ tiên được gọi là phần lễ và

phần ăn uống gọi là ăn Tết. Tết là phải ăn.

Tại phần Lễ, con cháu trong gia đình sẽ chuẩn bị những mâm

cúng gồm nhiều món ăn như gà luộc, xôi gấc, thịt đông, bánh

chưng và các món ngọt khác như chè đỗ... Để dâng lên gia tiên,

thần linh mong cầu cho những điều may mắn, thuận lợi đến với

gia đình. Ngoài ra, đây cũng là một nghi thức để con cháu trong

nhà mời ông bà, tổ tiên những người đã khuất về trần thế đoàn tụ

cùng với gia đình trong những ngày Tết.

Sau khi phần Lễ kết thúc, thức ăn đã được mang xuống bày biện

ra để con cháu trong nhà cùng nhau thưởng thức, hưởng lộc của

ông bà. Đây cũng chính là dịp để gia đình sum họp vun đắp bên

nhau trong những dịp Lễ Tết như này. Chính vì vậy người dân

nước ta mới có khái niệm về quê hương, quê nhà của bản thân

mình, gần cha mẹ và người thân bạn bè hay làng xóm để ăn Tết

cùng nhau sau những quãng thời gian đi làm và đi học xa.

8

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

1.3

Khái niệm văn hóa ẩm thực:

Theo “Từ điển Việt Nam thông dụng” thì ẩm thực chính là

ăn uống – là hoạt động để cung cấp năng lượng cho con

người sống và hoạt động. Chính vì vậy nói đến văn hóa ẩm

thực là nói đến việc ăn uống và các món ăn uống cùng với

nguồn gốc lịch sử của nó.

Thời kỳ trước, ăn uống chưa có chọn lọc, họ ăn tất cả những

gì kiếm được và đặc biệt là ăn sống và uống sống. Nhưng

cùng với sự phát triển của con người thì hoạt động nghệ

thuật trong ăn uống hay ẩm thực cũng thay đổi theo hướng

tích cực hơn với sự đa dạng của các món ăn và cách chế biến

đơn giản, tiên tiến.

Trước kia, các món ăn chỉ đáp ứng nhu cầu ăn cho no bụng

nhưng bây giờ con người quan tâm đến tính thẩm mỹ của

món ăn, ăn bằng mắt, bằng mũi và tất cả các giác quan của

cơ thể... Vì thế, các món ăn hay đồ uống đều được chế biến

và bày biện một cách đặc sắc hơn, cầu kỳ hơn và nấu ăn

cũng như đang thưởng thức món ăn trở thành một nghệ

thuật. Ẩm thực không chỉ là sự tiếp cận về góc độ văn hóa

vật chất mà còn chứa đựng trong đó văn hóa tinh thần.

9

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Theo nghĩa rộng, “Văn hóa ẩm thực” là một phần văn hóa

nằm trong tổng thể, thực thể các đặc trưng diện mạo về vật

chất, tinh thần, tri thức, tình cảm... Khắc họa về một số nét

cơ bản, đặc sắc của một cộng đồng, gia đình hay làng xóm,

vùng miền hoặc quốc gia... Trên bình diện văn hóa tinh thần,

văn hóa ẩm thực là cách ứng xử, giao tiếp trong ăn uống và

nghệ thuật chế biến thức ăn, ý nghĩa, tượng trưng cho món

ăn đó “qua ăn uống mới thấy con người đối đãi với nhau

như thế nào”.

Theo nghĩa hẹp, “văn hóa ẩm thực” là những tập quán và

khẩu vị của con người, những ứng xử con người trong ăn

uống, những tập tục kiêng kị trong ăn uống, những phương

thức chế biến bày biện trong ăn uống và cách thưởng thức

món ăn.

Hiểu và sử dụng đúng các món ăn sao cho có lợi cho sức

khỏe nhất của gia đình bản thân, cũng như thẩm mỹ nhất

luôn là mục tiêu hướng tới của mỗi con người.

10

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

.

Chương 2: Đặc trưng ẩm thực Việt Nam.

2.1. Quan niệm của người Việt Nam về ẩm thực:

Ai cũng biết rằng: Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng

trong đời sống con người, nó cũng chứa những ý nghĩa triết lý.

Từ xa xưa, trong dân gian nước ta đã tổng kết thành câu tục ngữ:

“Học ăn, học nói, học gói, học mở” chủ yếu để nhắc nhở những

11

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

người mới bước vào đời thì khâu đầu tiên là “Học ăn”. Ở các

nước khác trên thế giới, ngoài quan niệm dân gian thì các nhà

chuyên môn, những người yêu thích, hiểu ẩm thực... Đều bàn

luận, viết những tài liệu, những cuốn sách hay về nghệ thuật ăn

uống..

Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có ý nghĩa sâu

sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Người Việt

cho rằng “Có thực mới vực được đạo”, đây là một đặc điểm hết

sức biện chứng, coi đó là tiền đề để con người có thể bước vào

các lĩnh vực hoạt động khác. Việc ăn là việc trọng mà mỗi

người, kể cả trời đất, thánh, thần đều phải tôn trọng việc ăn.

Điều đó thể hiện ở câu nói sau đây “Trời đánh còn tránh miếng

ăn” và người Việt cũng đối xử với thánh thần thông qua lễ vật

dâng cúng. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng thì đồ

ăn chiếm vị trí quan trọng số một, người trần gian hay con cháu

trong nhà không được phép ăn trước nếu như chưa cúng tổ tiên

hay thần thánh.

Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng đều được nấu

nướng hết sức cẩn thận, chu đáo, tươm tất, bày biện trang trọng

và thái độ tôn kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Phải chăng,

do cái ăn quan trọng như vậy mà người ta nói: Mọi hành động

của người Việt Nam đều lấy ăn làm đầu như ăn uống, ăn ở, ăn

mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn nằm, ăn ngủ... Bởi vì, người Việt lấy

bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc hằng

ngày.

12

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Không những tuân theo các quy tắc chung trong việc ăn uống,

đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa trong mọi hoạt

động đời sống, trong mọi sinh hoạt vật chất và tình cảm con

người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp.

Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn

nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà họ kém đi lòng phóng

khoáng, hiếu khách. Họ quan niệm: Nhiều no, ít đủ và rất muốn

mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã

chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện tăng sự gắn kết giữa

những người quay quần bên mâm cơm ngồi ăn và nói chuyện

cùng nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi

ăn, những vị trí mâm cơm hay bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện

vị trí, ngôi thứ và sự tôn trọng trong gia đình. Ngồi bên nồi cơm

hay việc bổ sung thêm thức ăn cho mọi người thường là người

phụ nữ hoặc người trong gia đình. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi

vào bàn ăn là người nhỏ phải mời người lớn vào ăn cơm và kính

người lớn trước. Nên ông bà ta thường có câu “Ăn trong nồi,

ngồi trông hướng” là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người Việt.

Cũng như nhiều nước trong khu vực, ẩm thực Việt Nam thể hiện

sự cân bằng, hài hòa giữa âm và dương, thiên nhiên và con

người, Do đó, đồ ăn thức uống của người Việt thường có tác

dụng bổ trợ, nâng cao sức khỏe và chữa một số bệnh thông

thường như cảm cúm, ho, các bệnh có liên quan đến dạ dày...

Những thầy lang xưa kia thường tinh thông về nhiều môn khoa

học thường thức. Như vậy, có thể thấy ẩm thực còn mang tính

triết lý và tìm hiểu về ẩm thực cho ta biết về nhiều lĩnh vực khác

thuộc về văn hóa.

13

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Cuối cùng, văn hóa ẩm thực ngày càng được đông đảo công

chúng và các chuyên gia văn hóa chú ý không chỉ ở nước ta mà

ở nhiều nước hiện nay. Và khi đời sống mọi người được nâng

lên thì ẩm thực cũng là một tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc

sống.

2.2. Ẩm thực Việt Nam – một nền ẩm thực vô cùng phong

phú và đa dạng:

14

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng

nhiệt đới gió mùa. Chính các đặc điểm văn hóa, dân tộc, khí hậu

đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực Việt Nam. Đây

là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau như: luộc,

xào...; nhiều món canh đặc biệt như là: canh chua, trong khi đó

số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn.

Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt gà, thịt heo, vịt...

và các loại hải sản, tôm, cá, ốc... Mỗi vùng miền đều có những

đặc sản mang đậm chất riêng tinh hoa và đặc sắc.

Người Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật được chế

biến từ các loại rau, đậu, thực vật. Hiện nay, đã có rất nhiều

người quen cách ăn lành mạnh như thế này, vừa tốt cho sức

khỏe tránh bị các bệnh như tiểu đường hoặc hạn chế ăn đồ mặn,

cay nóng.

Ẩm thực Việt Nam còn được phối hoặc trộn với các nguyên liệu

không quá cay hoặc không quá mặn hay quá ngọt hoặc béo. Các

nguyên liệu phụ như gia vị để chế biến món ăn thêm phần đậm

đà và phong phú hơn, kích thích vị giác của người ăn. Các gia vị

đặc trưng của dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói chung được sử

dụng hài hòa và thuận theo nguyên lí.

Khi thưởng thức các món ăn, tính chất phối trộn nguyên liệu

một cách tổng hợp nói trên càng trở nên rõ nét hơn, người Việt

ít khi ăn món nào riêng biệt, thường thức từng món, mà một bữa

ăn thường là sự tổng hòa các món ăn từ đầu đến cuối bữa.

Đây cũng là nền ẩm thực sử dụng thường xuyên nước mắm,

tương hay tương đen. Bát nước mắm dùng chung trên mâm cơm

15

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

và nồi cơm chung, từ xưa đến nay biểu thị tính cộng đồng gắn

bó của người Việt.

Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc

trưng ẩm thực Việt Nam toát lên sự đối sánh với các nền văn

hóa ẩm thực khác trên thế giới: món ăn Trung Hoa ăn bổ thận,

món ăn Việt ngon miệng, món ăn Nhật Bản nhìn thích mắt. Tuy

nhiên, đặc điểm này càng ngày càng phai nhòa và trở nên ít bản

sắc trong thời hội nhập.

16

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Chương 3: Những nét chung và khác biệt trong ẩm thực ba

miền.

3.1

Khát quát ẩm thực ba miền:

Ẩm thực miền Bắc thường không đậm các vị cay, béo, ngọt bằng

các vùng khác, chủ yếu sử dụng nước mắm loãng, mắm tôm. Sử

dụng nhiều món rau và các loại thủy sản nước ngọt dễ kiếm như

tôm, cua, cá... và nhìn chung, do truyền thống xa xưa có nền

nông nghiệp nghèo nàn, ẩm thực miền Bắc trước kia ít thịnh

hành các món ăn với nguyên liệu chính là thịt, cá. Nhiều người

đánh giá cao ẩm thực Hà Nội một thời, cho rằng nó đại diện tiêu

biểu nhất của tinh hoa ẩm thực miền Bắc Việt Nam với những

món phở , bún thang, bún chả, các món ăn như cốm Vòng, bánh

cuốn Thanh Trì... và các gia vị đặc sắc như tinh dầu cả cuống,

rau Húng Láng.

So với những vùng miền khác của Việt Nam thì miền Trung có

phong thổ đặc biệt hơn cả bởi quanh năm mùa nóng thì hạn hán,

nắng như đổ lửa, nhưng khi mùa mưa đến thì bão lũ khắp nơi

mang theo cái lạnh như cắt vào da thịt. Đất trời ít dung hòa nên

người miền Trung cũng có lối ăn khác biệt so với hai vùng còn

lại. Con người miền Trung ưa dùng các món ăn có vị đậm hơn,

nồng hơn. Như là những món: mắm, cá kho... thường được ưa

chuộng bởi những ngày thời tiết thay đổi.

Mảnh đất miền Trung vốn cằn cỏi, sản vật thiên nhiên ban tặng

không được nhiều như các miền khác nên những người con ở xứ

Huế đặc biệt là ở miền Trung rất trân trọng và biến những sản

vật tuyệt vời ấy thành những món ăn tuyệt tác.

17

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Và nhắc đến Quảng Nam, người ta không thể không nhắc đến

món gà vườn thơm thảo đất Tam Kỳ hay món cao lầu đặc trung

Phố Hội, món mì Quảng đậm đà phong vị, tô cơm hến cay xé

lòng... Đó chính là nét đặc trưng trong ẩm thực của người miền

Trung. Hãy một lần đặt chân đến vùng đất nắng gió đầy khắc

nghiệt này, đừng quên ghé lại thưởng thức một chút tình ấm áp

của con người xứ Huế nơi đây.hay

Và do đặc điểm hình thành và sinh hoạt kinh tế, văn hóa Nam

Bộ đã định hình nền văn minh sông nước, ở đó nguồn lương

thực – thực phẩm chính là lúa, cá và rau. Từ sự phong phú ấy

mà trải qua suốt quá trình khai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức

uống hằng ngày của người Nam Bộ cho dù trong hoàn cảnh nào,

thiếu thốn, đậm bạc hay là đầy đủ sung túc, họ không thể khám

phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh bắt để chế

biến vô số miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản

của địa phương. Với phong cách thưởng thức “mùa nào thức

nấy” và quan niệm “ăn để mà sống” hầu có đủ dưỡng chất tái

tạo sức lao động, họ đã tỏ ra sành điệu trong việc phối hợp các

yêu cầu cao nhất của miếng ăn: thơm, ngon , bổ, khỏe. Câu nói

“ăn được ngủ được là tiên” rất được người Nam Bộ quan tâm,

xem trọng.

Khẩu vị của người Nam Bộ cũng rất đặc biệt: “gì ra nấy”. Mặn

thì phải mặn quéo lưỡi, ăn cay thì phải gừng già, cũng không thể

thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà. Còn chua thì chua

cho nhăn mặt mới “đã thèm”, ngọt thì phải ngọt ngây hoặc ngọt

gắt, béo thì sẽ béo ngậy còn đắng sẽ đắng như mật. Còn nóng thì

18

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

phải “nóng hổi vừa thổi vừa ăn” mà vì sao họ lại như thế? Vì họ

không dám hoang phí làm rơi vãi hột cơm, hột gạo, mà đều xem

đó như là “hột ngọc”. Có cơm ăn đã mãn nguyện dám đâu nghĩ

đến tới việc hoang phí, bỏ thừa. Tuy Nam Bộ đã qua giai đoạn

cực kỳ gian nan khốn khổ nhưng họ vẫn giữ quan điểm này, họ

không những khó chịu mà còn cảm thấy tự hào và phát huy gìn

giữ để nhắc nhở cho đời này và đời sau biết rằng phải nhớ cội

nguồn, tri ân người mở cõi

Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày trong gia đình thì

tùy điều kiện không gian căn nhà rộng hay hẹp mà bố trí hợp lí

hoặc trên bàn hay ngay dưới sàn nhà. Nhưng khi nhà có đám tiệc

thì không xuề xòa mà phải bày biện nghiêm chỉnh trong tinh

thần quý trọng khách mời, tạo nên nét văn hóa rất riêng mà cũng

rất chung, hài hòa giữa phong tục truyền thống với đặc điểm

vùng sông nước, hoàn thiện nền văn hóa ẩm thực độc đáo.

19

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

3.2

Những nét chung trong ẩm thực ba miền:

Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng

nhiệt đới gió mùa. Ngoài ra lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba

miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chính các đặc điểm về địa lý,

văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của

ẩm thực từng vùng – miền. Việt Nam phải chịu ách đô hộ từ

Trung Quốc đến Pháp và Mỹ... đã tạo sự phân chia địa lí, xã hội

thành các vùng miền khác nhau. Tuy cùng chung một gốc rễ cội

nguồn, nhưng trên cả nước vẫn có sự khác nhau về lối sống,

tiếng nói và tập quán ăn uống.

20

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Chung quy lại thì đặc điểm ăn uống của ba miền nước ta được

quy định bởi các yếu tố:

+ Lịch sử

+ Điều kiện tự nhiên

+ Điều kiện kinh tế

+ Điều kiện xã hội và giao lưu bên ngoài

Nhìn chung, đặc điểm khẩu vị ăn uống của người Việt là thích

các món nóng giòn, sử dụng nhiều gia vị. Về màu sắc, ngoàiuo

aif việc tận dụng tối đa màu sắc tự nhiên của nguyên liệu, còn

thêm vài các màu đỏ (gấc), xanh (lá dừa, rau ngót). Đa số thích

các món ăn bình dân, giản dị nhưng không kém phần giá trị.

Những đặc điểm đó đều tạo sự hấp dẫn đối với sản phẩm. Mỗi

cùng trên đất nước Việt Nam ngoài những đặc điểm chung kể

trên còn có lối ẩm thực riêng mang sắc thái và đặc trưng. Đó là

phong tục, thói quen và văn hóa từng vùng. Cái chung và cái

riêng hòa trộn với nhau khiến phong cách ẩm thực Việt Nam rất

phong phú. Nhưng đôi khi những món ăn đơn giản được bày bán

ở vỉa hè lại hấp dẫn và đông khách hơn những món ăn nơi nhà

hàng sang trọng khác.

21

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

3.3

Những điểm khác biệt trong ẩm thực ba miền:

Người Việt nước ta rất có tài trong việc sáng tạo món ăn. Nấu ăn

là cả một nghệ thuật và khoa học. Ở mỗi miền có một cách chế

biến riêng tạo ra hương vị khác nhau.

22

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Người miền Bắc thì họ ăn theo kiểu vị chua từ những nguyên

liệu như là: dấm, mè... nhưng độ chua vừa phải.

Còn người miền Trung ăn theo vị cay nhiều hơn khác biệt với

miền Bắc và miền Nam, họ chủ yếu tận dụng những nguyên liệu

như: ớt xanh, ớt trái... Và đặc biệt, người Huế sử dụng nhiều gia

vị nhất là chua và cay nhưng cũng góp phần làm cho món ăn

tăng thêm phần hấp dẫn và kích thích người ăn.

Cuối cùng, người miền Nam thì họ sử dụng vị ngọt nhiều như:

bánh, chè, xôi... họ cũng sử dụng nước dừa hay cốm dừa để tăng

vị béo hay vị ngọt của thức ăn.

Tuy có những mặt khác nhau về cách nấu hoặc khẩu vị của từng

miền nhưng món ăn đều có những điều chung và tương đồng,

đều được thể hiện qua bữa ăn và cách chế biến.

Chương 4: Ẩm thực ngày Tết ba miền Bắc Trung Nam .

4.1. Mâm cỗ ngày Tết ở miền Bắc:

23

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Sự tinh tế và tỉ mỉ trong từng chi tiết chính là điểm tạo nên nét

đặc trưng khác biệt trong mâm cơm ngày Tết của người dân

miền Bắc. Mâm cỗ ở miền Bắc được tuân thủ nghiêm theo quy

tắc: 4 bát 4 dĩa được tượng trưng cho 4 mùa và 4 phương. Vừa

chú trọng hình thức, vừa phối hợp hài hòa thể hiện được sự tinh

tế và khéo léo. Trong đó, mâm cỗ của người Hà Nội được mệnh

danh và đánh giá là gìn giữ được nét cổ truyền của người Việt,

cầu kỳ nhưng lại khéo léo.

4

bát sẽ bao gồm các món điển hình như:

. Canh bóng thả nấu với chân tẩy và nước dùng gà

. Chân giò hầm măng khô

. Mọc nấm thả và miến nấu lòng gà

4 đĩa được bao gồm các món như:

. Gà trống thiến luộc

. Nem rán

. Giò lụa (hoặc giò thủ, chả quế)

. Bánh chưng

Và nhiều gia đình sẽ còn bày thêm thịt đông, nói lên món ăn ấy

đặc trưng cho những ngày lạnh ở miền Bắc và làm phong phú

cho bữa ăn đậm vị Tết. Và còn 1 món bánh không thể thiếu đó là

bánh chưng, không chỉ là ẩm thực mà còn là linh hồn của ngày

Tết. Được gói ghém đơn giản với những nguyên liệu như hạt

gạo nếp căng tròn và thịt lợn, nhân đậu xanh còn có cả chiếc lá

dong xanh thể hiện nền văn minh lúa nước ở dân tộc ta.

24

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Món tráng miệng trên mâm cũng rất đa dạng với nhiều loại mứt

Tết và trái cây khác nhau ví dụ như: mứt tắc, mứt gừng, mứt

sen... và cả món chè kho thơm ngọt được nấu kỹ bằng đậu xanh

và đường là món tráng miệng không thể thiếu của người miền

Bắc vào ngày Tết. Món nào cũng đậm đà hương vị, khiến những

người con xa quê nhà đều nhớ mãi về hương vị Tết quê hương.

4.2.

Mâm cỗ ngày Tết ở miền Trung:

25

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Nét đặc biệt trong mâm cỗ Tết miền Trung nằm ở sự giản đơn,

mộc mạc và tràn đầy yêu thương. Các món ăn ngày Tết tại nơi

đây thường chia theo từng đĩa nhỏ vừa phải, được bày biện trên

chiếc mâm tròn, tương đồng với tinh thần tiết kiệm và sẻ chia

vốn có và với thời tiết, khí hậu đặc trưng ở đây tạo nên nét văn

hóa ẩm thực cũng là sự khác biệt riêng so với các vùng miền

khác.

Những món ăn cơ bản thường thấy trong mâm cỗ Tết miền

Trung bao gồm những món như sau:

. Gà luộc

. Thịt heo

. Bánh tét

. Nem chua

. Dưa hành

. Ram cuốn

Đặc biệt, người miền Trung rất thích ăn những món cuốn nên

không thể nào thiếu đi các món như: thịt luộc, cá hấp cuốn bánh

tráng, nem lụi...

Đối với người miền Trung còn có 1 món khoái khẩu nữa là món

bánh tét ăn kèm với dưa món, nếu như miền Bắc có dưa hành thì

miền Trung lại có dưa món. Nguyên liệu để làm dưa món khá

đơn giản chỉ cần đu đủ hay cà rốt, được ngâm chua mặn, ngâm

trong vài ngày là được 1 hũ dưa món đầy sắc vị cho ngày Tết.

Và phần còn lại là làm 1 mẻ bánh tét ngon thì rất đơn giản

nhưng lại cầu kì và cẩn thận, bánh tương đối giống bánh chưng

26

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

nhưng khác là về cách gói bánh thành hình trụ và gói bằng lá

chuối nguyên liệu chỉ cần: giò bò, tré và nem chua là đã đem

đến vị khác biệt vô cùng đậm đà và đắc sắc.

Bởi thế, dù mộc mạc hay cao sang những món ăn ngày Tết của

miền Trung khi qua bàn tay của những người phụ nữ thì đều trở

nên vô cùng hấp dẫn đơn giản nhưng tràn đầy yêu thương..

27

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

4.3.

Mâm cỗ ngày Tết ở miền Nam:

Nam Bộ nổi tiếng là vùng đất bình dị với những con người chất

phác, giản dị và gần gũi. Có lẽ vì thế, nên ẩm thực của họ trong

ngày Tết cũng đơn giản hơn so với miền Bắc và miền Trung. Họ

ít câu nệ về hình thức nhưng đa dạng và gần gũi.

Các món được bày biện trên mâm cỗ ngày Tết miền Nam bao

gồm:

. Bánh Tết

. Thịt kho tàu

. Canh khổ qua

Ngoài 3 món trên còn có những món được chuẩn bị thêm như:

. Gà luộc

. Chả giò

. Gỏi ngó sen

. Tôm khô ngâm củ kiệu

Về phần bánh tét ở miền Nam rất đa dạng các loại nhân, có bánh

tét nhân đậu xanh, đậu đen, chuối hoặc dừa. Có một số gia đình

cũng hay chuẩn bị thêm chả giò chiên, lạp xưởng hoặc tai heo

luộc cuốn với bánh tráng. 1 sự hòa hợp đồng địu, đơn giản

nhưng dễ làm.

Trong cái khí hậu của mùa Xuân mới náo nhiệt và háo hức,

hương vị của các món ăn làm cho những người con xa quê xa xứ

muốn trở về lại quê hương, muốn được thưởng thức một bữa ăn

28

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

gia đình đầy đủ ấm áp và tiếng cười và làm tăng thêm phần đậm

đà truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc.

29

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

PHẦN 3: KẾT LUẬN

Có thể thấy qua những thông tin mà chúng em đã tìm hiểu thì

dDù có bị khoảng cách về địa lí, khác vùng miền, khác khẩu vị

... rằng mâm cỗ hay mâm cúng ngày Tết của 3 miền tuy có nhiều

điểm khác nhau nhưng mỗi khi tết đến xuân về những món ăn

trong mâm cỗ mỗi miền đềutrong món ăn và cách trình bày và

những nguyên liệu đều giống nhau đặc biệt thì hầu như những

món này không thể thiếu trong ngày tết (bánh tét, bánh trưng, gà

luộc,...) đều mặc dù cócó những nguyên tắc khác nhau trong

mâm cũng mỗi nhà nhưng chúng đều giống nhau về và ý nghĩa

và vẫn giữ nguyên được nét truyền thống của ông bà ta thời xưa

truyền lạiý nghĩa chung. Ta có thể thấy Cho dù như nào thì

những mâm cỗ ấy đều thể hiện những giá trị thiêng liêng sâu sắc

và truyền thống của nền văn hóa và tín ngưỡng của con người

Việt Nam. Chúng em mong rằng dù Việt Nam ta có phát triển

như thế nào đi nữa thì mọi người chúng ta đều vẫn giữ lại được

nét truyền thống đẹp này vì đây là một nét đẹp văn hóa rất được

nhiều các nước bạn ngưỡng mộ.Cũng là mong ước chung về

việc giữ gìn nét đẹp và mang đến cái Tết thật ấm no và an yên

bên những người thân.

30

Dđề tài văn hóa ẩm thực miền trung năm 2024

Lời cảm mơn

Để hoàn thành được bài tiểu luận này, em xin chân thành cảm ơn

Ban Giám hiệu, các khoa, các phòng và quý thầy, cô của Trường

Đại Học Văn Hiến, những người đã tận tình giúp đỡ và tạo điều

kiện cho em trong quá trình học tập. Đặc biệt, em xin gửi lời

cảm ơn sâu sắc đén thầy TS Lê Dương Khắc Minh thầy đã trực

tiếp giảng dạy và hướng dẫn em thực hiện bài tiểu luận này bằng

tất cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm sâu sắc.

Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này, do hiểu biết còn

nhiều hạn chế nên bài làm của em có khó tránh khỏi những thiếu

sót. Em rất mong nhận được những lời góp ý của thầy để bài tiểu

luận ngày càng hoàn thiện hơn.

31

Preview text:

Trường Đại Học Văn Hiến Khoa: Xã Hội – Truyền Thông TIỂU LUẬN PHƯƠNG PHÁP HỌC ĐẠI HỌC Đề Tài: “Khám phá nét đặc trưng văn hóa ẩm thực ngày Tết 3 miền Bắc - Trung - Nam” Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Dương Khắc Minh Sinh viên thực hiện: Lại Thị Thanh Vy 1 Nguyễn Huỳnh Hoàng Lan MSSV: 231A100244 - 231A100151 MỤC LỤC: Năm Học: 2023 - 2024 Mục lục..................................................................... . ................................ 1 Phần 1: MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài……………………………………………….. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………. 1.3 Phương pháp nghiên cứu………………………………….. Phần mở đầu........................................................ ..........................Phần 2: NỘI DUNG Chương 1: Nguồn gốc của ngày Tết và văn hóa ẩm thực 1.1 Khái niệm Tết, ngày Tết..................................................... 1.2 Đặc điểm về ngày Tết Việt Nam…………………………. 1.3 Khái niệm văn hóa ẩm thực……………………………… 2 Chương 2: Đặc trưng ẩm thực Việt Nam 2.1 Quan niệm của người Việt Nam về ẩm thực………………. 2.2 Ẩm thực Việt Nam – nền ẩm thực phong phú và đa dạng ....... 32 Chương 3: Những nét chung và khác biệt trong ẩm thực ba miền 3.1 Khát quát ẩm thực ba miền……………………………….. 3.2 Những nét chung trong ẩm thực ba miền…………………. 3.3 Những điểm khác biệt trong ẩm thực ba miền……………. Chương 4: Ẩm thực ngày Tết ba miền Bắc Trung Nam 4.1. Mâm cỗ ngày Tết ở miền Bắc……………………………. 4.2. Mâm cỗ ngày Tết ở miền Trung………………………….. 4.3. Mâm cỗ ngày Tết ở miền Nam…………………………... 3 Phần 1: Phần Mở Đầu 1.1 Lí do chọn đề tài. Với dịp quan trọng như ngày Tết trong đời sống của người Việt ta, các món ăn được lựa chọn kĩ càng trong ngày đầu năm mới nó đã thể hiện được sự truyền thống và nét đặc sắc riêng của mỗi miền Bắc - Trung - Nam. Những bữa ăn ngày Tết này giúp cho chúng ta quay quần gần gũi bên gia đình hơn. Đây là một nét 4 văn hóa đẹp của nước ta, mặc dù khác vùng miền nhưng chúng ta đều có một điểm chung là vẫn giữ nguyên nét đẹp truyền thống và truyền tải những thông điệp chung về cội nguồn . Vì các yếu tố khác nhau về cách sinh hoạt địa lí và các phong tục tập quán. Từ đó đã hình thành nền văn hóa ẩm thực riêng từng miền, mỗi miền có những cách chế biến , cách thưởng thức món ăn khác nhau nên điều này đã tạo ra cho nền ẩm thực Việt Nam ta phong phú đa dạng hơn. Chính vì như vậy để tìm hiểu rõ hơn về văn hóa ẩm thực mỗi miền vào ngày tết nên nhóm chúng em đã chọn đề tài “Khám phá nét đặc trưng văn hóa ẩm thực ngày Tết 3 miền Bắc - Trung – Nam”. Nhóm chúng em mong muốn đem lại các khám phá và những điều thú vị về ẩm thực các vùng miền. 5 1.2 Mục tiêu nghiên cứu. Bài tiểu luận cung cấp cho người đọc về khái niệm tổng quát về ẩm thực ngày Tết Việt Nam, mang đến người đọc cái nhìn bao quát về ẩm thực Việt. Hiểu sau hơn về các vùng miền và nét văn hóa hết sức đa dạng, phong phú và mang đậm dấu ấn Việt. Đồng thời, bài tiểu luận nghiên cứu đã và đưa ra những khác biệt về ẩm thực của ba vùng miền, đưa đến cái nhìn bao quát về văn hóa và nét truyền thống của người Việt ta. Và theo đó các nước lân cận có nền văn hóa tương đồng với Việt Nam chính là nước Trung Quốc hiện nay. Ngoài ra, bài tiểu luận này đem đến cho người đọc nền văn hóa ẩm thực Tết mới mẻ của một trong ba miền Bắc Trung Nam và cũng là một trong 54 dân tộc Việt Nam. 1.3 Phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình làm và thực hiện bài tiểu luận, nhóm chúng em đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu như phân tích tài liệu, tham khảo và phương pháp tổng hợp đã hỗ trợ quá trình làm bài. 6 Phần 2: NỘI DUNGNội dung Chương 1: Nguồn gốc của ngày Tết và văn hóa ẩm thực. 1.1 Khái niệm Tết, ngày Tết: Theo các nhà nghiên cứu, Tết xuất xứ từ chữ Hán 節 đọc theo âm Hán Việt là Tiết. Cả hai âm Hán Việt đều bắt nguồn từ tiếng Hán trung cổ của chữ “Tiết” có nghĩa là đốt tre đốt trúc. Mở rộng nghĩa là một quãng hay một đoạn thời gian trong năm. Văn hóa Đông Á thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước, do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã phân chia thời gian thành 24 tiết khác nhau, ứng với mỗi tiết là một thời khắc giao thời. Cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thời xa xưa chia thời gian thành hai phần chính: Phần thời vụ và phần nông nhàn. Phần thời vụ thì “nông vụ chí kỳ” không còn thì giờ để sum họp, sắp đồ cúng lễ gia tiên, gặp gỡ nhau. Chính vì lẽ đó trong những lúc nông nhàn, người nông nghiệp có tâm lý ăn bù, chơi bù nên đã đặt ra nhiều ngày Tết, phần lễ là phần cúng bái tổ tiên, gia tiên, thánh thần,... và ăn uống bù cho lúc làm ăn đầu tắt mặt tối. Nói một cách khái quát, Tết chỉ những ngày lễ được phân bố theo thời gian trong năm đan xen giữa các khoảng trống thời vụ. 7 Đây là dịp để người Việt hưởng thụ thanh nhàn trong những lúc nông vụ nhàn rỗi. 1.2 Đặc điểm về ngày Tết Việt Nam Đặc điểm về ngày Tết Việt Nam: Các ngày Lễ Tết được phân bố theo thời gian trong năm, đan xen vào giữa các khoảng trống thời vụ. Lễ Tết gồm 2 phần là phần cúng bái thần linh, trời Phật, tổ tiên được gọi là phần lễ và phần ăn uống gọi là ăn Tết. Tết là phải ăn. Tại phần Lễ, con cháu trong gia đình sẽ chuẩn bị những mâm cúng gồm nhiều món ăn như gà luộc, xôi gấc, thịt đông, bánh chưng và các món ngọt khác như chè đỗ... Để dâng lên gia tiên, thần linh mong cầu cho những điều may mắn, thuận lợi đến với gia đình. Ngoài ra, đây cũng là một nghi thức để con cháu trong nhà mời ông bà, tổ tiên những người đã khuất về trần thế đoàn tụ cùng với gia đình trong những ngày Tết. Sau khi phần Lễ kết thúc, thức ăn đã được mang xuống bày biện ra để con cháu trong nhà cùng nhau thưởng thức, hưởng lộc của ông bà. Đây cũng chính là dịp để gia đình sum họp vun đắp bên nhau trong những dịp Lễ Tết như này. Chính vì vậy người dân nước ta mới có khái niệm về quê hương, quê nhà của bản thân mình, gần cha mẹ và người thân bạn bè hay làng xóm để ăn Tết cùng nhau sau những quãng thời gian đi làm và đi học xa. 8 1.3 Khái niệm văn hóa ẩm thực: Theo “Từ điển Việt Nam thông dụng” thì ẩm thực chính là ăn uống – là hoạt động để cung cấp năng lượng cho con người sống và hoạt động. Chính vì vậy nói đến văn hóa ẩm thực là nói đến việc ăn uống và các món ăn uống cùng với nguồn gốc lịch sử của nó. Thời kỳ trước, ăn uống chưa có chọn lọc, họ ăn tất cả những gì kiếm được và đặc biệt là ăn sống và uống sống. Nhưng cùng với sự phát triển của con người thì hoạt động nghệ thuật trong ăn uống hay ẩm thực cũng thay đổi theo hướng tích cực hơn với sự đa dạng của các món ăn và cách chế biến đơn giản, tiên tiến. Trước kia, các món ăn chỉ đáp ứng nhu cầu ăn cho no bụng nhưng bây giờ con người quan tâm đến tính thẩm mỹ của món ăn, ăn bằng mắt, bằng mũi và tất cả các giác quan của cơ thể... Vì thế, các món ăn hay đồ uống đều được chế biến và bày biện một cách đặc sắc hơn, cầu kỳ hơn và nấu ăn cũng như đang thưởng thức món ăn trở thành một nghệ thuật. Ẩm thực không chỉ là sự tiếp cận về góc độ văn hóa vật chất mà còn chứa đựng trong đó văn hóa tinh thần. 9 Theo nghĩa rộng, “Văn hóa ẩm thực” là một phần văn hóa nằm trong tổng thể, thực thể các đặc trưng diện mạo về vật chất, tinh thần, tri thức, tình cảm... Khắc họa về một số nét cơ bản, đặc sắc của một cộng đồng, gia đình hay làng xóm, vùng miền hoặc quốc gia... Trên bình diện văn hóa tinh thần, văn hóa ẩm thực là cách ứng xử, giao tiếp trong ăn uống và nghệ thuật chế biến thức ăn, ý nghĩa, tượng trưng cho món ăn đó “qua ăn uống mới thấy con người đối đãi với nhau như thế nào”. Theo nghĩa hẹp, “văn hóa ẩm thực” là những tập quán và khẩu vị của con người, những ứng xử con người trong ăn uống, những tập tục kiêng kị trong ăn uống, những phương thức chế biến bày biện trong ăn uống và cách thưởng thức món ăn. Hiểu và sử dụng đúng các món ăn sao cho có lợi cho sức khỏe nhất của gia đình bản thân, cũng như thẩm mỹ nhất luôn là mục tiêu hướng tới của mỗi con người. 10 . Chương 2: Đặc trưng ẩm thực Việt Nam. 2.1. Quan niệm của người Việt Nam về ẩm thực: Ai cũng biết rằng: Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người, nó cũng chứa những ý nghĩa triết lý. Từ xa xưa, trong dân gian nước ta đã tổng kết thành câu tục ngữ: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” chủ yếu để nhắc nhở những 11 người mới bước vào đời thì khâu đầu tiên là “Học ăn”. Ở các nước khác trên thế giới, ngoài quan niệm dân gian thì các nhà chuyên môn, những người yêu thích, hiểu ẩm thực... Đều bàn luận, viết những tài liệu, những cuốn sách hay về nghệ thuật ăn uống.. Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Người Việt cho rằng “Có thực mới vực được đạo”, đây là một đặc điểm hết sức biện chứng, coi đó là tiền đề để con người có thể bước vào các lĩnh vực hoạt động khác. Việc ăn là việc trọng mà mỗi người, kể cả trời đất, thánh, thần đều phải tôn trọng việc ăn. Điều đó thể hiện ở câu nói sau đây “Trời đánh còn tránh miếng ăn” và người Việt cũng đối xử với thánh thần thông qua lễ vật dâng cúng. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng thì đồ ăn chiếm vị trí quan trọng số một, người trần gian hay con cháu trong nhà không được phép ăn trước nếu như chưa cúng tổ tiên hay thần thánh. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng đều được nấu nướng hết sức cẩn thận, chu đáo, tươm tất, bày biện trang trọng và thái độ tôn kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Phải chăng, do cái ăn quan trọng như vậy mà người ta nói: Mọi hành động của người Việt Nam đều lấy ăn làm đầu như ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn nằm, ăn ngủ... Bởi vì, người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc hằng ngày. 12 Không những tuân theo các quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh hoạt vật chất và tình cảm con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà họ kém đi lòng phóng khoáng, hiếu khách. Họ quan niệm: Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện tăng sự gắn kết giữa những người quay quần bên mâm cơm ngồi ăn và nói chuyện cùng nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí mâm cơm hay bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí, ngôi thứ và sự tôn trọng trong gia đình. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung thêm thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ hoặc người trong gia đình. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là người nhỏ phải mời người lớn vào ăn cơm và kính người lớn trước. Nên ông bà ta thường có câu “Ăn trong nồi, ngồi trông hướng” là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người Việt. Cũng như nhiều nước trong khu vực, ẩm thực Việt Nam thể hiện sự cân bằng, hài hòa giữa âm và dương, thiên nhiên và con người, Do đó, đồ ăn thức uống của người Việt thường có tác dụng bổ trợ, nâng cao sức khỏe và chữa một số bệnh thông thường như cảm cúm, ho, các bệnh có liên quan đến dạ dày... Những thầy lang xưa kia thường tinh thông về nhiều môn khoa học thường thức. Như vậy, có thể thấy ẩm thực còn mang tính triết lý và tìm hiểu về ẩm thực cho ta biết về nhiều lĩnh vực khác thuộc về văn hóa. 13 Cuối cùng, văn hóa ẩm thực ngày càng được đông đảo công chúng và các chuyên gia văn hóa chú ý không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước hiện nay. Và khi đời sống mọi người được nâng lên thì ẩm thực cũng là một tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc sống. 2.2. Ẩm thực Việt Nam – một nền ẩm thực vô cùng phong phú và đa dạng: 14 Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Chính các đặc điểm văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực Việt Nam. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau như: luộc, xào...; nhiều món canh đặc biệt như là: canh chua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt gà, thịt heo, vịt... và các loại hải sản, tôm, cá, ốc... Mỗi vùng miền đều có những đặc sản mang đậm chất riêng tinh hoa và đặc sắc. Người Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật được chế biến từ các loại rau, đậu, thực vật. Hiện nay, đã có rất nhiều người quen cách ăn lành mạnh như thế này, vừa tốt cho sức khỏe tránh bị các bệnh như tiểu đường hoặc hạn chế ăn đồ mặn, cay nóng. Ẩm thực Việt Nam còn được phối hoặc trộn với các nguyên liệu không quá cay hoặc không quá mặn hay quá ngọt hoặc béo. Các nguyên liệu phụ như gia vị để chế biến món ăn thêm phần đậm đà và phong phú hơn, kích thích vị giác của người ăn. Các gia vị đặc trưng của dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói chung được sử dụng hài hòa và thuận theo nguyên lí. Khi thưởng thức các món ăn, tính chất phối trộn nguyên liệu một cách tổng hợp nói trên càng trở nên rõ nét hơn, người Việt ít khi ăn món nào riêng biệt, thường thức từng món, mà một bữa ăn thường là sự tổng hòa các món ăn từ đầu đến cuối bữa. Đây cũng là nền ẩm thực sử dụng thường xuyên nước mắm, tương hay tương đen. Bát nước mắm dùng chung trên mâm cơm 15 và nồi cơm chung, từ xưa đến nay biểu thị tính cộng đồng gắn bó của người Việt. Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam toát lên sự đối sánh với các nền văn hóa ẩm thực khác trên thế giới: món ăn Trung Hoa ăn bổ thận, món ăn Việt ngon miệng, món ăn Nhật Bản nhìn thích mắt. Tuy nhiên, đặc điểm này càng ngày càng phai nhòa và trở nên ít bản sắc trong thời hội nhập. 16 Chương 3: Những nét chung và khác biệt trong ẩm thực ba miền. 3.1 Khát quát ẩm thực ba miền: Ẩm thực miền Bắc thường không đậm các vị cay, béo, ngọt bằng các vùng khác, chủ yếu sử dụng nước mắm loãng, mắm tôm. Sử dụng nhiều món rau và các loại thủy sản nước ngọt dễ kiếm như tôm, cua, cá... và nhìn chung, do truyền thống xa xưa có nền nông nghiệp nghèo nàn, ẩm thực miền Bắc trước kia ít thịnh hành các món ăn với nguyên liệu chính là thịt, cá. Nhiều người đánh giá cao ẩm thực Hà Nội một thời, cho rằng nó đại diện tiêu biểu nhất của tinh hoa ẩm thực miền Bắc Việt Nam với những món phở , bún thang, bún chả, các món ăn như cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì... và các gia vị đặc sắc như tinh dầu cả cuống, rau Húng Láng. So với những vùng miền khác của Việt Nam thì miền Trung có phong thổ đặc biệt hơn cả bởi quanh năm mùa nóng thì hạn hán, nắng như đổ lửa, nhưng khi mùa mưa đến thì bão lũ khắp nơi mang theo cái lạnh như cắt vào da thịt. Đất trời ít dung hòa nên người miền Trung cũng có lối ăn khác biệt so với hai vùng còn lại. Con người miền Trung ưa dùng các món ăn có vị đậm hơn, nồng hơn. Như là những món: mắm, cá kho... thường được ưa chuộng bởi những ngày thời tiết thay đổi. Mảnh đất miền Trung vốn cằn cỏi, sản vật thiên nhiên ban tặng không được nhiều như các miền khác nên những người con ở xứ Huế đặc biệt là ở miền Trung rất trân trọng và biến những sản vật tuyệt vời ấy thành những món ăn tuyệt tác. 17 Và nhắc đến Quảng Nam, người ta không thể không nhắc đến món gà vườn thơm thảo đất Tam Kỳ hay món cao lầu đặc trung Phố Hội, món mì Quảng đậm đà phong vị, tô cơm hến cay xé lòng... Đó chính là nét đặc trưng trong ẩm thực của người miền Trung. Hãy một lần đặt chân đến vùng đất nắng gió đầy khắc nghiệt này, đừng quên ghé lại thưởng thức một chút tình ấm áp của con người xứ Huế nơi đây.hay Và do đặc điểm hình thành và sinh hoạt kinh tế, văn hóa Nam Bộ đã định hình nền văn minh sông nước, ở đó nguồn lương thực – thực phẩm chính là lúa, cá và rau. Từ sự phong phú ấy mà trải qua suốt quá trình khai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hằng ngày của người Nam Bộ cho dù trong hoàn cảnh nào, thiếu thốn, đậm bạc hay là đầy đủ sung túc, họ không thể khám phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh bắt để chế biến vô số miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản của địa phương. Với phong cách thưởng thức “mùa nào thức nấy” và quan niệm “ăn để mà sống” hầu có đủ dưỡng chất tái tạo sức lao động, họ đã tỏ ra sành điệu trong việc phối hợp các yêu cầu cao nhất của miếng ăn: thơm, ngon , bổ, khỏe. Câu nói “ăn được ngủ được là tiên” rất được người Nam Bộ quan tâm, xem trọng. Khẩu vị của người Nam Bộ cũng rất đặc biệt: “gì ra nấy”. Mặn thì phải mặn quéo lưỡi, ăn cay thì phải gừng già, cũng không thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà. Còn chua thì chua cho nhăn mặt mới “đã thèm”, ngọt thì phải ngọt ngây hoặc ngọt gắt, béo thì sẽ béo ngậy còn đắng sẽ đắng như mật. Còn nóng thì 18 phải “nóng hổi vừa thổi vừa ăn” mà vì sao họ lại như thế? Vì họ không dám hoang phí làm rơi vãi hột cơm, hột gạo, mà đều xem đó như là “hột ngọc”. Có cơm ăn đã mãn nguyện dám đâu nghĩ đến tới việc hoang phí, bỏ thừa. Tuy Nam Bộ đã qua giai đoạn cực kỳ gian nan khốn khổ nhưng họ vẫn giữ quan điểm này, họ không những khó chịu mà còn cảm thấy tự hào và phát huy gìn giữ để nhắc nhở cho đời này và đời sau biết rằng phải nhớ cội nguồn, tri ân người mở cõi Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày trong gia đình thì tùy điều kiện không gian căn nhà rộng hay hẹp mà bố trí hợp lí hoặc trên bàn hay ngay dưới sàn nhà. Nhưng khi nhà có đám tiệc thì không xuề xòa mà phải bày biện nghiêm chỉnh trong tinh thần quý trọng khách mời, tạo nên nét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa giữa phong tục truyền thống với đặc điểm vùng sông nước, hoàn thiện nền văn hóa ẩm thực độc đáo. 19 3.2 Những nét chung trong ẩm thực ba miền: Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Ngoài ra lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chính các đặc điểm về địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực từng vùng – miền. Việt Nam phải chịu ách đô hộ từ Trung Quốc đến Pháp và Mỹ... đã tạo sự phân chia địa lí, xã hội thành các vùng miền khác nhau. Tuy cùng chung một gốc rễ cội nguồn, nhưng trên cả nước vẫn có sự khác nhau về lối sống, tiếng nói và tập quán ăn uống. 20 Chung quy lại thì đặc điểm ăn uống của ba miền nước ta được quy định bởi các yếu tố: + Lịch sử + Điều kiện tự nhiên + Điều kiện kinh tế + Điều kiện xã hội và giao lưu bên ngoài Nhìn chung, đặc điểm khẩu vị ăn uống của người Việt là thích các món nóng giòn, sử dụng nhiều gia vị. Về màu sắc, ngoàiuo aif việc tận dụng tối đa màu sắc tự nhiên của nguyên liệu, còn thêm vài các màu đỏ (gấc), xanh (lá dừa, rau ngót). Đa số thích các món ăn bình dân, giản dị nhưng không kém phần giá trị. Những đặc điểm đó đều tạo sự hấp dẫn đối với sản phẩm. Mỗi cùng trên đất nước Việt Nam ngoài những đặc điểm chung kể trên còn có lối ẩm thực riêng mang sắc thái và đặc trưng. Đó là phong tục, thói quen và văn hóa từng vùng. Cái chung và cái riêng hòa trộn với nhau khiến phong cách ẩm thực Việt Nam rất phong phú. Nhưng đôi khi những món ăn đơn giản được bày bán ở vỉa hè lại hấp dẫn và đông khách hơn những món ăn nơi nhà hàng sang trọng khác. 21 3.3 Những điểm khác biệt trong ẩm thực ba miền: Người Việt nước ta rất có tài trong việc sáng tạo món ăn. Nấu ăn là cả một nghệ thuật và khoa học. Ở mỗi miền có một cách chế biến riêng tạo ra hương vị khác nhau. 22 Người miền Bắc thì họ ăn theo kiểu vị chua từ những nguyên liệu như là: dấm, mè... nhưng độ chua vừa phải. Còn người miền Trung ăn theo vị cay nhiều hơn khác biệt với miền Bắc và miền Nam, họ chủ yếu tận dụng những nguyên liệu như: ớt xanh, ớt trái... Và đặc biệt, người Huế sử dụng nhiều gia vị nhất là chua và cay nhưng cũng góp phần làm cho món ăn tăng thêm phần hấp dẫn và kích thích người ăn. Cuối cùng, người miền Nam thì họ sử dụng vị ngọt nhiều như: bánh, chè, xôi... họ cũng sử dụng nước dừa hay cốm dừa để tăng vị béo hay vị ngọt của thức ăn. Tuy có những mặt khác nhau về cách nấu hoặc khẩu vị của từng miền nhưng món ăn đều có những điều chung và tương đồng, đều được thể hiện qua bữa ăn và cách chế biến. Chương 4: Ẩm thực ngày Tết ba miền Bắc Trung Nam . 4.1. Mâm cỗ ngày Tết ở miền Bắc: 23 Sự tinh tế và tỉ mỉ trong từng chi tiết chính là điểm tạo nên nét đặc trưng khác biệt trong mâm cơm ngày Tết của người dân miền Bắc. Mâm cỗ ở miền Bắc được tuân thủ nghiêm theo quy tắc: 4 bát 4 dĩa được tượng trưng cho 4 mùa và 4 phương. Vừa chú trọng hình thức, vừa phối hợp hài hòa thể hiện được sự tinh tế và khéo léo. Trong đó, mâm cỗ của người Hà Nội được mệnh danh và đánh giá là gìn giữ được nét cổ truyền của người Việt, cầu kỳ nhưng lại khéo léo. 4 bát sẽ bao gồm các món điển hình như: . Canh bóng thả nấu với chân tẩy và nước dùng gà . Chân giò hầm măng khô . Mọc nấm thả và miến nấu lòng gà 4 đĩa được bao gồm các món như: . Gà trống thiến luộc . Nem rán . Giò lụa (hoặc giò thủ, chả quế) . Bánh chưng Và nhiều gia đình sẽ còn bày thêm thịt đông, nói lên món ăn ấy đặc trưng cho những ngày lạnh ở miền Bắc và làm phong phú cho bữa ăn đậm vị Tết. Và còn 1 món bánh không thể thiếu đó là bánh chưng, không chỉ là ẩm thực mà còn là linh hồn của ngày Tết. Được gói ghém đơn giản với những nguyên liệu như hạt gạo nếp căng tròn và thịt lợn, nhân đậu xanh còn có cả chiếc lá dong xanh thể hiện nền văn minh lúa nước ở dân tộc ta. 24 Món tráng miệng trên mâm cũng rất đa dạng với nhiều loại mứt Tết và trái cây khác nhau ví dụ như: mứt tắc, mứt gừng, mứt sen... và cả món chè kho thơm ngọt được nấu kỹ bằng đậu xanh và đường là món tráng miệng không thể thiếu của người miền Bắc vào ngày Tết. Món nào cũng đậm đà hương vị, khiến những người con xa quê nhà đều nhớ mãi về hương vị Tết quê hương. 4.2. Mâm cỗ ngày Tết ở miền Trung: 25 Nét đặc biệt trong mâm cỗ Tết miền Trung nằm ở sự giản đơn, mộc mạc và tràn đầy yêu thương. Các món ăn ngày Tết tại nơi đây thường chia theo từng đĩa nhỏ vừa phải, được bày biện trên chiếc mâm tròn, tương đồng với tinh thần tiết kiệm và sẻ chia vốn có và với thời tiết, khí hậu đặc trưng ở đây tạo nên nét văn hóa ẩm thực cũng là sự khác biệt riêng so với các vùng miền khác. Những món ăn cơ bản thường thấy trong mâm cỗ Tết miền Trung bao gồm những món như sau: . Gà luộc . Thịt heo . Bánh tét . Nem chua . Dưa hành . Ram cuốn Đặc biệt, người miền Trung rất thích ăn những món cuốn nên không thể nào thiếu đi các món như: thịt luộc, cá hấp cuốn bánh tráng, nem lụi... Đối với người miền Trung còn có 1 món khoái khẩu nữa là món bánh tét ăn kèm với dưa món, nếu như miền Bắc có dưa hành thì miền Trung lại có dưa món. Nguyên liệu để làm dưa món khá đơn giản chỉ cần đu đủ hay cà rốt, được ngâm chua mặn, ngâm trong vài ngày là được 1 hũ dưa món đầy sắc vị cho ngày Tết. Và phần còn lại là làm 1 mẻ bánh tét ngon thì rất đơn giản nhưng lại cầu kì và cẩn thận, bánh tương đối giống bánh chưng 26 nhưng khác là về cách gói bánh thành hình trụ và gói bằng lá chuối nguyên liệu chỉ cần: giò bò, tré và nem chua là đã đem đến vị khác biệt vô cùng đậm đà và đắc sắc. Bởi thế, dù mộc mạc hay cao sang những món ăn ngày Tết của miền Trung khi qua bàn tay của những người phụ nữ thì đều trở nên vô cùng hấp dẫn đơn giản nhưng tràn đầy yêu thương.. 27 4.3. Mâm cỗ ngày Tết ở miền Nam: Nam Bộ nổi tiếng là vùng đất bình dị với những con người chất phác, giản dị và gần gũi. Có lẽ vì thế, nên ẩm thực của họ trong ngày Tết cũng đơn giản hơn so với miền Bắc và miền Trung. Họ ít câu nệ về hình thức nhưng đa dạng và gần gũi. Các món được bày biện trên mâm cỗ ngày Tết miền Nam bao gồm: . Bánh Tết . Thịt kho tàu . Canh khổ qua Ngoài 3 món trên còn có những món được chuẩn bị thêm như: . Gà luộc . Chả giò . Gỏi ngó sen . Tôm khô ngâm củ kiệu Về phần bánh tét ở miền Nam rất đa dạng các loại nhân, có bánh tét nhân đậu xanh, đậu đen, chuối hoặc dừa. Có một số gia đình cũng hay chuẩn bị thêm chả giò chiên, lạp xưởng hoặc tai heo luộc cuốn với bánh tráng. 1 sự hòa hợp đồng địu, đơn giản nhưng dễ làm. Trong cái khí hậu của mùa Xuân mới náo nhiệt và háo hức, hương vị của các món ăn làm cho những người con xa quê xa xứ muốn trở về lại quê hương, muốn được thưởng thức một bữa ăn 28 gia đình đầy đủ ấm áp và tiếng cười và làm tăng thêm phần đậm đà truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc. 29 PHẦN 3: KẾT LUẬN Có thể thấy qua những thông tin mà chúng em đã tìm hiểu thì dDù có bị khoảng cách về địa lí, khác vùng miền, khác khẩu vị ... rằng mâm cỗ hay mâm cúng ngày Tết của 3 miền tuy có nhiều điểm khác nhau nhưng mỗi khi tết đến xuân về những món ăn trong mâm cỗ mỗi miền đềutrong món ăn và cách trình bày và những nguyên liệu đều giống nhau đặc biệt thì hầu như những món này không thể thiếu trong ngày tết (bánh tét, bánh trưng, gà luộc,...) đều mặc dù cócó những nguyên tắc khác nhau trong mâm cũng mỗi nhà nhưng chúng đều giống nhau về và ý nghĩa và vẫn giữ nguyên được nét truyền thống của ông bà ta thời xưa truyền lạiý nghĩa chung. Ta có thể thấy Cho dù như nào thì những mâm cỗ ấy đều thể hiện những giá trị thiêng liêng sâu sắc và truyền thống của nền văn hóa và tín ngưỡng của con người Việt Nam. Chúng em mong rằng dù Việt Nam ta có phát triển như thế nào đi nữa thì mọi người chúng ta đều vẫn giữ lại được nét truyền thống đẹp này vì đây là một nét đẹp văn hóa rất được nhiều các nước bạn ngưỡng mộ.Cũng là mong ước chung về việc giữ gìn nét đẹp và mang đến cái Tết thật ấm no và an yên bên những người thân. 30 Lời cảm mơn Để hoàn thành được bài tiểu luận này, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các khoa, các phòng và quý thầy, cô của Trường Đại Học Văn Hiến, những người đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đén thầy TS Lê Dương Khắc Minh thầy đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn em thực hiện bài tiểu luận này bằng tất cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm sâu sắc. Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này, do hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài làm của em có khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những lời góp ý của thầy để bài tiểu luận ngày càng hoàn thiện hơn. 31