Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp Thủ tướng với doanh nghiệp nhà nước sáng 24-3 - Ảnh: NHẬT BẮC

Chúng ta xác định doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Thủ tướng Phạm Minh Chính

Sáng 24-3, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp nhà nước: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội.

Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được Đảng, Nhà nước rất quan tâm. 

Đánh giá doanh nghiệp nhà nước luôn giữ vững vai trò quan trọng, then chốt và là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. 

Tuy nhiên, khu vực này vẫn chưa thể hiện tốt vị thế của mình, chưa phát huy được lợi thế về nắm giữ nguồn lực trong thực hiện sứ mệnh của mình. Vì vậy, việc nhận diện những điểm nghẽn trong cơ chế, chính sách đối với khu vực doanh nghiệp là yêu cầu đặt ra để nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước. 

Gợi ý các nội dung thảo luận, Thủ tướng đặt vấn đề: 

- Vì sao các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, thu hút, thúc đẩy các thành phần khác phát triển?

- Tại sao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp so với nguồn lực đang nắm giữ? 

- Tại sao lại có tình trạng như vậy, nguyên nhân là gì, chủ quan và khách quan như thế nào? Do cơ chế chính sách hay tổ chức thực hiện hay do con người? 

- Phải chăng là do các doanh nghiệp chưa chú trọng đầu tư phát triển ngành nghề chính của mình hay vì nguyên nhân nào khác?

Báo cáo tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho hay doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, công nghệ, nhân lực chất lượng cao; có doanh thu và đóng góp đáng kể vào thu ngân sách nhà nước.

Theo tính toán, tổng tài sản của doanh nghiệp nhà nước hiện là 4 triệu tỉ đồng, mỗi doanh nghiệp có quy mô tài sản bình quân khoảng 4.100 tỉ đồng, cao gấp 10 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 109 lần doanh nghiệp tư nhân trong nước.

Nắm giữ nguồn lực, tạo ra lợi nhuận nhiều hơn nhưng có chỉ số nợ cao nhất

Khối này tạo ra tỉ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu bình quân là 10,46%, tỉ suất lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản bình quân là 4,87%, cao hơn khối doanh nghiệp tư nhân; đóng góp 28% thuế và các khoản nộp ngân sách, chi phối các ngành, lĩnh vực quan trọng, chiếm 24,6% tổng vốn đầu tư của Nhà nước và chiếm 12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Tuy vậy, chỉ ra những tồn tại, hạn chế, ông Dũng cho hay những kết quả mà doanh nghiệp nhà nước đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, chưa có vai trò dẫn dắt, tạo động lực đối với nền kinh tế.

Dẫn chứng là giai đoạn vừa qua, khối này chưa có các dự án đầu tư quy mô đủ lớn tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam.

Doanh nghiệp nhà nước không chỉ có xu hướng giảm dần quy mô và tỉ lệ đóng góp, mà còn có chỉ số nợ cao nhất, chỉ hoạt động hiệu quả được trong một số ngành có lợi thế như khai thác khoáng sản, tài chính ngân hàng, viễn thông.

Trong khi đó, năng lực cạnh tranh, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo còn hạn chế. Các doanh nghiệp này hoạt động thiên hướng nội, về lượng, chưa chú trọng đến chất, đổi mới quản trị còn chậm, cơ chế đãi ngộ, xử lý trách nhiệm vẫn theo quy định như công chức nhà nước nên không tạo được động lực khuyến khích, cán bộ dám chủ động, đổi mới.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư đánh giá đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà nước với kinh tế rất hạn chế - Ảnh: NHẬT BẮC

Đáng chú ý, các dự án đầu tư mới cũng không được chú trọng, thúc đẩy trong thời gian qua nên có rất ít công trình, dự án quy mô lớn được khởi công. Riêng đối với 19 tập đoàn tổng công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước và Viettel, nơi nắm giữ đến gần 90% nguồn lực của khu vực doanh nghiệp nhà nước, chỉ triển khai thực hiện 3 dự án đầu tư nhóm A.

"Việc không tạo ra được năng lực tăng thêm này sẽ dẫn đến trong 5 năm tới, đóng góp của doanh nghiệp nhà nước đối với nền kinh tế sẽ rất hạn chế, khi tỉ trọng đóng góp hiện nay là 29%" - bộ trưởng nói và đánh giá thêm là việc tái cơ cấu toàn diện doanh nghiệp nhà nước vẫn mang tính hình thức, thiếu tầm nhìn chiến lược để phát triển doanh nghiệp, nhất là tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Chỉ ra các nguyên nhân, ông Dũng cho rằng có vấn đề từ hệ thống pháp luật khi các quy định liên quan quản trị doanh nghiệp, quản lý vốn, tài sản, đất đai, đấu giá, đấu thầu… chưa đồng bộ, phù hợp theo thị trường. Việc củng cố vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước chưa được quan tâm đúng mức khi chủ yếu tập trung đẩy mạnh cổ phần hóa, xử lý tồn tại, yếu kém, tiêu cực của giai đoạn trước.

Trong khi quy định chưa thực sự phân cấp, trao quyền tự chủ, nên các doanh nghiệp nhà nước không được làm hoặc không dám làm những việc đáng ra phải làm bình thường như một doanh nghiệp. Việc chậm trễ ra quyết định đã làm mất đi cơ hội, giảm đi hiệu quả hoạt động. Quy định tiền lương, chế độ đãi ngộ chưa hợp lý, công tác quản lý chưa rõ ràng...

Tăng đầu tư để doanh nghiệp nhà nước có vai trò đầu đàn, dẫn dắt

Chỉ ra những bài học như cần huy động và tập trung nguồn lực cho doanh nghiệp nhà nước phát triển, doanh nghiệp nhà nước cần có đầy đủ quyền, nghĩa vụ để hoạt động theo nguyên tắc thị trường, tự chủ kinh doanh, ông Dũng cho rằng thời gian tới cần tăng đầu tư, tăng đổi mới sáng tạo, đổi mới tư duy: doanh nghiệp nhà nước đầu đàn, dẫn dắt cần phải "nghĩ lớn, làm lớn", đầu tư các dự án quy mô lớn, có tính chất lan tỏa…

Gắn phát triển doanh nghiệp nhà nước với chiến lược phát triển ngành, xác định lĩnh vực then chốt có sự hiện diện của doanh nghiệp nhà nước như năng lượng tái tạo, công nghiệp công nghệ cao, kết cấu hạ tầng quan trọng của quốc gia…. Khuyến khích doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi mô hình phát triển hướng tới sử dụng năng lượng sạch, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…

Cần thay đổi nhận thức, quan điểm về cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư nhà nước, với mục tiêu không phải là rút vốn nhà nước ra khỏi doanh nghiệp nhà nước, thu hẹp phạm vi, quy mô, mà tái cơ cấu lại danh mục đầu tư, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và giá trị đầu tư.

Có tư duy mới về cổ phần hóa, đánh giá chỉ tiêu tài chính tổng thể

Đến nay với 94 doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, nắm giữ khoảng 90% tổng tài sản, 88% tổng doanh thu và 86% lợi nhuận trước thuế của toàn bộ doanh nghiệp, nên tới đây cần xây dựng chính sách hỗ trợ, khuyến khích, công cụ quản lý riêng với doanh nghiệp nhà nước, gắn với sứ mệnh từng ngành.

Không áp đặt mệnh lệnh hành chính đối với cổ phần hóa, thoái vốn, mà thực hiện theo nguyên tắc và tín hiệu thị trường, đảm bảo công khai, minh bạch, hiệu quả.

Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ về doanh nghiệp nhà nước, ứng dụng công nghệ thông tin để đo lường, đánh giá hiệu quả, phát hiện sớm các rủi ro, ngăn ngừa sai phạm, thất thoát, lãng phí. Cơ quan quản lý thay đổi cách làm việc, không can thiệp vào quá trình điều hành, quản trị kinh doanh tại doanh nghiệp.

Phân công một bộ làm đầu mối quản lý nhà nước, gắn cơ chế giám sát trên cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động với các chỉ tiêu tài chính tổng thể, không đi theo từng dự án/hoạt động cụ thể, nâng cao trách nhiệm giải trình. Nghiên cứu cơ chế, chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đổi mới công tác quản lý cán bộ…

Cơ chế chưa đủ ‘mở’ để chọn người giỏi lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước

N.AN

Nói đến Doanh nghiệp Nhà nước thì có thể hiểu ngày rằng đây là loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước theo như quy định của pháp luật hiện hành. Trong thời buổi kinh tế đang ngày càng phát triển mạnh mẽ ở nước ta nên sự ra đời và phát triển của các mô hình kinh doanh là doanh nghiệp tư nhân, có phần vốn góp do các cá nhan đông ý góp vốn vào công ty. Doanh nghiệp Nhà nước thường là các ngành kinh doanh chủ chốt của đất nước như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xăng dầu, hàng không,…. Vậy, pháp luật doanh nghiệp hiện hành đã có quy định về khái niệm doanh nghiệp nhà nước là gì? Đặc điểm và phân loại doanh nghiệp nhà nước có nội dung ra sao?

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568

Cơ sở pháp lý:

Luật Doanh nghiệp năm 2020

1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước là gì?

Ngoài Việt nam thì trên thế giới cũng có rất nhiều quốc gia quy định về loại hình Doanh nghiệp nhà nước, chính vì vậy mà quy định về khái niệm của doanh nghiệp nhà nước cũng được mỗi quốc gia hiểu theo cách khác nhau. Trong đó, phải kể đến đầu tiên là việc định nghĩa doanh nghiệp nhà nước của Liên hợp quốc định nghĩa là: “xí nghiệp quốc doanh là những xí nghiệp do nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quả trình ra quyết định của xí nghiệp’’. Từ định nghĩa này có thể thấy rằng việc Liên hợp quốc rất chú trọng đến vấn đề sở hữu và quyền kiểm soát của nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước.

Song song với đó thì theo như quy định của Ngân hàng thế giới về định nghĩa của Doanh nghiệp Nhà nước lại cho rằng: “Doanh nghiệp nhà nước là các thực thể kinh tế thuộc sở hữu hay thuộc quyền kiểm soát của chinh phủ mà phần lớn thu nhập của họ được tạo ra thông qua việc bán các hàng hoá và dịch vụ”. Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước được hiểu theo cách đơn giản nhất là việc các đơn vị thực hiện các hoạt động kinh doanh, không bao gồm các đơn vị, các ngành thuộc sở hữu nhà nước trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo vệ quốc phòng, an ninh …

Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp nhà nước của New Zealand năm 1986, tất cả các doanh nghiệp nhà nước đều là công ty TNHH mà nhà nước là chủ sở hữu duy nhất và hai bộ trưởng thay mặt nhà nước thực hiện quyền sở hữu này.

Như vậy, mặc dù các quốc gia trên thế giới đều đưa ra các quy định về định nghĩa doanh nghiệp Nhà nước của mình là khác nhau  nhưng các tổ chức quốc tế và nhiều nước trên thế giới đều thống nhất và đi đến một quyết định chung về việc định nghĩa nội dung của Doanh nghiệp nhà nước là: Doanh nghiệp nhà nước là những cơ sở sản xuất kinh doanh do nhà nước sở hữu toàn bộ hay phần lớn vốn trong doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này thuộc quyền sở hữu của nhà nước hay chủ yếu thuộc quyền sở hữu của nhà nước, do đó chính phủ có thể gây ảnh hưởng có tính chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp đối với doanh nghiệp.

Dựa trên các cách quy định và định nghĩa về doanh nghiệp Nhà nước nêu trên thì ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước một bộ phận của kinh tế nhà nước và luôn được xác định giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, quan niệm về doanh nghiệp nhà nước trong các văn bản pháp luật ở nước ta có sự thay đổi theo thời gian. Theo khoản 11 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 của Luật này.”.

Xem thêm: Doanh nghiệp ngoài nhà nước là gì? Quy định về doanh nghiệp ngoài quốc doanh?

Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ti Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.

Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp một chủ trong trường hợp nhà nước  sở hữu toàn bộ vốn điều lệ [tức sở hữu 100%]. Doanh nghiệp nhà nước nhiều chủ sở hữu  trong trường hợp có cổ phần, vốn góp chi phối có tỉ lệ trên 50% và dưới 100%.

2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước:

– Chủ đầu tư: là Nhà nước hoặc Nhà nước cùng với các  tổ chức, cá nhân khác. Với tư cách là chủ đầu tư duy nhất vào doanh nghiệp, nhà nước có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến sự tồn tại và hoạt động của từng doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, Nhà nước có quyền quyết định về hình thành, tổ chức lại và định đoạt; quyết định mục tiêu, chiến lược phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư tài chính; quyết định mô hình tổ chức quản lý, quyết định giải thể; kiểm tra, giám sát thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của doanh nghiệp…..

– Sở hữu vốn: Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ [100%] hoặc sở hữu phần vốn góp chi phối [trên 50% nhưng dưới 100% vốn điều lệ].

– Hình thức tồn tại: doanh nghiệp nhà nước có nhiều hình thức tồn tại. Nếu doanh nghiệp nhà nước  do nhà nước  sở hữu 100% vốn điều lệ thì có các loại hình doanh nghiệp như: công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước. Nếu doanh nghiệp do nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ thì có thể tồn tại dưới các loại hình doanh nghiệp sau: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn

­- Trách nhiệm tài sản: doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản của doanh nghiệp. Nhà nước chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài sản góp vốn vào doanh nghiệp.

– Tư cách pháp lý: doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân.

– Luật áp dụng:  các công ty nhà nước đã thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ tổ chức và hoạt động theo luật doanh nghiệp. Các loại doanh nghiệp nhà nước khác tổ chức và hoạt động theo luật doanh nghiệp.

Xem thêm: Quy định về cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước

3. Phân loại doanh nghiệp nhà nước:

– Dựa vào hình thức tổ chức doanh nghiệp nhà nước có năm loại, gồm:

Thứ nhất, công ty nhà nước: là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ thành lập, tổ chức quản lý và tồn tại dưới hình thức công ty Nhà nước độc lập và tổng công ty nhà nước.

Thứ hai,  công ty cổ phần nhà nước: là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà nước  hoặc tổ chức được nhà nước ủy quyền góp vốn. Tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp năm 2005.

Thứ ba, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ. Tổ chức quản lí và đăng ký theo Luật doanh nghiệp năm 2005.

Thứ tư, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có từ hai thành viên trở lên: là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó có tất cả các thành viên đều là công ty nhà nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước, thành viên được ủy quyền góp vốn. Được tổ chức và hoạt động theo luật doanh nghiệp.

Thứ năm, doanh nghiệp cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước: là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ. Nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp.

– Dựa theo nguồn vốn: có hai loại

Thứ nhất, Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước sở hữu 100% vốn, gồm: công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên trở lên.

Xem thêm: Công bố thông tin định kỳ, bất thường của doanh nghiệp nhà nước

Thứ hai, Doanh nghiệp do nhà nước có cổ, vốn góp chi phối, gồm: công ty cổ phần nhà nước  mà nhà nước chiếm trên 50% cổ phiếu, công ty trách nhiệm hữu hạn mà nhà nước chiếm trên 50% vốn góp.

– Dựa theo mô hình tổ chức quản lý: có hai loại

Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị: hội đồng quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước, chịu trách nhiệm trước nhà nước.

Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị: giám đốc doanh nghiệp được nhà nước bổ nhiệm hoặc thuê để điều hành hoạt động của doanh nghiệp.

4. Tư vấn trường hợp cụ thể về doanh nghiệp nhà nước:

Tóm tắt câu hỏi:

Xin chào Luật sư Dương Gia. Tôi có 1 câu hỏi như sau: Công ty tôi là công ty TNHH một thành viên có 100% vốn của công ty mẹ. Công ty mẹ có 51% vốn của tổng công ty, 49% vốn cổ phần. Tổng công ty có 87% vốn nhà nước, 13% vốn cổ phần. Vậy công ty tôi có là công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu hay không ? Tôi xin chân thành cảm ơn!

Luật sư tư vấn:

Theo thông tin bạn cung cấp, công ty bạn là công ty TNHH một thành viên có 100% vốn của công ty mẹ. Công ty mẹ có 51% vốn của tổng công ty và 49% vốn cổ phẩn. Trong đó tổng công ty có 87 % vốn Nhà nước và 13 % vốn cổ phần.

Theo khoản 11 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định:

“Doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 của Luật này.”.

Như vậy, theo quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 của Luật này. Đây là một quy định khác so với quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 trước đây. Tại khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:

“Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.”

Với quy định này trước đây, Nhà nước phải nắm giữ 100% vốn điều lệ của một doanh nghiệp thì sẽ được coi là một doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2020 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, Nhà nước chỉ cần nắm giữ 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp thì đó mới được coi là doanh nghiệp Nhà nước.

Với trường hợp của công ty bạn, do tổng công ty đã có 87% vốn Nhà nước và 13% vốn cổ phần, đã đáp ứng được điều kiện tại khoản 11 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020. Vì vậy, tổng công ty bạn được xác định là doanh nghiệp Nhà nước. Tiếp đó, công ty mẹ có có 51% vốn của tổng công ty và 49% vốn cổ phẩn, do tổng công ty theo như quy định của pháp luật hiện hành là doanh nghiệp Nhà nước, vì vậy công ty mẹ cũng được xác định là doanh nghiệp Nhà nước. Và dẫn đến, công ty TNHH một thành viên có 100% vốn công ty mẹ là doanh nghiệp Nhà nước, vì vậy công ty này được xác định là doanh nghiệp Nhà nước.

Video liên quan

Chủ Đề