Ho nhiều là triệu chứng của bệnh gì

Rất hiếm khi, ráy tai hoặc dị vật ống tai ngoài gây ra phản xạ ho thông qua sự kích thích nhánh nhĩ của dây thần kinh phế vị. Ho do căn nguyên tâm lý thậm chí còn hiếm gặp hơn và chỉ nghĩ đến sau khi đã loại trừ hết các căn nguyên gây ho.

Bệnh nhân ho mạn tính có thể tiến triển thành ho theo phản xạ hoặc có liên quan đến yếu tố tâm lý. Ngoài ra, ho kéo dài có thể gây tổn thương niêm mạc phế quản, có thể kích thích gây ho nhiều hơn.

  • 1. Morice AH, Millqvist E, Bieksiene K, et al: ERS guidelines on the diagnosis and treatment of chronic cough in adults and children. Eur Respir J 55[1]: 1901136, 2020. doi: 10.1183/13993003.01136-2019

Tiền sử của bệnh hiện tại khai thác kỹ thời gian xuất hiện và đặc điểm của triệu chứng ho [ví dụ, ho khan hay ho đờm hoặc ho ra máu, có kèm theo khó thở, đau ngực hoặc ho kèm theo có cả khó thở và đau ngực]. Hỏi kỹ về các yếu tố kích phát [ví dụ, không khí lạnh, mùi hắc] và thời điểm ho [ví dụ khởi phát vào ban đêm] có thể giúp gợi ý nguyên nhân.

Tầm soát toàn diện cần hỏi các triệu chứng giúp định hướng nguyên nhân, bao gồm chảy nước mũi và đau họng [nhiễm trùng đường hô hấp trên [ URI Cảm lạnh thông thường Bệnh cảm lạnh thông thường là tình trạng nhiễm vi rút cấp tính, thường không có sốt, tự khỏi gây ra các triệu chứng đường hô hấp trên, chẳng hạn như chảy nước mũi, ho và đau họng. Chẩn đoán... đọc thêm ], chảy dịch mũi sau]; sốt, rét run và đau ngực kiểu màng phổi [viêm phổi Tổng quan về Viêm phổi Viêm phổi là tình trạng viêm cấp tính của phổi do nhiễm trùng. Chẩn đoán ban đầu thường dựa trên chụp X-quang phổi và các dấu hiệu lâm sàng. Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị, các biện pháp... đọc thêm ]; đổ mồ hôi ban đêm và sút cân [khối u Ung thư phổi ác tính Ung thư biểu mô phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong liên quan đến ung thư ở nam giới và nữ giới trên toàn thế giới. Khoảng 85% trường hợp có liên quan đến hút thuốc lá. Các triệu chứng... đọc thêm

, lao [ TB Bệnh lao [TB] Bệnh lao [TB] là bệnh nhiễm trùng do mycobacterial tiến triển mạn tính, thường có thời gian tiềm tàng sau khi có nhiễm bệnh ban đầu. Lao thường ảnh hưởng nhiều nhất đến phổi. Triệu chứng bao... đọc thêm
]]; nóng rát sau xương ức [trào ngược dạ dày thực quản Bệnh trào ngược dạ dày thực quản [GERD] Cơ thắt thực quản dưới hoạt động kém hiệu quả khiến cho các phần bên trong dạ dày trào ngược vào thực quản gây đau bỏng rát. Trào ngược kéo dài có thể dẫn đến viêm thực quản, chít hẹp và trong... đọc thêm
]; và khó nuốt hoặc nuốt nghẹn từng đợt khi ăn uống [hít phải].

Tiền sử bệnh tật cần lưu ý hỏi xem bệnh nhân có bị các bệnh nhiễm trùng hô hấp gần đây [tức là trong vòng 1 đến 2 tháng trước]; tiền sử dị ứng Viêm mũi dị ứng Bệnh viêm mũi dị ứng theo mùa hoặc ngứa kéo dài, hắt hơi, chảy nước mũi, nghẹt mũi, và đôi khi viêm kết mạc, do phơi nhiễm với phấn hoa hoặc các chất gây dị ứng khác. Chẩn đoán nhờ khai thác... đọc thêm hen Hen Hen suyễn là một bệnh viêm đường hô hấp gây ra bởi một loạt kích thích dẫn đến co thắt phế quản hồi phục hoàn toàn hoặc một phần. Triệu chứng và dấu hiệu bao gồm khó thở, tức ngực, ho, thở khò... đọc thêm , COPD Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [COPD] Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [COPD] đặc trưng bởi sự giới hạn về luồng khí thở gây ra do đáp ứng viêm do hít phải các chất khí độc hại, thường là khói thuốc lá. Thiếu alpha-1 antitrypsin và... đọc thêm

[bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính], và bệnh trào ngược dạ dày thực quản Bệnh trào ngược dạ dày thực quản [GERD] Cơ thắt thực quản dưới hoạt động kém hiệu quả khiến cho các phần bên trong dạ dày trào ngược vào thực quản gây đau bỏng rát. Trào ngược kéo dài có thể dẫn đến viêm thực quản, chít hẹp và trong... đọc thêm
; các yếu tố nguy cơ [hoặc bệnh đã mắc] lao Bệnh lao [TB] Bệnh lao [TB] là bệnh nhiễm trùng do mycobacterial tiến triển mạn tính, thường có thời gian tiềm tàng sau khi có nhiễm bệnh ban đầu. Lao thường ảnh hưởng nhiều nhất đến phổi. Triệu chứng bao... đọc thêm
, , HIV Nhiễm trùng HIV/AIDS ở người Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người [HIV] là hậu quả của nhiễm 1 trong số 2 retrovirus tương tự nhau [HIV-1 và HIV-2] chúng phá hủy tế bào lympho CD4+ và làm giảm khả năng miễn dịch... đọc thêm
; và tiền sử hút thuốc. Tiền sử dùng thuốc đặc biệt là việc sử dụng các thuốc ức chế men chuyển ACE. Bệnh nhân ho mạn tính cần hỏi kỹ về việc tiếp xúc phơi nhiễm với các chất gây kích ứng đường hô hấp hoặc các dị nguyên, bệnh nhân có đi du lịch hoặc sinh sống ở những vùng dịch tễ bệnh nấm lưu hành.

Các dấu hiệu sinh tồn cần được xem xét cẩn trọng khi bệnh nhân có triệu chứng thở nhanh và sốt.

Khám toàn thân nên tìm kiếm dấu hiệu suy hô hấp và bệnh mạn tính [ví dụ, suy mòn, thờ ơ ngoại cảnh].

Khám tai mũi họng cần xem niêm mạc mũi [màu sắc niêm mạc, sung huyết] và chảy dịch mũi [chảy ra bên ngoài hoặc ở thành sau họng]. Khi khám tai, cần tìm dị vật, khối u, hoặc dấu hiệu nhiễm trùng.

Khu vực cổ và hố thượng đòn cũng cần lưu ý và sờ kiểm tra hạch bạch huyết.

Sau khi khám hô hấp toàn diện, đặc biệt cần nghe cả thì hít vào và thở ra khi bệnh nhân hít thở sâu; nghe so sánh, đối chiếu cả hai bên; tiếng ran nổ, tiếng khò khè hoặc cả hai. Hội chứng đông đặc [ví dụ, tiếng dê kêu, gõ đục] nên được tìm kiếm.

Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:

  • Khó thở
  • Ho ra máu
  • Sụt cân
  • Sốt liên tục
  • Nguy cơ nhiễm lao hoặc HIV

Đo oxy máu và chụp X-quang ngực nên được chỉ định khi bệnh nhân có dấu hiệu báo động như khó thở, ho ra máu hoặc có nguy cơ cao nghi viêm phổi. Chụp X-quang ngực và xét nghiệm lao và HIV nên được thực hiện ở những bệnh nhân giảm cân hoặc có các yếu tố nguy cơ đối với những trường hợp nhiễm trùng đó.

Phần lớn bệnh nhân không có dấu hiệu báo động, bác sĩ có thể chẩn đoán dựa vào khám lâm sàng, khai thác tiền sử, bệnh sử và khởi đầu điều trị mà không cần làm thêm xét nghiệm. Nếu bệnh nhân chưa rõ nguyên nhân nhưng cũng không có dấu hiệu báo động, nhiều bác sĩ cho điều trị thử theo kinh nghiệm nguyên nhân chảy dịch mũi sau [ví dụ, thuốc kháng histamin kết hợp với thuốc chống tắc nghẹt mũi, corticosteroid xịt mũi hoặc thuốc đối kháng muscarin xịt], tăng tiết đường thở [ví dụ: corticosteroid dạng hít hoặc thuốc cường beta-adrenergic tác dụng ngắn] hoặc bệnh trào ngược dạ dày thực quản [ví dụ, thuốc ức chế bơm proton, thuốc kháng thụ thể H2]. Nếu bệnh nhân đáp ứng tốt đối với các biện pháp điều trị theo kinh nghiệm nêu trên thường chưa cần thiết phải làm thêm thăm dò cận lâm sàng.

Chụp X-quang lồng ngực nên được chỉ định trên bệnh nhân ho mạn tính, điều trị không hiệu quả. Nếu dấu hiệu X-quang không điển hình, nhiều bác sĩ lâm sàng sẽ cho làm thăm dò xác định xem bệnh nhân có bị hen không [đo chức năng hô hấp với test kích thích phế quản bằng methacholin nếu hô hấp kí chuẩn bình thường], bệnh lý xoang [CT xoang] và bệnh trào ngược dạ dày thực quản [đo pH thực quản].

Nuôi cấy đờm giúp ích cho chẩn đoán các trường hợp nghi nhiễm trùng như ho gà, lao hoặc nhiễm trùng mycobacteria không do lao.

CT ngực và có thể tiến hành nội soi phế quản ở những bệnh nhân nghi ngờ ung thư phổi hoặc khối u phế quản [bệnh nhân có tiền sử hút thuốc nhiều năm, triệu chứng thực thể không đặc hiệu]; bệnh nhân đã điều trị theo kinh nghiệm không hiệu quả và những bệnh nhân chưa xác định được nguyên nhân.

  • 1. Morice AH, Millqvist E, Bieksiene K, et al: ERS guidelines on the diagnosis and treatment of chronic cough in adults and children. Eur Respir J 55[1]: 1901136, 2020. doi: 10.1183/13993003.01136-2019

Có rất ít bằng chứng ủng hộ việc sử dụng thuốc chống ho hoặc thuốc long đờm. Ho là một cơ chế quan trọng để làm sạch các chất bài tiết từ đường thở và có thể hỗ trợ phục hồi sau nhiễm các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp. Do đó, mặc dù bệnh nhân thường mong muốn hoặc yêu cầu dùng các thuốc giảm ho, nhưng cần thận trọng và chỉ dùng đối với bệnh nhân có nhiễm trùng hô hấp trên, bệnh nhân đã được điều trị theo nguyên nhân nhưng vẫn ho quá nhiều, gây khó chịu cho người bệnh. Thuốc chống ho có thể chỉ định cho một số bệnh nhân ho mạn tính do phản xạ hoặc do yếu tố tâm lý hoặc những bệnh nhân ho nhiều gây thương tổn niêm mạc phế quản.

Thuốc giảm ho gây ức chế trung tâm ho ở hành não [dextromethorphan và codeine] hoặc gây tê các thụ thể bề mặt của các sợi thần kinh trong phế quản và phế nang [benzonatat]. Dextromethorphan, một dẫn chất opioid levorphanol, dạng viên hoặc xi rô có hiệu quả giảm ho với liều 15 đến 30 mg uống 1 đến 4 lần/ngày đối với người lớn hoặc 0,25 mg/kg uống 4 lần/ngày đối với trẻ em. Codeine có tác dụng giảm ho, giảm đau và an thần, nhưng tiềm ẩn nguy cơ phụ thuộc codein, và buồn nôn, nôn ói, táo bón và nhờn thuốc là những tác dụng không mong muốn thường gặp. Liều thông thường đối với người lớn: 10-20mg/lần, uống mỗi 4-6 giờ khi cần và liều đối với trẻ em 0,25-0,5 mg/kg, uống 4 lần/ngày. Các opioid khác [hydrocodone, hydromorphone, methadone, morphine] có đặc tính chống ho nhưng tránh dùng vì có nguy cơ cao gây lạm dụng và phụ thuộc thuốc. Benzonatat, một tiền chất tetracaine có sẵn trong viên nang chứa chất lỏng, có hiệu quả ở liều 100-200 mg uống 3 lần mỗi ngày.

Thuốc long đờm được cho là làm giảm độ quánh của đờm và tạo thuận lợi cho bệnh nhân khạc đờm [ho khạc], mặc dù có những hạn chế, tuy nhiên thuốc long đờm mang lại lợi ích trong hầu hết các trường hợp. Guaifenesin [dạng si-rô hoặc dạng viên 200 đến 400 mg uống mỗi 4 giờ] thường được sử dụng do không có tác dụng phụ nghiêm trọng, nhưng có nhiều thuốc long đờm, bao gồm bromhexine, ipecac và dung dịch bão hòa kali iodide [SSKI]. Các thuốc long đờm dạng khí dung như N-acetylcystein, DNase và dung dịch muối ưu trương thường được dùng để điều trị ho ở bệnh nhân ở bệnh nhân giãn phế quản hoặc bệnh xơ nang. Đảm bảo cơ thể người bệnh đủ nước và làm ẩm khí thở sẽ giúp bệnh nhân ho khạc đờm dễ dàng hơn, mặc dù không có kỹ thuật nào được kiểm tra nghiêm ngặt.

Điều trị tại chỗ, chẳng hạn như thảo dược từ cây keo, cam thảo, glycerin, mật ong, dung dịch ho hoặc si-rô cherry [demulcents], có thể làm dịu cơn ho, nhưng không có bằng khoa học.

Thuốc kích thích ho [Protussives], được chỉ định trong bệnh xơ nang và giãn phế quản, đối với những bệnh nhân này có rất nhiều đờm và việc kích thích ho đờm có ý nghĩa quan trọng đối với việc làm sạch đường thở và bảo tồn chức năng phổi. DNase hoặc nước muối ưu trương kết hợp với liệu pháp vật lý trị liệu và dẫn lưu tư thế để thúc đẩy ho khạc dẫn lưu đờm đễ dàng. Cách tiếp cận này giúp ích cho bệnh nhân xơ nang nhưng không áp dụng được với hầu hết các nguyên nhân khác của ho mạn tính.

Thuốc giãn phế quản, albuterol và ipratropium hoặc corticosteroid hít, có thể có hiệu quả cho bệnh nhân ho sau nhiễm trùng hô hấp trên và hen phế quản thể ho.

Ho lâu ngày là triệu chứng của bệnh gì?

Ho được xem là cấp khi dưới 3 tuần, bán cấp 3-8 tuần, ho mạn tính khi kéo dài trên 8 tuần. Ho kéo dài thường do các nguyên nhân sau: Viêm mũi xoang , hen suyễn, trào ngược dạ dày thực quản , viêm phế quản mạn, dãn phế quản , Lao, bệnh phổi tăng eosinophil không do suyển ,ung thư phổi, thuốc hạ áp.

Ho nhiều có ảnh hưởng gì không?

Ho là một trong những phản xạ tự nhiên của con người khi có dị vật, virus hay vi khuẩn xâm nhập vào đường hô hấp. Tuy nhiên, nếu ho kéo dài quá nhiều có thể ảnh hưởng tới tình trạng sức khỏe, đặc biệt là phổi.

Ho lâu ngày có ảnh hưởng gì không?

Tuy nhiên, ho nhiều và dai dẳng làm tổn thương hệ hô hấp, các cơ quan trong cơ thể. Cụ thể, áp lực ho dữ dội có thể làm vỡ mạch máu ở mắt, mũi hoặc hậu môn; gây đau cơ ngực, cơ lưng và bụng. Ho kéo dài còn có thể khiến mô cổ họng bị tổn thương, gây viêm, tăng nguy cơ nhiễm trùng.

Bị ho có đờm bao lâu thì khỏi?

Các triệu chứng của bệnh cảm lạnh thông thường thường đạt đỉnh điểm trong 2 - 3 ngày. Triệu chứng ho có đờm có thể kéo dài tới tận 10 - 14 ngày mới khỏi hoàn toàn.

Chủ Đề