Khả năng điều khiển hành vi là gì

Thứ nhất, về việc giải quyết vụ việc: Nội dung bài không thể hiện thời gian TAND huyện thụ lý vụ việc. Tuy nhiên, dựa trên nội dung về thời gian Hội đồng giám định Y khoa tỉnh K ban hành biên bản, kết luận giám định đối với bà L.M.C vào ngày 14/12/2016 thì vụ việc này đã được TAND huyện thụ lý trước thời điểm 01/01/2017. Do đó, cần áp dụng quy định của BLDS năm 2005 để giải quyết vụ việc này.

Tại Biên bản giám định số 57/GĐYK-Sk ngày 14/12/2016 của Hội đồng giám định y khoa tỉnh K thể hiện: Bà L.M.C chậm phát triển tâm thần mức độ vừa, hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Qua đó, kết luận bà L.M.C bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Đồng thời, qua xác minh xác định được bà L.M.C không nghiện ma túy, không nghiện các chất kích thích khác dẫn tới phá tán tài sản gia đình.

Ở đây, bà L.M.C không mất đi hoàn toàn khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, mà do mắc bệnh về tâm thần nên chỉ là bị “hạn chế” trong khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Hạn chế ở đây được hiểu là việc bà L.M.C không thể tự mình xác lập, thực hiện đầy đủ và đúng đắn các quyền và nghĩa vụ dân sự.

Đối chiếu với các quy định của BLDS năm 2005, không có quy định về trường hợp người bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi mà chỉ có quy định về việc người không thể nhận thức và điều khiển hành vi [người mất năng lực hành vi dân sự [Điều 22 BLDS năm 2005] và quy định về người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự [Điều 23 BLDS năm 2005]. Do đó, Tòa án đã thụ lý vụ việc phải ra quyết định không chấp nhận đơn yêu cầu của ông L.D.N về việc yêu cầu tuyên bố bà L.M.C bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Thứ hai, trao đổi về áp dụng Điều 23, 24 BLDS năm 2015 về các vụ việc có nội dung tương tự vụ việc nói trên.

Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017, bổ sung quy định về Người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi [Điều 23] là: Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan, trên cơ sở giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

Như vậy, căn cứ để xác định người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi trước hết phải thỏa mãn 02 nội dung:

Người đã thành niên: Theo quy định tại Điều 20 BLDS năm 2015 người đã thành niên là người đủ 18 tuổi.

Do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi, nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự: Là trường hợp người đó có các khuyết tật về thể chất, sức khỏe hoặc các bệnh về tinh thần tác động đến khả năng, nhận thức và điều khiển hành vi của người đó không được đầy đủ nhưng chưa đến mức không thể nhận thức và điều khiển hành vi.

Đối chiếu với nội dung kết luận giám định của Hội đồng giám định Y Khoa tỉnh K: Bà L.M.C bị chậm phát triển tâm thần mức độ vừa, hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Điều này được hiểu là việc bà L.M.C vẫn có một phần khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, tuy nhiên, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bà LMC không đầy đủ và mức độ của bà L.M.C vẫn chưa đến mức không thể nhận thức và làm chủ được hành vi.

Do đó, khi giải quyết các vụ việc có nội dung tương tư như trên, thì TAND xác định đó là trường hợp: Người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi mà không cần phải yêu cầu Cơ quan giám định giải thích rõ về nội dung kết luận giám định.

Trên đây là một số ý kiến trao đổi của tôi. Rất mong được các đồng chí, đồng nghiệp cùng trao đổi.

Văn Chiến

VKSND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk

Từ khóa liên quan số lượng

Câu hỏi Ngày hỏi

 Người phạm tội  Khả năng điều khiển hành vi

Pháp luật quy định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình như thế nào?

Nội dung này được Văn phòng Luật sư Nam Hà Nội - HSLAWS tư vấn như sau:

  • Người mắc bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức là người khi phạm tội họ mắc một bệnh mà bệnh đó làm cho họ nhận thức không đầy đủ được tính chất nguy hiểm về hành vi của mình, cũng như hậu quả của hành vi do mình gây ra. Họ ở trong trạng thái lúc tỉnh lúc mê. Pháp luật chỉ thừa nhận và giảm nhẹ hình phạt cho họ nếu như căn bệnh đó do bẩm sinh hoặc do những tác động khách quan đưa đến. Nếu do tự họ gây ra thì không được giảm nhẹ. Người mắc bệnh bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình là trường hợp họ vẫn nhận thức được hành vi của họ là nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó, nhưng họ không điều khiển được hành vi theo ý muốn [ hạn chế về hoạt động cơ học của cơ thể]. Như muốn nói mà không nói được, muốn giữ lại hoặc chống lại mà không hành động được hoặc có hành động nhưng không được như ý muốn. Nếu tình trạng bệnh tật của một người đã làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc xác định tình trạng của một người còn hay mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển thuộc trách nhiệm của cơ quan pháp y. Ở giai đoạn tố tụng nào phát hiện được hoặc do người phạm tội yêu cầu thì cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định tình trạng bệnh tật của người phạm tội. Khi xem xét đến khả năng hạn chế về nhận thức và điều khiển hành vi của người phạm tội phải gắn với hành vi cụ thể mà họ thực hiện chứ không phải cứ có bệnh là được giảm nhẹ. Mức độ giảm nhẹ của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ bệnh tật của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội, mức độ hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội.


Nguồn:

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ NAM HÀ NỘI

Năng lực hành vi dân sự là gì? Quy định chi tiết về năng lực hành vi dân sự theo pháp luật mới nhất mà chúng ta cần biết.

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là gì

“Năng lực hành vi dân sự [NLHVDS] của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.” – Điều 19 Bộ luật dân sự 2015 [BLDS]

Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn thiện, độc lập khi họ có đầy đủ NLHVDS, ngoài năng lực pháp luật dân sự vốn là thuộc tính được pháp luật ghi nhận cho mọi cá nhân.

Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, NLHVDS còn bao hàm cả năng lực tự chịu trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự.

Cùng với năng lực pháp luật, NLHVDS là thuộc tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhân trong các quan hệ dân sự.

Mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Nếu pháp luật quy định năng lực pháp luật của mọi cá nhân là như nhau thì lại xác định năng lực hành vi của cá nhân không giống nhau. Những cá nhân khác nhau có nhận thức khác nhau về hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Việc nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân phụ thuộc vào ý chí và lí trí của cá nhân đó, phụ thuộc vào khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của chính họ.

Căn cứ vào khả năng của cá nhân về nhận thức và điều khiển được hành vi và hậu quả của hành vi, pháp luật phân biệt mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên khó có tiêu chí để xác định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân, do đó độ tuổi của cá nhân được xem là tiêu chí chung nhất để phân biệt mức độ NLHVDS.

Năng lực hành vi dân sự đầy đủ

Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên có NLHVDS đầy đủ, trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc hạn chế NLHVDS. Pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi tối đa của những người có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Những người này có đầy đủ tư cách chủ thể, toàn quyền tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện.

Những người từ đủ 18 tuổi trở lên được suy đoán là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Họ chỉ bị mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi khi có quyết định của toà án về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì nữ từ 18 tuổi [17 tuổi 1 ngày]  trở lên có quyền kết hôn nhưng theo quy định này thì nữ đủ tuổi kết hôn vẫn có thể chưa có đầy đủ năng lực hành vi.

Năng lực hành vi một phần

Người có năng lực hành vi một phần [không đầy đủ] là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định.

Điều 21 BLDS quy định về Người chưa thành niên, theo đó, người thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

– Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.

– Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

– Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Như vậy, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có NLHVDS một phần. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

Tuy pháp luật không quy định những giao dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày” và “phù hợp với lứa tuổi” nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ những nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống được người đại diện của họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của người đại diện [mua dụng cụ học tập, ăn quà, vui chơi giải trí…].

Người đại diện của những cá nhân ở lứa tuổi này có thể yêu cầu tuyên bố những giao dịch do người chưa thành niên thực hiện mà không có sự đồng ý của họ là vô hiệu và toà án xem xét trong những trường hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu đó theo quy định tại Điều 130 BLDS. Nếu những người đại diện không yêu cầu toà án xem xét tính hiệu lực của những giao dịch này thì những giao dịch đó mặc nhiên được coi là có hiệu lực.

Những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi tài sản riêng mà họ có và không cần sự đồng ý của người đại diện. Trong trường hợp pháp luật có quy định về sự đồng ý của người đại diện thì áp dụng tương tự như trường hợp vị thành niên nói chung [như di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, việc định đoạt tài sản là nhà ở và đất đai…].

Không có năng lực hành vi

Người chưa đủ 6 tuổi không có NLHVDS. Mọi giao dịch của những người này đều do người đại diện xác lập và thực hiện. Họ chưa bao giờ có năng lực hành vi bởi chưa đủ ý chí cũng như lí trí để hiểu được hành vi và hậu quả của những hành vi đó.

Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự

Mất năng lực hành vi dân sự

Khái niệm “mất” thông thường được hiểu là đang tồn tại, đang có một hiện tượng, một sự vật nhưng sau đó không còn hiện tượng, sự vật đó nữa. NLHVDS của cá nhân cũng là thuộc tính nhân thân của cá nhân và đầy đủ khi cá nhân đến tuổi thành niên.

Thông thường, năng lực hành vi của cá nhân chấm dứt cùng với sự chấm dứt của năng lực pháp luật của cá nhân đó [chết hoặc toà án tuyên bố là đã chết]. Tuy nhiên, người thành niên có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi khi có những điều kiện, với những trình tự, thủ tục nhất định.

Nếu cá nhân bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được các hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự [Điều 22 BLDS].

Trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền, toà án có thể tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Mọi giao dịch dân sự của những người này do người đại diện của họ xác lập, thực hiện

Trong trường hợp vì những nguyên nhân mà do đó, họ bị tuyên bố là mất năng lực hành vi nhưng nay không còn tồn tại nữa thì họ hoặc những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu toà án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi. Tuy nhiên, giải quyết việc này theo chính yêu cầu của người đó sẽ bị vướng mắc về tố tụng. Theo quy định khi họ mất năng lực hành vi dân sự thì cũng sẽ mất năng lực hành vi tố tụng, họ không thể tự khởi kiện hoặc yêu cầu toà án mà phải thông qua hành vi của người có năng lực hành vi tố tụng dân sự, vì vậy, BLTTDS cần giải quyết vướng mắc này.

Hạn chế năng lực hành vi dân sự

Năng lực hành vi của người đã thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở những điều kiện và thủ tục được quy định tại Điều 24 BLDS. Năng lực hành vi của người thành niên bị hạn chế khác với năng lực hành vi một phần của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc dù về hình thức có vẻ giống nhau. Năng lực hành vi của người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc nhiên được công nhận là năng lực hành vi đầy đủ khi đạt độ tuổi nhất định còn việc hạn chế năng lực hành vi phải thông qua toà án theo trình tự tố tụng dân sự và được áp dụng với những người nghiện ma túy và các chất kích thích dẫn đến hậu quả phá tán tài sản của gia đình.

Nghiện ma túy và các chất kích thích khác phải là nguyên nhân dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và việc yêu cầu toà án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi không chỉ thuộc những người có quyền, lợi ích liên quan mà quan trọng hơn là các cơ quan hoặc tổ chức hữu quan cũng có quyền yêu cầu toà án, điều này tạo điều kiện tốt hơn để quy định này được thực thi về mặt thực tế mà không chỉ về pháp lí.

Căn cứ vào tình trạng thực tế và theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan, tổ chức hữu quan, toà án có thể ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế NLHVDS và phạm vi đại diện do toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế NLHVDS phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế NLHVDS thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế NLHVDS.

Việc tuyên bố một người mất NLHVDS, hạn chế năng lực hành vi dân sự dẫn đến những hậu quả pháp lí nhất định, tư cách chủ thể của những người này như những người có năng lực hành vi dân sự một phần.

Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Đây là chủ thể mới được ghi nhận tại Điều 23 BLDS với các đặc điểm:

– Có các yếu tố về thể chất [ sự khuyết thiếu về cơ thể như cá nhân bị câm, mù, điếc hoặc bị tai nạn liệt người,…] hoặc các yếu tố về tinh thần [cú sốc tâm lí,.] mà không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự

– Có yêu cầu của người này, người có quyền và lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan gửi đến tòa án

– Có kết luận giám định pháp y tâm thần

– Tòa án ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, chỉ định người giám hộ, xác định quyền và nghĩa vụ của người giám hộ.

Nếu sau đó không còn các căn cứ nêu tren và có kết luận giám định pháp lí tâm thần là họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi một cách bình thường thì tòa án sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

Trên đây là nội dung Năng lực hành vi dân sự Lawkey gửi đến bạn đọc. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ LawKey để được tư vấn kĩ hơn.

Video liên quan

Chủ Đề