Kiểm soát chi ngân sách nhà nước là gì năm 2024

Quản lý chi ngân sách nhà nước (NSNN) thực chất là quản lý các đầu ra của NSNN. Đây là quá trình chủ thể quản lý NSNN sử dụng các phương pháp, công cụ quản lý để quản lý các hoạt động sử dụng quỹ NSNN theo những mục tiêu đề ra.

Chi NSNN là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách của Nhà nước, nên chủ thể quản lý chi NSNN chính là Nhà nước. Để thực hiện các chức năng quản lý chi NSNN, Nhà nước có thể phân công, phân cấp các nhiệm vụ cho một hoặc một số cơ quan trong bộ máy tổ chức để thực hiện các chức năng quản lý NSNN. Vì vậy, dù chủ thể quản lý NSNN được xác định là Nhà nước, song trong thực tế việc tham gia thực hiện quản lý chi NSNN có thể bao gồm nhiều đối tượng cụ thể khác nhau, cụ thể là các bộ phận trong hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà nước.

Mỗi đối tượng cụ thể trên đều có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước quy định. Mặc dù, các mục tiêu chi NSNN có thể không giống nhau giữa các nhà nước và các chế độ xã hội khác nhau, nhưng do tính chất và vai trò quan trọng của chi NSNN nên các nhà nước, các chính phủ thường xây dựng một quy trình thống nhất để đảm bảo việc chi tiêu NSNN theo đúng mục tiêu đề ra và quy trình đó được gọi là quy trình hay chu trình NSNN - là quá trình từ khi hình thành ngân sách cho tới khi kết thúc gắn với một thời gian cụ thể, thường là một năm để chuyển sang năm ngân sách mới. Quy trình hay chu trình NSNN bao gồm các bước cụ thể là: Lập dự toán chi NSNN, chấp hành dự toán chi NSNN và quyết toán chi NSNN.

Khách thể của quản lý chi NSNN là toàn bộ quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN bao gồm toàn bộ các nội dung trong quy trình NSNN và các mối quan hệ giữa các bộ phận trong quy trình NSNN. Quá trình quản lý chi NSNN chính là sự liên kết hữu cơ giữa Nhà nước và các đối tượng quản lý và đối tượng chịu tác động là toàn bộ các khoản chi của NSNN. Quản lý chi NSNN có vai trò hết sức quan trọng và là hoạt động bắt buộc ở mọi quốc gia, bởi việc quản lý tốt sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản chi từ NSNN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Nội dung của quản lý chi ngân sách nhà nước

Mục tiêu của quản lý chi NSNN là nhằm đảm bảo hoạt động chi NSNN đúng mục đích đề ra, đảm bảo và nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản chi NSNN. Vì vậy, việc phân loại các khoản mục chi NSNN hợp lý có vai trò rất quan trọng, bởi mỗi khoản mục chi NSNN thường gắn với một hay một số nhiệm vụ chi cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu mà Nhà nước đề ra.

Nguyên tắc quản lý chi NSNN là phương hướng của hoạt động quản lý chi NSNN và có thể được hiểu là những quan điểm chỉ đạo, định hướng cho toàn bộ quá trình quản lý chi NSNN mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc phân bổ và sử dụng NSNN phải tuân thủ và thực hiện. Hoạt động quản lý chi NSNN có đạt được kết quả như kỳ vọng hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc nắm vững và thực hiện đầy đủ các nguyên tắc quản lý chi NSNN.

Tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tuỳ theo cách thức tổ chức bộ máy và sự phân công phân cấp của Nhà nước, cũng như các mục tiêu của quản lý NSNN mà mỗi nhà nước có thể đề ra, thiết lập các nguyên tắc quản lý chi NSNN để đảm bảo sự thống nhất, sự rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị, tổ chức và các cấp chính quyền trong suốt quá trình thực hiện chi NSNN. Ví dụ như ở Việt Nam, nguyên tắc quản lý NSNN nói chung, trong đó có quản lý chi NSNN đã được quy định cụ thể tại Điều 8 của Luật NSNN năm 2015.

Phương thức quản lý chi NSNN là tổng hợp các cách thức và biện pháp được áp dụng để tác động đến các hoạt động chi NSNN, nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu của chi NSNN. Thực tế, hoạt động quản lý chi NSNN ở các nước cho thấy, có 3 phương thức quản lý chi NSNN là quản lý chi NSNN dựa trên các khoản mục đầu vào; quản lý chi NSNN dựa trên các kết quả đầu ra và quản lý chi NSNN theo kết quả thực hiện các chương trình, dự án, cụ thể:

(i) Quản lý chi NSNN dựa trên các khoản mục đầu vào là phương thức quản lý chi NSNN truyền thống, cụ thể là lập dự toán chi NSNN theo dòng mục gồm các yếu tố đầu vào, tổ chức thực hiện và giám sát mức độ chi phí theo dự toán và quyết toán theo dòng mục tương ứng với dự toán được duyệt. Quản lý chi NSNN dựa trên các khoản mục đầu vào sẽ giúp cơ quan quản lý NSNN dễ dàng, đơn giản trong việc giám sát, đánh giá, so sánh giữa tình hình thực hiện với dự toán chi được duyệt. Tuy nhiên, với phương pháp này, hoạt động chi NSNN không thể phát huy được hết vai trò của công cụ điều tiết vĩ mô, và chỉ phù hợp với cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Phương thức quản lý chi NSNN dựa trên các khoản mục đầu vào cũng có những hạn chế, thể hiện ở chỗ là không cho biết chi ngân sách có gắn với quá trình thực hiện các kế hoạch kinh tế hay không; tách biệt về không gian và thời gian với các mục tiêu và chương trình phát triển kinh tế và khó xác định hiệu quả chi NSNN.

(ii) Quản lý chi NSNN theo kết quả đầu ra, nghĩa là đảm bảo việc phân bổ, giao dự toán NSNN gắn với kết quả đạt được của từng hoạt động. Kết quả đạt được là một trong những căn cứ, cơ sở quan trọng trong lập dự toán chi NSNN của các cơ quan, tổ chức.

Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mục tiêu mang tính nguyên tắc, Chính phủ luôn hướng tới mục tiêu cung cấp những hàng hóa, dịch vụ công mà xã hội cần, chứ không phải cung cấp những gì mà Chính phủ sẵn có. Việc áp dụng quản lý chi NSNN theo kết quả đầu ra cho phép Chính phủ, cũng như cơ quan quản lý NSNN các cấp xác định một cách tương đối các kết quả đạt được đảm bảo nhu cầu và mục tiêu đề ra. Điều này cũng thể hiện và khẳng định tính chất “phục vụ” xã hội của các cơ quan nhà nước, hoặc các đơn vị, tổ chức được Nhà nước giao quyền, khác với tính chất quản lý hoàn toàn theo hình thức áp đặt, bắt buộc.

Quản lý chi ngân sách theo kết quả đầu ra giao quyền chủ động nhiều hơn cho những người đứng đầu các đơn vị, tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm, với kết quả đạt được tương ứng các khoản chi từ NSNN. Để làm được điều này, kết quả đạt được của từng nhiệm vụ phải được xác định cụ thể từ trước khi bắt đầu thực hiện, trên cơ sở đó các cơ quan có thẩm quyền theo dõi, giám sát toàn bộ quá trình triển khai, đảm bảo kết quả đạt được phải tương ứng với mỗi khoản mục chi. Kết quả đầu ra cũng phải đảm bảo đo lường, định lượng theo các tiêu chuẩn và quy chuẩn rõ ràng, cũng như cần có bộ tiêu chí, cách thức đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, nên cần xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu đầy đủ, cập nhật kịp thời. Do vậy, việc lựa chọn công cụ để giám sát kết quả đầu ra cần đảm bảo hài hòa, khả thi, khách quan, khoa học tạo điều kiện cho đơn vị sử dụng NSNN linh hoạt trong quản lý, cũng như phương thức triển khai thực hiện.

(iii) Quản lý chi NSNN theo chương trình và dự án cơ bản giống nhau về bản chất và chỉ khác về phạm vi và quy mô. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mỗi quốc gia thường đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau, trong đó có những mục tiêu, nhiệm vụ phạm vi rộng, phức tạp cần có sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều vùng, nhiều lĩnh vực để thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định, có thể trong nhiều năm. Tuy nhiên, thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra không thể bằng các cơ chế, chính sách thông thường, mà phải áp dụng cơ chế, giải pháp riêng, đặc thù, theo đó, nguồn lực về tài chính cần phải được phân kỳ theo thời gian tương ứng.

Mỗi phương pháp quản lý chi NSNN đều có những ưu, nhược điểm riêng và thế mạnh nhất định. Trong thực tế, quản lý chi NSNN, một chính phủ có thể sử dụng kết hợp nhiều phương pháp quản lý, đáng chú ý là xu hướng thay thế quản lý chi NSNN dựa trên các khoản mục đầu ra bằng quản lý chi NSNN dựa trên các kết quả đầu ra.

Từ phân tích trên và dựa vào những chức năng của quản lý, nội dung của quá trình quản lý có thể thấy rằng, nội dung của quản lý chi NSNN là quá trình thực hiện các chức năng của quản lý chi NSNN của chủ thể quản lý là nhà nước với các chức năng cụ thể là lập kế hoạch; tổ chức, lãnh đạo, điều tiết và kiểm tra, kiểm soát để hướng đến thực hiện các mục tiêu của quản lý chi NSNN, bao gồm:

- Lập kế hoạch: Kế hoạch là tổng thể các mục tiêu, giải pháp và nguồn lực mà một tổ chức hay một cơ quan có thể sử dụng đê đạt được mục tiêu đề ra. Nói khác đi, lập kế hoạch chính là thiết lập các mục tiêu và phương thức hành động phù hợp để đạt được mục tiêu đề ra; là tập hợp các hoạt động theo trình tự thời gian để đạt được các mục tiêu trong các điều kiện cụ thể về nguồn lực và thời gian. Như vậy, lập kế hoạch là quá trình, bắt đầu từ việc thiết lập mục tiêu, quyết định chiến lược đến việc bố trí, sắp xếp các nguồn lực và lựa chọn, xác định các chính sách để đạt được mục tiêu đề ra.

Lập kế hoạch đóng vai trò quan trọng đối với quá trình quản lý, bởi kế hoạch chính là sự thể hiện phương hướng hoạt động trong tương lai, trong đó xác định rõ mục tiêu cũng như cách thức để đạt được mục tiêu của quản lý. Hoạt động quản lý dựa trên kế hoạch được xác định trước sẽ góp phần hạn chế sự chồng chéo,̀ lãng phí nguồn lực, giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Nói chung, một kế hoạch tốt, chi tiết, cụ thể sẽ giúp các bộ phận chức năng nắm rõ mục tiêu và phối hợp thực hiện mục tiêu chung hiệu quả.

Trong quản lý chi NSNN, việc lập kế hoạch đóng vai trò rất quan trọng, mang tính quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu của quản lý chi NSNN, mà trước hết là tác động đến hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý chi NSNN. Bởi vì, công việc lập kế hoạch sẽ xác định rõ các mục tiêu cần đạt được, đưa ra các nguyên tắc quản lý chi NSNN và lựa chọn, quyết định phương thức quản lý chi NSNN.

- Tổ chức, chỉ đạo, điều tiết: Tổ chức quản lý hoạt động chi NSNN là công việc tiếp theo của quá trình quản lý chi NSNN. Đây là quá trình triển khai các kế hoạch, đảm bảo nguồn lực, bố trí, sắp xếp các nguồn lực nhằm thực hiện thành công kế hoạch đề ra. Nội dung tổ chức quản lý hoạt động chi NSNN bao gồm các nội dung cụ thể là lựa chọn, xác định cơ cấu tổ chức; phân cấp quản lý, giao quyền hạn và trách nhiệm cho các bộ phận và quy định sự phối hợp giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý chi NSNN.

Trong tổ chức quản lý thực hiện chi NSNN, Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý có thể lựa chọn cách thức quản lý tập trung, nghĩa là tập trung quyền ở cấp quản lý cao nhất, hoặc phi tập trung có nghĩa là trao quyền cho cấp dưới. Mỗi cách thức quản lý đều có những ưu nhược điểm nhất định. Tuỳ thuộc vào tổ chức hành chính và cấu trúc bộ máy nhà nước mà mỗi nhà nước sẽ lựa chọn cách thức quản lý chi NSNN phù hợp. Như vậy, tổ chức hành chính và cấu trúc bộ máy nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến công tác quản lý chi NSNN.

Thực tế cho thấy, do mỗi hình thức của Nhà nước quyết định đến việc tổ chức bộ máy ở các cấp từ trung ương đến địa phương, nên hoạt động của mỗi cấp thường gắn với phạm vi quản lý nhất định và đi liền với đó là quyền quyết định về nguồn lực tài chính để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Cụ thể, vấn đề phân cấp nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý chi NSNN. Phân cấp nhiệm vụ chi là phân cấp về thẩm quyền quyết định về chi NSNN giữa cấp chính quyền trung ương với chính quyền địa phương, bao gồm: Phân định phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của các cấp chính quyền trong quá trình tổ chức chi NSNN, gắn liền với quá trình thực thi các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước ở từng cấp. Như vậy, chức năng và nhiệm vụ quản lý chi NSNN ở từng cấp sẽ phụ thuộc vào thẩm quyền, phạm vi quản lý kinh tế, xã hội của cấp đó trong hệ thống tổ chức nhà nước.

Với các nhà nước hiện đại, nguyên tắc tổ chức và hoạt động là vừa đảm bảo quyền lực tập trung ở trung ương, vừa tạo quyền chủ động cho địa phương. Với vai trò là một nội dung của quản lý nhà nước, quản lý chi NSNN cơ bản cũng thực hiện theo nguyên tắc trên. Thực tiễn quản lý chi NSNN ở nhiều quốc gia cho thấy, xu thế hình thành một cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý chi NSNN hướng tới chuyên môn hóa, trong đó các bộ phận chuyên nghiệp được phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng trong quản lý chi NSNN. Cách thức tổ chức bộ máy theo xu thế trên sẽ giúp đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ quản lý chi NSNN ở từng cấp, qua đó góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý chi NSNN nói chung.

Cùng với việc tổ chức bộ máy thực hiện quản lý chi NSNN, việc xác định rõ tiêu chuẩn, định mức phân bổ, chi tiêu NSNN có vai trò quan trọng đối với hiệu quả quản lý chi NSNN, bởi những tiêu chuẩn, định mức chi NSNN chính là công cụ để hỗ trợ việc quản lý chi NSNN. Chính phủ có thể xây dựng và đưa vào áp dụng một hệ thống các tiêu chuẩn, định mức làm căn cứ, cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch chi NSNN, phân bổ và thực hiện chi NSNN. Việc đưa ra các tiêu chuẩn, định mức giúp hình thành những khuôn khổ, phạm vi hay đặt ra những giới hạn cần tuân thủ của quá trình chi tiêu NSNN, đồng thời cung cấp các công cụ cần thiết để giám sát quá trình thực hiện chi NSNN. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế thị trường luôn biến động thì Chính phủ cần có sự điều chỉnh tiêu chuẩn, định mức chi NSNN cho phù hợp với thực tiễn.

Ngoài ra, để tổ chức hoạt động quản lý chi NSNN đạt hiệu quả thì việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin vào công tác quản lý NSNN là rất cần thiết, góp phần đảm bảo việc cung cấp đủ, kịp thời các thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình quản lý chi NSNN.

- Kiểm tra, kiểm soát: Kiểm tra, kiểm soát quản lý chi NSNN là nhằm điều chỉnh hoạt động quản lý chi NSNN đảm bảo được thực hiện theo kế hoạch. Cả lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy, công tác kiểm tra, kiểm soát sử dụng NSNN là cần thiết, đây là bộ phận cấu thành của toàn bộ quá trình quản lý chi NSNN, bởi việc thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát sẽ góp phần tích cực, đảm bảo chi NSNN đúng nội dung, đúng thời gian quy định, góp phần cung cấp thông tin để các cơ quan được giao quản lý NSNN có thêm căn cứ để giám sát, quản lý hoạt động chi NSNN hiệu quả.

Một số khuyến nghị về cải cách quản lý chi ngân sách nhà nước tại Việt Nam

Nhằm đẩy mạnh cải cách công tác quản lý chi ngân sách nhà nước, nhóm tác giả đề xuất một số nội dung cần tập trung thực hiện trong thời gian tới gồm:

Thứ nhất, thay đổi cách tiếp cận đối với hoạt động công khai NSNN, chi NSNN, tình hình chấp hành kỷ luật tài khóa:

Trong thời gian qua, hoạt động công khai NSNN nói chung và chi NSNN nói riêng tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trên cả 2 phương diện, cả nội dung, phạm vi, thời gian và hình thức thực hiện công khai. Tuy nhiên, hoạt động công khai hiện nay vẫn thực hiện theo nguyên tắc “công khai theo quy định”, nghĩa là trên cơ sở các quy định về công khai NSNN của các cơ quan có thẩm quyền, định kỳ hoặc hàng năm các cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN có trách nhiệm thực hiện công khai về dự toán, chấp hành và quyết toán sử dụng NSNN.

Nhìn chung, tiếp cận như hiện nay đã làm cho nội dung, phạm vi và hình thức của hoạt động công khai NSNN bị giới hạn trong một “khuôn khổ đã được định trước”. Hoạt động công khai NSNN nói chung và công khai về chi NSNN nói riêng chịu sự tác động, chi phối của nhiều nhân tố từ “tạo môi trường” cho hoạt động công khai, đến thực hiện công khai và cuối cùng là tiếp nhận, xử lý thông tin công khai. Vì vậy, trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:

- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động công khai NSNN để “tạo môi trường” thuận lợi cho việc thay đổi về cách tiếp cận trong công khai NSNN, chuyển từ cách tiếp cận hiện nay sang cách tiếp cận theo hướng quyền được tiếp cận thông tin của người dân đối với toàn bộ hoạt động của NSNN; kèm với đó là trách nhiệm, nghĩa vụ, phạm vi giải trình của các tổ chức, đơn vị trong quản lý và sử dụng NSNN.

- Thực hiện nghiêm chế độ công khai tài chính, ngân sách, coi việc tuân thủ đầy đủ các quy định về công khai tình hình thực hiện chi NSNN là một trong những điều kiện để xem xét, đánh giá làm cơ sở cho việc phân bổ ngân sách trong thời kỳ kế tiếp.

- Đa dạng hóa các hình thức công khai dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông như: Triển khai cung cấp các dịch vụ truy vấn dữ liệu theo yêu cầu của người dân, cộng đồng xã hội; Xây dựng các cẩm nang giới thiệu, tài liệu hướng dẫn dưới dạng sách và điện tử, với nội dung là toàn bộ những thông tin liên quan đến hoạt động quản lý, thực hiện NSNN.

- Rút ngắn thời gian phê duyệt quyết toán NSNN nhằm đảm bảo tính kịp thời, từ đó tăng cường tính công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát về tình hình thực tiễn của hệ thống tài chính quốc gia.

- Xây dựng và áp dụng hệ thống báo cáo thu, chi NSNN đảm bảo tính thống nhất, hệ thống chỉ tiêu nhất quán và được trình bày một cách dễ hiểu, dễ đọc.

Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý NSNN:

Thực tế cho thấy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước, trong đó, có các cơ quan có chức năng quản lý chi NSNN trước đây chỉ nhằm vào mục tiêu tin học hóa các hoạt động nội bộ và cho những nghiệp vụ đơn lẻ. Việc áp dụng công nghệ thông tin cũng chủ yếu thực hiện trong phạm vi nội bộ một đơn vị và có thể được nhân bản lên trong phạm vi một ngành cho các đơn vị có nhiệm vụ tương tự nhau, không có sự kết nối giữa các đơn vị hoặc kết nối ở mức sơ khai là gửi, nhận báo cáo...

Thời gian gần đây, mục tiêu phát triển chính phủ điện tử đã đặt ra yêu cầu cao độ về sự tương tác, liên kết giữa các nghiệp vụ và các cơ quan, tổ chức nhà nước, nhất là các cơ quan, tổ chức có chức năng cung cấp dịch vụ. Mô hình ứng dụng công nghệ thông tin vì vậy phải hướng tới sự chuẩn hóa tại tất cả các phân lớp, sự tối ưu, các dịch vụ chia sẻ, dùng chung giữa các nghiệp vụ và các cơ quan, tổ chức.

Hiện nay, trên thế giới đã hình thành xu hướng sử dụng kiến trúc tổng thể, phương pháp luận về chuyển đổi chính phủ số của Gartner để thiết kế ở mức chiến lược các nghiệp vụ, tổ chức bộ máy và các hệ thống thông tin trong một chỉnh thể thống nhất, tối ưu và tác động qua lại lẫn nhau, nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của tổ chức hiệu quả. Nói khác đi, việc phát triển mô hình chính phủ điện tử đã đặt ra yêu cầu sắp xếp, tối ưu các nghiệp vụ và cả tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước song song với việc triển khai các hệ thống thông tin có tính chuẩn hóa và tương tác. Vì vậy, hoạt động quản lý chi NSNN ở Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng trên và thực tế đã được triển khai ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Thị Thúy (2021), Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quản lý ngân sách nhà nước theo kết quả đầu ra, Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính;

2. Anwar Shah (2007), “Lập ngân sách và các thiết chế ngân sách”;

3. OECD (2007), “Performance Budgeting in OECD countries”;

4. World Bank (2018), Budgeting for Performance in Malaysia;

5. Marc Robinson (2011), “Performance-Based Budgeting Manual”;

6. Marc Robinson (2013), “Program Classification for Performance-Based Budgeting: How to structure budgets to enable the use of evidence”.