Những khó khăn trong học tập của học sinh

Chƣơng 2CÁC VẤN ĐỀ KHÓ KHĂN THƢỜNG GẶP CỦA HỌC SINHTRƢỜNG THPT TRẦN PHÚ VÀ THPTDL VĂN HIẾN2.1 Thực trạng các vấn đề khó khănĐể tìm hiểu những khó mà học sinh hai trường thường gặp phải trong họctập cũng như trong cuộc sống hàng ngày của các em chúng tôi đã đưa ra câu hỏinhằm tìm hiểu về những khó khăn của các em. Kết quả thu được cho thấy, nhữngvấn đề khó khăn mà học sinh thường gặp bao gồm ba nhóm khó khăn chính:1- Khó khăn từ phía bản thân học sinh2- Khó khăn trong học tập, hướng nghiệp3- Khó khăn trong các mối quan hệ xã hộiTrong phần này, người nghiên cứu tập trung nghiên cứu mức độ, tần suất gặpcác vấn đề khó khăn của học sinh. Trên mỗi nhóm khó khăn, sẽ tìm hiểu những khókhăn cụ thể nào mà hoc sinh hay gặp nhất. Bên cạnh đó, người nghiên cứu cũngphân tích, so sánh mức độ gặp khó khăn của học sinh hai trường THPT Trần Phú vàTHPT dân lập Văn Hiến cũng như sự khác biệt dưới góc độ giới tính và độ tuổi.Trước khi đi vào phân tích cụ thể từng nhóm khó khăn, kết quả nghiên cứu ở Bảng1 sẽ cho chúng ta thấy các nhóm khó khăn mà học sinh hai trường thường gặp phải:STTNhóm khó khănĐTB1Nhóm khó khăn từ phía bản thân học sinh1,552Nhóm khó khăn trong học tập, hướng nghiệp2,693Nhóm khó khăn trong các mối quan hệ xã hội2,21Bảng 1: Nhóm khó khăn mà học sinh trường gặp phảiNhìn vào bảng 1 chúng ta thấy nhóm khó khăn học tập, hướng nghiệp lànhóm khó khăn học sinh thường gặp nhất [ĐTB:2,69 ], nhóm khó khăn đứng ở vị tríthứ hai là nhóm khó khăn trong các mối quan hệ xã hội, và sau cùng là nhóm khókhăn từ phía bản thân học sinh. Có thể dễ dàng nhận thấy, các em học sinh gặp khókhăn nhiều nhất từ phía học tập, hướng nghiệp bởi vì hoạt động chủ đạo của họcsinh THPT là học tập và lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai. Các em học sinh dành28 nhiều thời gian và công sức cho hoạt động học tập, chính vì thế hai hoạt động nàysẽ chi phối những hoạt động khác cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý củalứa tuổi này.Trường THPT Trần Phú và trường THPT dân lập Văn Hiến nằm đối diệnnhau trên đường Hai Bà Trưng, tuy nhiên một trường là trường quốc lập và mộttrường là dân lập. Vậy có sự khác biệt về các khó khăn mà học sinh gặp phải tại 2trường hay không?ĐTBSTTNhóm khó khănTrƣờngTrƣờng THPTTHPTDL VănTrần PhúHiến1Nhóm khó khăn từ bản thân học sinh 2,232,192Nhóm khó khăn trong học tập, 2,782,58hướng nghiệp3Nhóm khó khăn trong các mối quan 1,921,87hệ xã hộiBảng 2: So sánh các khó khăn thường gặp của học sinh hai trườngNhìn vào bảng 2 ta có thể thấy không có nhiều sự khác biệt về các khó khănmà học sinh thường gặp ở cả hai trường. Nổi bật lên ở cả hai trường vẫn là nhómkhó khăn trong học tập, hướng nghiệp. Có lẽ đây vẫn luôn là những băn khoăn, trăntrở của bất cứ một em học sinh nào cho dù là các em học sinh quốc lập hay học sinhdân lập. Có thể nhận thấy khó khăn này ở học sinh THPT dân lập Văn Hiến cao hơnhơn học sinh THPT Trần Phú [ĐTB: 2,78 so với 2,58] Điều này có lẽ do các em họcsinh bên trường THPT Trần Phú được học tập ở một môi trường tốt hơn, các emđầu tư nhiều thời gian cho học tập hơn và do đó việc lĩnh hội kiến thức của các emsẽ gặp ít khó khăn hơn học sinh trường Văn Hiến. Bên cạnh đó, các em trường VănHiến cũng gặp nhiều khó khăn hơn trong từ phía bản thân so với các em trườngTrần Phú.Ngoài môi trường học tập, hoàn cảnh gia đình sự tương quan giữa khối học,giới tính và học lực cũng có phần tác động đến các khó khăn của học sinh.29 Học sinh lớp 10 là những học sinh mới bước vào môi trường học tập mới,với nhiều phương pháp kiến thức mới, chắc hẳn rằng các em cũng gặp không ít khókhăn, bỡ ngỡ. Các em học sinh lớp 12 đã quen dần với môi trường học tập, tuynhiên học sinh lớp 12 lại phải đối mặt với nhiều áp lực thi cử và định hướng nghềnghiệp cho tương lai. Vậy trên thực tế, học sinh lớp 10 và lớp 12 có những khókhăn khác biệt gì không?ĐTBSTTNhóm khó khănKhối 10Khối 121Khó khăn từ phía bản thân học sinh2,192,232Khó khăn trong học tập, hướng nghiệp2,652,743Khó khăn trong các mối quan hệ xã hội1,881,89Bảng 3: So sánh khó khăn thường gặp ở học sinh khối 10 và khối 12Nhìn vào bảng 3 ta thấy, không có nhiều sự khác biệt về các nhóm khó khănở học sinh lớp 10 và lớp 12. Nổi bật lên ở cả hai khối lớp vẫn là khó khăn trong họctập và hướng nghiệp. Tuy nhiên, căn cứ vào ĐTB có thể thấy học sinh lớp 12 gặpnhiều khó khăn hơn chút so với học sinh lớp 10 trong học tập, hướng nghiệp. Điềunày cũng dễ lý giải bởi các em học sinh lớp 12 đứng trước áp lực học tập và thi thửnhiều hơn các em học sinh lớp 10. Các em luôn phải chịu áp lực từ chính bản thân,từ thầy cô và gia đình trong việc lựa chọn, định hướng nghề nghiệp cho tương lai.Sự khác biệt về giới tính cũng ảnh hưởng đến khó khăn mà các em gặp phải.Học sinh nam và nữ thường gặp phải những khó khăn khác nhau.ĐTBSTTNhóm khó khănNamNữ1Khó khăn từ phía bản thân học sinh2,122,272Khó khăn trong học tập, hướng nghiệp2,582,763Khó khăn trong các mối quan hệ xã hội1,812,05Bảng 4: So sánh các nhóm khó khăn giữa học sinh nam và nữ30 Xét về thứ bậc các khó khăn mà học sinh nam và học sinh nữ chúng ta thấykhông có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn vào ĐTB giữa nam và nữ, có thể thấy họcsinh nữ có ĐTB về các khó khăn cao hơn học sinh nam. Khi xét cụ thể từng biểuhiện của các nhóm khó khăn giữa học sinh nam và học sinh nữ, người nghiên cứunhận thấy có sự tương đồng giữa các khó khăn của nam và nữ. Cụ thể như, nhómkhó khăn trong học tập, hướng nghiệp thì nổi bật lên ở cả học sinh nam và nữ vẫn làkhó khăn trong việc tiếp thu những kiến thức đã học và khó khăn trong việc lựachọn nghề nghiệp phù hợp với bản thân. Nhóm khó khăn trong các mối quan hệ xãhội nổi bật lên vẫn là mâu thuẫn trong gia đình và trong quan hệ bạn bè, tình bạnkhác giới.Để tìm hiểu kỹ hơn về các biểu hiện cụ thể trong từng nhóm khó khăn, ngườiviết xin được phân tích lần lượt các khó khăn mà học sinh thường gặp.2.1.1 Khó khăn trong học tập, hướng nghiệpHọc tập là hoạt động chủ đạo của học sinh lứa tuổi THPT. Theo nghiên cứucũng như quan sát của chúng tôi, phần lớn thời gian của các em đều giành cho việchọc tập. Ban ngày là học chính khóa, hết giờ học các em lại tham gia các lớp họcthêm. Rõ ràng áp lực học hành và thi cử đối với các em học sinh THPT là rất lớn.Đặc biệt, đối với các em học sinh lớp 12, không chỉ có áp lực học hành, thi cử, màviệc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai cũng là một vấn đề khiến các em luôncảm thấy băn khoăn. Với cường độ học tập như vậy thì các em có gặp phải nhữngkhó khăn trở ngại nào không? Để tìm hiểu vấn đề này, người nghiên đã đưa ra câuhỏi: Xin bạn hãy cho biết những khó khăn nào mà bạn thường gặp phải trong họctập? Thang đo bao gồm các mức đô thường xuyên, thỉnh thoảng, hiếm khi hoặcchưa bao giờ. Kết quả thu được như sau:STT Vấn đềCác mức độ ảnh hƣởng [%]ThườngThỉnhHiếmChưaxuyênthoảngkhibao giờ1Khó tập trung nghe giảng10,450,328,111,22Khó tiếp thu bài12,050,232,65,23Khó khăn trong việc ghi nhớ, 19,747,524,38,5vận dụng kiến thức đã họcBảng 5. Nhóm khó khăn trong học tập31 Số liệu trong bảng 5 cho thấy, khó khăn lớn nhất trong học tập mà các emhọc sinh hay gặp phải đó là khó khăn trong việc ghi nhớ, vận dụng kiến thức đã học.Theo thống kê cho thấy, có 67,2% học sinh thường xuyên hoặc thỉnh thoảng gặpphải khó khăn này.Qua nghiên cứu, các em học sinh dành nhiều thời gian cho việc học tập, tuynhiên lại không số thời gian còn lại không đủ để ôn tập và trau dồi lại kiến thức đãhọc. Khối lượng kiến thức mà thầy cô cung cấp ở trên lớp cũng như ở các buổi họcthêm ngoài giờ tỷ lệ nghịch với thời gian ôn luyện và tự học ở nhà của các em.“Ngày nào em cũng phải đi học trên lớp, rồi đi học thêm nữa. Đến khi về nhà emcảm thấy rất mệt. Bài tập về nhà lại nhiều, nhiều lúc em chỉ làm đối phó cho xongđể còn đi ngủ.” [PVS. N.T.T. học sinh lớp 12].Bên cạnh đó, do đặc điểm tâm lý của học sinh còn e ngại với thầy cô nên cácem không dám hỏi lại thầy cô ở những bài học mà các em cảm thấy chưa hiểu. Điềuđó dẫn đến việc các em nghe giảng một các thụ động, không hiểu được bản chất củavấn đề nên khó có thể vận dụng những kiến thức đã học. “Nhiều lúc đi học mà emchẳng hiểu thầy cô giảng cái gì, xong về nhà làm bài tập về nhà không làm được.Em nhiều lần cũng định là sẽ hỏi lại thầy cô hay bạn bè trong buổi học ngày mainhưng thấy ngại lắm. Nhiều bạn cô gọi lên làm bài tập về nhà vẫn làm tốt nên emsợ cô và các bạn cười” [PVST.V.T học sinh lớp 12].Bên cạnh khó khăn trong việc ghi nhớ và vận dụng kiến thức đã học thì khókhăn trong việc khó tiếp thu bài và khó tập trung nghe giảng cũng là một khó khănlớn của các em học sinh. Có 62,3 học sinh thường xuyên hoặc thỉnh thoảng gặp khókhăn này.Qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này,người nghiên cứu nhận thấy:Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, ngoài học tập các em học sinh bị lôi cuốn bởinhiều thú vui, trò chơi thú vị, các mối quan hệ bạn bè, tình bạn khác giới dẫn đếnviệc sao nhãng học tập làm giảm khả năng tập trung chú ý học tập, nghe giảng trênlớp của các em. Bên cạnh đó, phương pháp giảng dạy của thầy cô còn nặng về lýthuyết, đọc chép trên lớp nên chưa lôi cuốn các em vào các bài học. Điều này dẫn32 đến tâm lý nhàm chán, không có hứng thú tham gia vào việc nghe giảng cũng nhưphát biểu xây dựng bài. “Em thấy học mấy môn Toán, Lý, Hóa thì khó mà thầy côgiảng nhiều lúc em không hiểu, nên đâm ra chán học, cũng chả theo dõi thầy nói gìnữa, còn mấy môn Văn, Sử, Địa với cả các môn khác thì thầy cô toàn đọc chép,nghe chán nên ngồi trong lớp học các bạn cũng hay nói chuyện riêng, hoặc làmviệc riêng..” [TLNhọc sinh lớp 11].Ngoài những khó khăn nêu trên, trong quá trình phỏng vấn sâu cũng nhưthảo luận nhóm, các em cũng bày tỏ thêm về các khó khăn như: “E cảm thấy mìnhkém cỏi vì sức học kém hơn các bạn”; “Bài học quá nhiều, khó, thầy cô giảng bàikhó hiểu dẫn đến chán học”; “Bài học thì nhiều, thời gian thì ít. Em còn chưa kịphiểu bài cũ thì đã phải học sang bài mới rồi” ;“Em phải chịu nhiều áp lực học tậptừ phía gia đình, thầy cô và bạn bè nên luôn cảm thấy căng thẳng và mệt mỏi trongviệc học chứ không tìm thấy hứng thú trong việc học”; “Em là cán bộ lớp nên thầycô và bố mẹ kỳ vọng vào em rất nhiều. Nhiều lúc em thấy mệt mỏi lắm, cứ lo sợmình không thi đậu Đại học thì không biết sẽ thế nào nữa” [TLN học sinh lớp 12].Cùng với khó khăn trong học tập, ở lứa tuổi THPT các em bắt đầu có nhữngbăn khoăn, trăn trở về mục đích cuộc sống cũng như nghề nghiệp trong tương lai,làm thế nào để chọn một nghề nghiệp phù hợp với bản thân, phù hợp với ước mơcủa mình? Làm thế nào để biến ước mơ thành sự thật? Lúc này đây, các em bắt đầucó những mâu thuẫn trong việc lựa chọn nghề nghiệp của mình, đôi khi có nhữngmâu thuẫn với năng lực của bản thân, mâu thuẫn với sự mong muốn và kỳ vọng củabố mẹ. Thêm vào đó các em chưa hiểu rõ đặc điểm, bản chất của các nghề nghiệpkhác nhau. Vấn đề lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai như thế nào được các emđặc biệt quan tâm ngay từ khi bước vào lớp 10 và ngày càng trở nên cấp thiết hơnvới các em học sinh cuối cấp.Qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, người viết nhận ra rằng, hầu hết cácbuổi tư vấn, hướng nghiệp được nhà trường tổ chức chỉ dành cho học sinh cuối cấplớp 12 chứ chưa tổ chức rộng rãi cho cả ba lớp 10,11,12. Như vậy, những bănkhoăn, trăn trở của các em ngay từ bước vào cấp 3 chưa được định hướng rõ ràngngay từ đầu, dẫn đến việc các em không có một mục tiêu cụ thể ngay khi bước vào33 cấp 3 mà đến cuối cấp mới được cung cấp một số thông tin thông qua các buổihướng nghiệp mà nhà trường tổ chức. “Từ hồi vào học lớp 10 em đã rất băn khoănvề nghề nghiệp tương lai và cũng muốn có ai đó giúp em có thêm thông tin về cácngành nghề để mà lựa chọn để có mục tiêu rõ ràng còn biết cố gắng mà học chứmông lung lắm. Em chả biết tương lai mình sẽ làm nghề gì nữa. Giờ lớp 12 nhàtrường mới tổ chức buổi tư vấn hướng nghiệp cho bọn em. Nhưng em thấy vẫnkhông được rõ ràng gì cả. Vẫn cứ băn khoăn mãi chọn nghề gì, chọn trường gì bâygiờ..” [PVS N.V.H học sinh lớp 12]. Như vậy, có thể thấy hoạt động tư vấn, hướngnghiệp đã được nhà trường tổ chức tuy nhiên còn chưa đi vào chiều sâu. Hoạt độnghướng nghiệp chỉ dành cho các em học sinh lớp 12. Hơn nữa, nội dung hướngnghiệp chỉ mới cung cấp một số thông tin về các trường đang có nhu cầu tuyển sinhvà ngành học, việc trợ giúp học sinh tìm hiểu những đặc điểm tâm lý, năng lực,điểm mạnh, điểm yếu của bản thân thì chưa được chú trọng. Nhiều em học sinh quabuổi hướng nghiệp vẫn chưa tìm ra cho mình một ngành nghề phù hợp và vẫn cònnhững trăn trở nhưng hầu hết những trăn trở sau đó không được giải đáp đến đếnviệc lựa chọn nghề nghiệp của các em nhiều lúc chỉ theo cảm tính, theo bạn bè vàsự tư vấn của thầy cô, bố mẹ. Các em thường có chung xu hướng tìm hiểu điểm đầuvào của các trường Đại học, Cao đẳng và căn cứ vào đó để lựa chọn trường học phùhợp khả năng của bản thân. “Vì không hiểu rõ đặc điểm của các ngành học ởtrường Đại học, cao đẳng nên em thường xem thông tin điểm đầu vào của nămtrước, rồi căn cứ điểm thi thử của mình xem vào trường nào, khoa nào thì khả năngthi đỗ sẽ cao chứ nhiều lúc cũng chả biết ngành đó học cái gì, ra trường làm gì. Đôilúc ngành em thích điểm lại cao nên em cũng không dám nạp hồ sơ. Thầy cô, bố mẹthì cứ bảo phải chọn ngành nào, trường nào xác suất đỗ cao thì nộp hồ sơ thôi ạ”[PVS T.P.T học sinh lớp 12]. Chính vì vây, các em luôn có sự mâu thuẫn giữa nănglực của bản thân với ước mơ, mong muốn của mình. Thêm vào đó là sự mâu thuẫnvới sự kỳ vọng của bố mẹ, người thân. “ Em mong ước sau này trở thành luật sưnhưng điểm vào trường Luật khá là cao nên em không dám thi”; “Bố mẹ em thìmuốn em thi kinh tế để sau này nối nghiệp bố mẹ nhưng em lại không thích cho lắm.Em đang băn khoăn không biết nên thi vào trường nào”; “Bố mẹ muốn em thi vào34 trường kiến trúc vì mẹ em làm bên kiến trúc, sau ra trường có chỗ làm luôn khôngphải nghĩ”; “Thầy cô khuyên chúng em nên cân nhắc khi chọn trường, phải biếtmức học mình ở đâu mà nộp đơn, không lại trượt Đại học,..” ; “Bố mẹ em bảo cứchọn trường nào vừa vừa điểm để đỗ Đại học cái đã, những cái ước mơ, sở thích gìthì để sau, gì thì gì cũng phải đỗ Đại học”. TLNhọc sinh lớp 12. Như vậy, vô hìnhchung bố mẹ và thầy cô đã không quan tâm đến suy nghĩ của các em mà chỉ muốncác em chọn nghề theo sự tư vấn của bố mẹ bởi những lý do liên quan đến côngviệc về sau cũng như đến thành tích của nhà trường là phải có tỷ lệ học sinh đỗ Đạihọc cao. Khi hỏi về vấn đề này, các em đều mong muốn được mọi người lắng nghe,chia sẻ những mong muốn của các em chứ không phải áp đặt các em phải thi trườngnày, phải học ngành kia. Hình thức tư vấn hướng nghiệp ở 2 trường mà chúng tôinghiên cứu mới chỉ dừng lại ở tư vấn tập trung cả lớp chứ chưa có tư vấn trực tiếpvới từng cá nhân khi các em có nhu cầu. Hơn nữa, bản thân những người tham vấncho các em học sinh lại là giáo viên chứ không phải là nhân viên CTXH hay mộtnhân viên tham vấn học đường. Giáo viên thường chưa được trang bị đầy đủ về cáckỹ năng tham vấn cũng như những kiến thức và công cụ tham vấn nên hiệu quả tưvấn không được cao dẫn đến việc nhiều thắc mắc, băn khoăn của các em chưa đượcgiải đáp một cách thấu đáo. Như vậy, có thể nhận ra rằng, trong trường học đangthiếu một nhân viên CTXH làm việc với vai trò tham vấn định hướng nghề nghiệpcho các em. Đó là những người được đào tạo bài bản, có chuyên môn và luôn sẵnsàng lắng nghe những trăn trở của các em, cùng với các em từng bước tháo gỡnhững băn khoăn đó.Vai trò tham vấn nói chung và tham vấn hướng nghiệp nói riêng là một vaitrò vô cùng quan trọng của nhân viên CTXH trong trường học. Tham vấn hướngnghiệp là quá trình trợ giúp, cung cấp cho các em đầy đủ thông tin về nghề nghiệpmà các em mong muốn. Đồng thời giúp đỡ các em vượt qua những khủng hoảng,những băn khoăn khi có sự mâu thuẫn trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Nhân viênCTXH cũng là ngườ giúp các em nhìn nhận điểm mạnh cũng như điểm yếu của bảnthân để giúp các em tự tin hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Nhân viên CTXH35 giúp các em nhận ra bản chất của vấn đề từ đó các em có thể hiểu rõ mình cần phảilàm gì và mình nên đưa ra quyết định như thế nào.Thực tế cho thấy, song song với hoạt động học tập, hoạt động hướng nghiệplà một hoạt động quan trọng cần được chú trọng và các buổi tư vấn, hướng nghiệpcần được tổ chức ngay từ khi các em vào học lớp 10 để các em có thể xác định rõmục tiêu cần phấn đấu trong 3 năm học THPT. Nếu công tác này được thực hiện tốt,học sinh sẽ lựa chọn được những ngành nghề phù hợp với mong muốn của bản thân.Bởi sau đó, nếu được học ngành nghề mà mình thích, các em có nhiều đam mê, vàhứng thú trong học tập hơn, hiệu quả học tập sẽ cao hơn. Nếu công tác hướngnghiệp không được tốt, cho dù thi đỗ vào trường như bố mẹ và thầy cô mong muốnnhưng các em không có hứng thú với ngành học đó dẫn đến các hệ lụy khó lườngnhư: chểnh mảng học hành, đua đòi bạn bè thậm chí là bỏ học. Hiện nay, có nhiềutrường hợp do không chọn đúng ngành nghề phù hợp mà khi ra trường các bạn sinhviên thường làm công việc trái ngược hoàn toàn với những gì được đào tạo. Một sốkhác lại thay đổi ngành nghề liên tục gây mệt mỏi, chán nản cho bản thân và giađình. Như vậy, nếu công tác tư vấn hướng nghiệp không được thực hiện tốt sẽ dẫnđến những hậu quả không chỉ trước mắt mà còn kéo dài về sau, gây nhiều tổn thấtcho người học, gia đình và xã hội.Để tìm hiểu rõ hơn về những khó khăn của các em được phản ánh qua điềuước,chúng tôi cho các em viết ra 3 điều mà mình mong muốn nhất. Số phiếu đượcphát ra là 80 phiếu, trong số đó có 25 phiếu cho các em học sinh lớp 10, 20 phiếuhọc sinh lớp 11 và 35 phiếu ở học sinh lớp 12. Qua số liệu thu được, có hơn 96 %các em đều nói về vấn đề học tập ở điều ước đầu tiên “ Em ước đậu Đại học, đượcđiểm cao trong kỳ thi sắp tới, đạt danh hiệu học sinh, học tốt Tiếng Anh để được đidu học”. Cụm từ: “Đỗ Đại học và được trường ĐH mong muốn” là cụm từ xuấthiện nhiều nhất trong số điều ước mà các em ghi ra [96,7% các em ghi điều ướcnày]. Qua điều ước của các em có thể thấy rõ hơn về việc học tập là một nhiệm vụquan trọng của các em học sinh và luôn được các em quan tâm và lo lắng. Chính vìvậy, nó đã tạo ra áp lực đối với các em học sinh. Qua tìm hiểu ở 3 khối 10,11,12người nghiên cứu cũng nhận ra rằng không có sự khác biệt giữa các điều ước của36 các khối lớp khác nhau. Cho dù là các em học sinh lớp 10 mới chập chững bước vàomôi trường học THPT hay các em học sinh 12 chuẩn bị ra trường thì việc học tậpcũng luôn là điều mà các em mong muốn nhất. Việc các em có những khát khao nàylà điều dễ lý giải, bởi là học sinh, bất kỳ ai cũng mong có điểm tốt, bất kỳ ai cũngmong đạt được những kết quả học tập cao: như đậu các kỳ thi học sinh giỏi, điểmkiểm tra lúc nào cũng đạt 9, 10... Nhờ vào những mong muốn đó mà học sinh cóđộng lực phấn đấu học tập. Tuy nhiên, nếu các em không tìm được cách thức họctập đúng đắn, các em không điều tiết thời gian, phương pháp học tập thì sẽ dẫn đếnnhững hậu quả khó lường. Bởi một bên là mong muốn đạt được kết quả cao, mộtbên là cách thức tiến hành để đạt được những kết quả ấy không phù hợp, hai yếu tốđó không song song cùng nhau thì nhất định sẽ dẫn đến những khó khăn nhất địnhkhiến các em cảm thấy hoang mang, bế tắc. Bên cạnh điều ước về học tập, các emcũng ghi ra những mong ước liên quan đến các mối quan hệ xã hội “Gia đình hạnhphúc, cả gia đình yêu thương nhau, bố mẹ không cãi nhau,..” hay các mong ướcliên quan đến bản thân các em “Giàu có, xinh đẹp, có người yêu,..”Số1lượtĐiều mong muốnmong muốn đượcghiTTTỉ lệ % so với số lầnchọn [85 lần]8094,1%8296,4%6374,1%4148,2%Có kểt quả học tập tốt [điểm cao, đạt họcsinh giỏi, được đi du học, kiếm được họcbổng,]2Đậu đại học, vào được trường ĐH mình mongmuốn3Mong muốn cho gia đình [gia đình hạnhphúc, cả nhà yêu thương nhau, bố mẹ khôngcãi nhau,..]4Mong cho bản thân [giàu có, mua được xemáy để đi học, xinh đẹp hơn, có người yêu,..]Bảng 6. Điều ước của các em học sinh theo nhóm vấn đề37 2.1.2 Khó khăn trong các mối quan hệ xã hộiTrong cuộc sống mỗi con người là một thực thể xã hội, bao quanh chúng talà hàng loạt các mối quan hệ khác nhau: quan hệ gia đình, hàng xóm, thầy cô, bạnbè. Chính quá trình tiếp xúc, tương tác lẫn nhau trong các mối quan hệ, các em luôngặp phải những khó khăn. Để tìm hiểu vấn đề này, người nghiên cứu cũng đưa racâu hỏi nhằm tìm hiểu những khó khăn trong các mối quan hệ xã hội mà học sinhthường gặp phải với thang đo các mức độ ảnh hưởng là thường xuyên, thỉnh thoảng,hiếm khi và không bao giờ.Các mức độ ảnh hưởngThườngSTT1xuyênMâu thuẫn giữa các thành viênthoảng8,7Các khó khănThỉnhHiếm32,225,733,3khiKhôngbao giờtrong gia đình2Khó khăn trong quan hệ với thầy cô7,421,033,937,73Khó khăn trong quan hệ bạn bè6,315,030,947,84Khó khăn trong tình yêu, tình bạn10,726,222,740,4khác giớiBảng 7: Khó khăn trong các mối quan hệ xã hộiNhìn vào bảng 7, có thể thấy nổi bật lên trong các nhóm khó khăn liên quanđến các mối quan hệ xã hội là mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình và khókhăn trong tình yêu, tình bạn khác giới. Rõ ràng hai nhóm khó khăn này có mốiquan hệ mật thiết với tâm lý lứa tuổi của các em.Khó khăn trong mối quan hệ với gia đìnhGia đình luôn là nơi cần thiết nhất, gần gũi nhất là nơi mà bất kỳ ai cũng nghĩđến. Người ta hạnh phúc khi họ nghĩ về gia đình của mình một cách thoải mái, vuivẻ... ngược lại, con người cảm thấy bất an, bất hạnh khi nghĩ về những người thânyêu của mình mà không hề yên tâm chút nào. Đặc biệt, ở lứa tuổi học sinh trung họcphổ thông, các em có những mối ràng buộc với gia đình khác hẳn với gia đoạntrước. Với đặc điểm tâm lý muốn làm người lớn, muốn thể hiện chính mình, lứatuổi có nhiều “khủng hoảng đầu đời” do đó các em thường ít gắn bó với cha mẹ38

Video liên quan

Chủ Đề