Nơi trao đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài dưới thời Trần được điền ra ở đâu

[HNM] - Được bao quanh bởi hệ thống sông ngòi ngang dọc, thuận tiện cho việc đi lại, thành Thăng Long sau khi được Lý Công Uẩn chọn là Kinh đô của nước Đại Việt, không chỉ là trung tâm chính trị mà còn trở thành nơi hội tụ giao thương kinh tế của cả nước. Từ thời kỳ này, vùng đất rồng bay đã giành được mối quan tâm đặc biệt của các thương nhân nước ngoài. Sử sách đã ghi nhận thuyền buôn các nước đã tới nước ta và theo dòng sông Hồng vào Kinh đô trao đổi hàng hóa. Dưới thời Trần, việc thực thi chính sách đối ngoại thân thiện đã khiến Thăng Long mang bóng dáng của một đô thị sầm uất. Hàng hóa được đưa vào Kinh đô qua những dòng sông uốn lượn chằng chịt. Đã có cửa hàng buôn bán của người nước ngoài xen lẫn với những cửa hàng của người Việt và tạo nên một không gian kinh tế tiếp nhận những yếu tố bên ngoài cùng sự đa dạng về giao lưu văn hóa. Tuy nhiên, sang thế kỷ 17, nền kinh tế hàng hóa mới thực sự bắt đầu phát triển mạnh mẽ tại Thăng Long tức Đông Kinh dưới thời Lê. Trong cuốn sách "Mô tả về Vương quốc Đông Kinh" của Samuel Baron [Anh] từng làm việc ở Công ty Đông Âu Vương quốc Anh tại Thăng Long từ 1692 đến 1697 xuất bản lần đầu năm 1732 đã so sánh Đông Kinh với một số thành phố lớn ở châu Âu và châu Á. Nhiều nhà buôn phương Tây đã không khỏi ngạc nhiên trước một kinh thành tấp nập trên bến dưới thuyền khiến họ liên tưởng tới thành Vensise thơ mộng của nước Ý. Giai đoạn này cũng mở đầu cho thời kỳ hoàng kim trong giao thương quốc tế và cũng từ đây cái tên Kẻ Chợ như một biểu tượng của sự phát triển thương mại ở Thăng Long đã được sử dụng để gọi thành Đông Kinh. Đến thời Lê Trung Hưng, các chúa Trịnh thực thi chính sách mở cửa với nước ngoài. Ngoài những đối tác truyền thống từ phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, thời kỳ này đã có thêm các đối tác từ phương Tây như Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan. Theo một số tài liệu, năm 1637, Chúa Trịnh Tráng đã tiếp đại diện thuyền buôn Hà Lan. Các cuộc thương thuyết theo tinh thần cởi mở khiến người Hà Lan lập thương điếm đầu tiên tại Kẻ Chợ, bên bờ Nhị Hà - tên gọi sông Hồng thời đó - để thuận tiện cho việc buôn bán qua đường thủy vào năm Ất Dậu [1645]. Trước đó, người Hà Lan cũng đã xây dựng một thương điếm tại Phố Hiến [Hưng Yên], một trung tâm buôn bán nổi tiếng của Đàng Ngoài với sự hiện diện của nhiều tàu buôn nước ngoài. Việc hợp tác với thương nhân Hà Lan, một quốc gia có nền thương mại hàng hải phát triển mạnh mẽ đã mang lại nhiều cơ hội mở rộng giao thương với các nước phương Tây tại "nơi đô thành bậc nhất". Một du khách nước ngoài khi đến đất Kẻ Chợ đã nhận xét: "Kinh thành nhộn nhịp nằm ngay bên bờ một con sông lớn. Việc buôn bán ở đây rất thuận tiện với hàng loạt thuyền bè thường xuyên đi lại trên sông và qua hệ thống kênh đào được nối liền với các con sông khác. Người ta có thể dễ dàng mang lại mọi thứ hàng hóa từ các trấn ngoài đến buôn bán ở Kinh thành". Với lợi thế mà không vùng đất nào có được này, năm 1683, người Anh đã đến Thăng Long để thương lượng đặt thương điếm. Đây cũng là một dấu mốc quan trọng của quan hệ kinh tế với nước ngoài của triều đình Lê - Trịnh để tiếp sau đó, số lượng người Hoa, Nhật Bản, nhiều quốc gia trong khu vực và châu Âu tới làm ăn và sinh sống tăng nhanh chóng, đặt nền móng quan trọng cho một nền thương mại quốc tế sau này tại Thăng Long - Hà Nội.

Những biến cố đầy thăng trầm của lịch sử phong kiến Việt Nam đến thế kỷ XX cũng đã ảnh hưởng đến sự phát triển của bang giao kinh tế với nước ngoài. Song dưới triều đại nào, dù là kinh đô của một nước hay chỉ tạm là tỉnh Hà Nội dưới triều Nguyễn, Kẻ Chợ vẫn là vùng đất của giao thương trong nước và quốc tế, góp phần tạo nên một Thăng Long phồn hoa đầy dấu ấn lịch sử, trái tim của non sông nước Việt.

Việc trao đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài dưới thời Trần được đẩy mạnh ở đâu?

A. Thăng Long.

B. Chương Dương.

C. Vân Đồn.

D. Domea.

Các câu hỏi tương tự

Việc trao đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài dưới thời Trần được đẩy mạnh ở đâu?

A. Thăng Long.

B. Chương Dương.

C. Vân Đồn.

D. Các vùng trên.

Thời Trần, thương nhân nước ngoài thương vào cảng nào của nước ta để buôn bán?

A. Phố Hiến.

B. Hội An.

C. Vân Đồn.

D. Hải Phòng.

Tháng 5-1285, quân Trần tổ chức tổng phản công đánh bại giặc Nguyên ở

A. Tây Kết, Chương Dương, Hàm Tử.

B. Chương Dương, Mê Linh, Vân Đồn.

C. Chương Dương, Vạn Kiếp, Bạch Đằng.

D. Hàm Tử, Bình Lệ Nguyên, Thiên Mạc.

 Để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, làm suy yếu ý chí của quân Tống, Lý Thường Kiệt đã làm gì?

A. Tập trung tiêu diệt nhanh quân Tống.

B. Trao thưởng cho ai bắt sống được nhiều quân địch.

C. Sáng tác bài thơ “Nam quốc sơn hà”.

D. Ban thưởng gấm vóc, vàng bạc cho quân lính.

Trong hoạt động ngoại thương thời Trần việc buôn bán với nước ngoài diễn ra chủ yếu ở đâu?

A.   Kinh thành Thăng Long

B.   Các cửa biển.

C.   Vùng biên giới.

D. Ở các chợ làng

Các câu hỏi tương tự

Việc trao đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài dưới thời Trần được đẩy mạnh ở đâu?

A. Thăng Long.

B. Chương Dương.

C. Vân Đồn.

D. Các vùng trên.

Việc trao đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài dưới thời Trần được đẩy mạnh ở đâu?

A. Thăng Long.

B. Chương Dương.

C. Vân Đồn.

D. Domea.

Thời Trần, thương nhân nước ngoài thương vào cảng nào của nước ta để buôn bán?

A. Phố Hiến.

B. Hội An.

C. Vân Đồn.

D. Hải Phòng.

Kinh tế Đại Việt thời Trần phản ánh những vấn đề liên quan tới chính sách và hoạt động kinh tế vào thời nhà Trần [1225-1400] trong lịch sử Việt Nam.

Mục lục

  • 1 Nông nghiệp
    • 1.1 Chế độ ruộng đất
      • 1.1.1 Ruộng công
      • 1.1.2 Ruộng tư
    • 1.2 Đắp đê và làm thủy lợi
      • 1.2.1 Đê điều
      • 1.2.2 Thủy lợi
  • 2 Thủ công nghiệp
    • 2.1 Thủ công nghiệp nhà nước
    • 2.2 Thủ công nghiệp nhân dân
  • 3 Thương mại
    • 3.1 Nội thương
    • 3.2 Ngoại thương
  • 4 Tiền tệ
  • 5 Xem thêm
  • 6 Tham khảo
  • 7 Chú thích

Nông nghiệpSửa đổi

Bài chi tiết: Nông nghiệp Đại Việt thời Trần

Chế độ ruộng đấtSửa đổi

Ruộng côngSửa đổi

Có hai bộ phận ruộng công, gồm ruộng đất do triều đình trực tiếp quản lý và ruộng đất công của thôn làng.

Ruộng quốc khố là ruộng công của triều đình mà hoa lợi thu được dự trữ vào kho của vua để chi dùng cho hoàng cung. Nhà Trần đặt ruộng quốc khố ở Cảo Xã[1]. Ruộng đất này không chiếm số lớn nhưng cũng là nguồn thu nhập đáng kể cho triều đình. Sơn lăng là loại ruộng dùng vào việc thờ phụng tổ tiên dòng họ nhà vua tại các làng Thái Đường, Thâm Động [Thái Bình], Tức Mặc [Nam Định], Yên Sinh [Quảng Ninh]. Các quý tộc nhà Trần cũng có ruộng sơn lăng. Ruộng sơn lăng vẫn tồn tại đến nhiều đời sau, gọi là tự điền[2]. Tịch điền là loại ruộng do triều đình trực tiếp quản lý, hoa lợi dùng cho triều đình. Ruộng công làng xã Hương là đơn vị hành chính cấp cơ sở của chính quyền. Do nhu cầu tô thuế và điều động nhân lực phục dịch và tuyển lính nên triều đình thường kiểm kê dân số.

Ruộng tưSửa đổi

Thái ấp Chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc thể hiện dưới hình thức thái ấp.Điền trang chính thức phát triển phổ biến từ năm 1266 do nhu cầu khẩn trương mở rộng diện tích canh tác. Đây là khu vực kinh tế hỗn hợp của hình thức bóc lột nông nô, nô tì và nông dân lệ thuộc.Ruộng tư của địa chủ Năm 1254 triều đình ra lệnh bán ruộng công. Những địa chủ sở hữu nhiều ruộng đất nhưng không vì vậy mà địa vị xã hội của họ được nâng cao[3].Ruộng đất tiểu nông Lệnh bán đất năm 1254 tạo điều kiện cho các gia đình tiểu nông mua thêm ruộng đất.

Việc sở hữu ruộng đất của nông dân không ổn định. Vào những năm mất mùa, họ phải bán ruộng cho địa chủ, không ít người lâm vào cảnh làm nô tì[4].

Đắp đê và làm thủy lợiSửa đổi

Đê điềuSửa đổi

Triều đình áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp, trong đó có làm thủy lợi cho cả nước. Thời Lý chưa có cơ quan chuyên trách, việc làm đê ngăn mặn vẫn mang tính chất cục bộ từng vùng, tác dụng của đê còn hạn chế[5]. Năm 1248, Trần Thái Tông lập ra cơ quan Hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách đê điều tại các lộ phủ và đó là lần đầu tiên cơ quan chỉ đạo và quản lý đê điều được hình thành trong lịch sử Việt Nam[6]. Việc đắp đê thực hiện suốt từ đầu nguồn cho tới bờ biển để ngăn nước lũ tràn ngập, gọi là đắp đê quai vạc.

Đắp đê quai vạc được xem là bước ngoặt to lớn trong lịch sử thủy lợi Việt Nam. Triều đình bỏ ra nhiều tiền của cho công trình này, trực tiếp tổ chức đắp đê trên các triền sông[6]. Hiện nay nhiều địa phương ven sông Hồng vẫn còn đê quai vạc. Việc đắp đê quai vạc không chỉ thực hiện ở đồng bằng sông Hồng mà còn thực hiện tại Thanh Hóa, Nghệ An.

Đê đỉnh nhĩ không phải là công trình mới và không chỉ đắp một lần có thể xong. Trên cơ sở những đê vùng cũ, nhà Trần cho đắp nối lại, hợp nhất thành tuyến từ đầu nguồn tới biển cho đê to hơn và vững hơn.

Triều đình quy định khi có lụt thì mọi người cùng phải có trách nhiệm. Vua đi thân chinh và huy động cả học sinh trường Quốc Tử Giám[7]. Ngoài ra, nhà Trần còn tổ chức đắp đê ngăn nước mặn. Đây là những công trình mới có từ thời Trần. Các quý tộc nhà Trần thường cho nô tì đắp đê tại ven biển các điền trang.

Thủy lợiSửa đổi

Công tác thủy lợi cũng được triều đình chú trọng. Tại Thanh Hóa và Nghệ An có nhiều công trình. Năm 1233, Trần Thái Tông sai đào kênh Trầm, kênh Hào từ Thanh Hóa tới Diễn châu. Năm 1248, triều đình lại cho đào sông Mã, sông Lễ và đục núi Chiếu Bạch ở Thanh Hóa. Năm 1256, nhà Trần lại cho khơi sông Tô Lịch.

Năm 1355 và 1357, Trần Dụ Tông cho đào sông ở Thanh Hóa và Nghệ An. Năm 1374, Trần Duệ Tông cho nạo vét các dòng sông từ Thanh Hóa tới cửa biển Hà Hoa [Kỳ La, Hà Tĩnh]. Năm 1382, nhà Trần cho đào tiếp sông ở Tân Bình và Thuận Hóa.

Thủ công nghiệpSửa đổi

Bài chi tiết: Thủ công nghiệp Đại Việt thời Trần

Thủ công nghiệp nhà nướcSửa đổi

Nghề gốm Đây là một bộ phận quan trọng của quan xưởng. Lò gốm quan xưởng chủ yếu sản xuất đồ dùng thiết yếu như bát, đĩa, chén, đồ thờ cúng hoặc vật liệu xây dựng như gạch, ngói. Nghề dệt Nghề dệt được triều đình chú trọng, đặt ngay trong cung đình. Đồ dệt của vua chủ yếu là tơ tằm. Chế tạo vũ khí Các quan xưởng chế tạo vũ khí phục vụ cho quân đội. Thợ làm việc ở đây đều có thân phận thấp kém, được gọi chung là quan nô. Họ bị cưỡng bức lao động và bị lệ thuộc vào triều đình.

Sản phẩm những người thợ này làm ra để phục vụ triều đình chứ không phải sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Ngoài ra, triều đình còn trưng dụng những người thợ giỏi để phục vụ cho các công trình lớn.

Thủ công nghiệp nhân dânSửa đổi

Họ là những hộ sản xuất sản phẩm thủ công nghiệp mang trao đổi, buôn bán tại các chợ, phố, lị sở, các chợ phủ lộ và kinh thành Thăng Long.

Nghề gốm Sản xuất đồ sinh hoạt hằng ngày của nhân dân. Nổi tiếng nhất là làng Bát Tràng[8], Thổ Hà, Phù Lãng [Bắc Ninh]. Nghề rèn sắt Nhiều làng rèn chuyên nghiệp đã hình thành thời Trần: tại phủ Diễn Châu, Nghệ An có 2 làng Tùng Lâm và Hoa Chàng. Cuối thế kỷ 14, nghề rèn sắt truyền từ Hoa Chàng [Hà Tĩnh] ra làng rèn Hoa Chàng mới [Vân Chàng, Nam Định]. Nghề đúc đồng Trung tâm đúc đồng tại làng Bưởi [tức làng Đại Bái, Gia Bình, Bắc Ninh]. Người thợ đúc đồng ở đây tạo ra nhiều sản phẩm từ tượng Phật, đồ thờ đến đồ gia dụng Nghề làm giấy và in Nhu cầu giao lưu văn hóa thúc đẩy ngành này ngày càng phát triển và mở rộng. Nghề mộc và xây dựng Nghề mộc tạo đồ dùng gia đình, đồ thờ cúng và tạo dựng nhà ở, các công trình kiến trúc ở kinh thành Thăng Long, Tức Mặc, các phủ đệ Vạn Kiếp. Nghề khai khoáng Hầu hết các mỏ khai thác ở phía tây và phía bắc như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Oai, Tuyên Hóa. Các mỏ kim loại khai thác gồm có vàng, bạc, đồng, chì, thiếc, diêm tiêu.

Thương mạiSửa đổi

Bài chi tiết: Thương mại Đại Việt thời Trần

Nội thươngSửa đổi

Chợ là kênh phân phối chủ yếu của mạng lưới thương mại tại đồng bằng sông Hồng. Trong các làng xóm cũng có chợ, mỗi huyện có vài chợ, chợ này họp lệch phiên với chợ kia[9].

Hàng hóa còn được phân phối qua các phố. Các trung tâm phủ lỵ bên sông lớn, đầu mối giao thông thủy bộ đều có phố. Phố Luy Lâu[10] bên bờ sông Dâu là nơi buôn bán cố định. Bờ sông Nghĩa Trụ[11] còn có phố Lố cũng được hình thành vào thời Trần[9].

Ngoại thươngSửa đổi

Ngoài con đường biên giới trên bộ để thông thương với Trung Quốc, hải cảng là con đường thông thương chủ yếu với các quốc gia khác. Ngoài cảng Vân Đồn hình thành từ thời Lý còn có các cảng Hội Thống, Cần Hải[12], Hội Triều[13] thu hút khá nhiều thương nhân nước ngoài, đồng thời cũng là nơi xuất khẩu hàng hóa của Đại Việt.

Đối tác tới buôn bán tại các thương cảng là Trung Quốc, Diệp Điều [Java], Thiện [Miến Điện], Thiên Trúc [Ấn Độ]. Vân Đồn là cảng lớn nhất, nhưng từ sau cuộc chiến chống Mông-Nguyên, việc buôn bán bị hạn chế. Nhà Trần chuyển nơi đây thành nơi phòng thủ vì nhu cầu quốc phòng[14].

Đô thị buôn bán lớn nhất là kinh thành Thăng Long, có 2 cửa mở thông ra 2 cảng sông: Giang Khẩu[15] và Đông Bộ Đầu. Người buôn bán ở kinh thành chủ yếu cũng là người sản xuất trong các phường. Họ là thợ thủ công kiêm thương nhân, một số là thương nhân chuyên nghiệp, trong đó có thương nhân nước ngoài - chủ yếu là người Trung Quốc và một số người Hồi Hột[16].

Tiền tệSửa đổi

Bài chi tiết: Tiền tệ Đại Việt thời Trần

Thời Trần Thái Tông được các nhà nghiên cứu ghi nhận là lần đầu tiên sử sách phản ánh quan hệ giữa các đơn vị tiền tệ[17]. Năm 1226, triều đình "xuống chiếu cho dân gian dùng tiền "tỉnh bách" [hay "tỉnh mạch] mỗi tiền là 69 đồng. Tiền nộp cho nhà nước [tiền "thượng cung"] thì mỗi tiễn là 70 đồng" [18].

Mặc dù triều đình ấn định tỷ lệ tiền tệ nhưng trong thực tế không hoàn toàn theo đúng như vậy. Giá trị đồng tiền và tỷ giá bạc vẫn giảm theo mức cung cầu của hai kim loại trên thị trường vào một thời điểm hay ở một khu vực[19]. Càng về sau, tỷ lệ giá trị càng thấp.

Cuối thời Trần, ngoại thích Hồ Quý Ly nắm quyền thao túng triều đình. Ông thực hiện những cải cách đầu tiên về kinh tế. Năm 1396 thời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly nhân danh nhà Trần phát hành tiền giấy "Thông bảo hội sao", đây chính là loại tiền giấy đầu tiên trong lịch sử tiền tệ Việt Nam[20].

Khi tiền giấy đã in xong, hạ lệnh cho dân được đem tiền thực đổi lấy tiền giấy: cứ một quan tiền thực chất đổi lấy tiền giấy một quan hai tiền. Triều đình đặt ra quy định bắt buộc phải dùng tiền giấy không được dùng tiền đồng[21]. Tiền giấy Đại Việt không được chuyển đổi ra tiền đồng, khiến người dân không tin tưởng vào đồng tiền giấy mà họ bị bắt buộc phải sử dụng[20].

Các nhà nghiên cứu tổng kết thời Trần đã phát hành 5 đồng tiền kim loại [mang 5 niên hiệu của các vua] và 1 tiền giấy "Thông bảo hội sao".

Xem thêmSửa đổi

  • Kinh tế Việt Nam thời Hồ
  • Nhà Trần

Tham khảoSửa đổi

  • Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky [2009], Tiền cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục
  • Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên [2008], Đại cương lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục
  • Đại Việt sử ký toàn thư
  • Khâm định Việt sử thông giám cương mục

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Nay là Nhật Tảo, xã Hồng Minh, Hưng Hà, Thái Bình
  2. ^ Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 187
  3. ^ Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 199
  4. ^ Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 200
  5. ^ Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 142
  6. ^ a b Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 201
  7. ^ Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 202
  8. ^ Gia Lâm, Hà Nội
  9. ^ a b Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 207
  10. ^ Thuận Thành, Bắc Ninh
  11. ^ Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên
  12. ^ Nghệ An
  13. ^ Thanh Hóa
  14. ^ Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 208
  15. ^ Cửa sông Tô Lịch
  16. ^ Người Urgur ở Trung Á
  17. ^ Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky, sách đã dẫn, tr 59
  18. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 5
  19. ^ Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky, sách đã dẫn, tr 59-60
  20. ^ a b Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky, sách đã dẫn, tr 61
  21. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 8

Video liên quan

Chủ Đề