Phong cách ngôn ngữ của Vào phủ chúa Trịnh

Tác giả:

  • Lê Hữu Trác[1724- 1791], hiệu Hải Thượng Lãn Ông;
  • Quê: Liêu Xá, Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương;
  • Gia đình: có truyền thống khoa bảng;
  • Bản thân: 
    • Thông minh, hiếu học;
    • Không màng danh lợi;
    • Vừa là một danh y, vừa là một nhà văn, nhà thơ.
  • Thời đại: 
    • Vua Lê- chúa Trịnh;
    • Xã hội rối ren, lắm phe nhiều phái, nội chiến liên miên, nhân dân điêu linh, đất nước phân liệt.
  • Sự nghiệp: Bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” 
    • Gồm 66 quyển, 28 tập;
    • Cảm xúc chân thực trong những lần lặn lội chữa bệnh ở các miền quê;
    • Thể hiện sự trăn trở của một người lấy việc Cứu người và coi y đức làm trọng.

=> Tác phẩm được coi là “Bách khoa toàn thư y học thế kỉ XVIII”

  • Tác phẩm “ thượng kinh kí sự”.
    • Hoàn thành năm 1783, là quyển cuối của bộ “Hải thương y tông lĩnh”.
    • Thể loại: Kí sự
    • Giá trị tác phẩm: Quang cảnh kinh thành, phủ chúa và thái độ của tác giả.

Đoạn trích vào phủ Chúa Trịnh:

  • Vị trí: Ghi lại cảnh tác giả vào phủ chúa để bắt mạch, kê đơn cho thế tử Trịnh Cán[1/2/1782]
  • Bố cục: 
    • Bức tranh hiện thực sinh động trong phủ chúa;
    • Hình ảnh người thầy thuốc.
Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao? Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào?

Trả lời:

Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả:

  • Cảnh bên ngoài:
    • Cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương;
    • Những dãy hành lang quang co nối tiếp, người qua lại như mắc cửi.

=> Khung cảnh phủ chúa thơ mộng như chốn bồng lai tiên cảnh.

  • Cảnh nội cung [bên trong]:
    • Là một nơi thâm nghiêm: Nhà lớn cao rộng, kiểu cách xinh đẹp;
    • Màu sắc chủ đạo: đỏ và vàng rực rỡ
    • Không khí: ngào ngạt mùi hương[nến, hoa] nhưng tù đọng, ngột ngạt

=> Quang cảnh phủ chúa cực kỳ xa hoa, tráng lệ, lung linh, huyền ảo, không đâu sánh bằng biểu hiện một cuộc sống vương giả nhưng tù hãm, thiếu sinh khí.

Thông qua đây, tác giả nhận xét nơi phủ chúa cái gì cũng đẹp, cái gì cũng sang nhưng thái độ của tác giả lại tỏ rõ sự dưng dưng, không đồng tính với cuộc sống quá tiện nghi, quá sang trọng, khác thường như vậy. Đó là cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc xa xỉ nhưng lại chẳng có tự do sinh khí. Điều đó giúp ta khẳng định Lê Hữu Trác không thiết tha gì với danh lợi, với quyền uy cao sang.

Phân tích những chi tiết trong đoạn trích mà anh/chị cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.

Trả lời:

Trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có nhiều chi tiết đắt giá, thể hiện nổi bật nội dung hiện thực của tác phẩm. Sự tinh tế và sắc sảo của tác giả đọng lại trong đoạn trích là ở những chi tiết tuy nhỏ nhưng rất gây ấn tượng:

  • Lối vào chỗ ở của vị chúa nhỏ "Đi trong tối om, qua năm, sáu lần trướng gấm" - Nơi thế tử ngự; đạt sập vàng, cắm nến to trên giá đồng, bày ghế đồng sơn son thếp vàng, nệm gấm. Ngót nghét chục người đứng chầu chực sau tấm màn che ngang sân, cung nữ xúm xít. Đèn chiếu sáng làm nổi bật màu phấn và màu áo đỏ, hương hoa ngào ngạt.
  • Chỉ có một ấu chúa, thực chất chỉ là cậu bé lên 5 tuổi mà vây quanh bao nhiêu là vật dụng gấm vóc, lụa là vàng ngọc. Tất cả, bao chặt lấy con người. Người thì đông nhưng tất cả đều im lặng khiến cho không khí trờ nên lạnh lẽo, băng giá. Một cậu bé bị quây tròn, bọc kín trong cái tổ kén vàng son.
    • Biết khen người giữ phép tắc: "Ông này lạy khéo"
    • Cời áo thì: "Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò... nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức... mạch lại tế,... âm dương đều bị tổn hại..."

=> Hình ảnh nhân vật Trịnh Cán được khắc họa bằng những nét riêng, nhưng đồng thời mang ý nghĩa khái quát. Phải chăng cuộc sống vật chất quá đầy đủ, quá mức giàu sang, phú quý nhưng tất cả nội lực bên trong là tinh thần, ý chí, nghị lực, phẩm chất thì trống rỗng. Nhà khoa học kiêm nghệ sĩ tài ba Lê Hữu Trác đã chỉ đúng cội nguồn căn bệnh của Trịnh Cán là cả tập đoàn phong kiến của xã hội Đàng ngoài ốm yếu không gì cứu vãn nổi.

Truyện còn có nhiều chi tiết khác cũng thể hiện sự miêu tả sắc sảo: chi tiết miêu tả nơi "Thánh thượng đang ngự" [có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng làm nổi bật màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt], rồi chi tiết miêu tả dụng cụ để ăn uống, … Lời văn của tác giả rất tự nhiên, không hề có chút cường điệu nào. Cũng chính vì thế mà việc hưởng lạc xa hoa của nhà chúa tự nó phơi bày ra trước mắt người đọc không cần thêm một lời bình luận nào.

Cách chuẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này.

Trả lời:

Thái độ của Lê hữu Trác nơi phủ chúa:

  • Cảnh giàu sang nơi phủ chúa khác hẳn người thường.
  • Cả trời Nam sang nhất là đây.
  • Những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy, chỉ dám ngước nhìn rồi lại cúi đầu đi,
  • Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia.

=> Qua đó, ta thấy mặc dù tác giả khen cái đẹp, cái sang, cái uy quyền nơi phủ chúa nhưng lại tỏ ra dửng dưng trước sự quyến rũ vật chất nơi đây và không đồng tình với cuộc sống no đủ tiện nghi nhưng thiếu sinh khí. Đồng thời, ông dự cảm về một ngày mai suy yếu tàn tạ của cái gia đình, cái tầng lớp phong kiến thống trị lúc bấy giờ. Đây chính là giá trị hiện thực của tác phẩm.

Theo anh/chị, bút pháp kí sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những chi tiết đặc sắc đó.

Trả lời:

Nét đặc sắc của bút pháp kí sự:

  • Ký sự là một thể của ký thiên về tự sự, thường ghi chép các sự kiện, hay kể lại một câu chuyện khi nó mới xảy ra. Trong đoạn trích, tác giả đã thể hiện khả năng quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động. Lối kể khéo léo ,lôi cuốn bằng những sự việc chi tiết đặc sắc. Có sự đan xen với tác phẩm thi ca làm tăng chất trữ tình của tác phẩm.
  • Giọng điệu: kể chuyện khách quan, pha chút hài hước, tạo được sự thú vị cho người đọc: nín thở đứng chờ, bị sóc một mẻ, một chỗ tối om không có cửa ngõ gì cả… Giọng kể của ông rất tự nhiên xen kẽ giữa lời kể và lời bình, tác giả chú ý nhiều đến tả cảnh, đến tường thuật sự việc.
  • Về nhân vật, ngoài những người mang họ Trịnh, các nhân vật khác, tuy quyền hành và phận sự khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ cùng dựa dẫm, nịnh bợ nhà chúa nhằm củng cố địa vị cá nhân. Các quan ngự y ngày đêm chầu chực để liệu phương thuốc chạy chữa cho Trịnh Cán, nhưng lại sợ trách nhiệm, chỉ theo ý của quan Chánh đường để ra toa. Ngay cả quan Chánh đường cũng không khá hơn, ông hoàn toàn đặt mọi hi vọng vào thế tử ốm yếu, bệnh hoạn.
Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Vào phủ chúa Trịnh [Trích Thượng kinh kí sự] của Lê Hữu Trác?

Trả lời:

Nội dung: 

  • Đoạn trích đã dựng lên một bức tranh sinh động, chân thực về cuộc sống xa hoa, quyền quý ở phủ chúa Trịnh đồng thời bộc lộ rõ nét thái độ, tâm trạng, nhân cách Lê Hữu Trác.

Nghệ thuật:

  • Kết hợp kể, tả tập trung điểm xuyết
  • Chọn lọc những chi tiết đắt giá
  • Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen thái độ: Ngạc nhiên, hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh
  • Khéo léo kết hợp văn xuôi và thơ ca.

=>Tài quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động.

So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm [hoặc đoạn trích] kí khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh [chị] đã đọc và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này.

Trả lời:

Phương diện so sánh

Vào phủ chúa trịnh

Chuyện cũ trong phủ chúa trịnh

Thể loại

Kí sự

Tùy bút

Nội dung

Nhân việc được triệu kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, ghi lại quang cảnh và cuộc sống cực kì xa hoa của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.

Kể lại những thú vui ham chơi của Trịnh Sâm: Đi chơi ngắm cảnh đẹp, ngự ở các li cung, xây dựng núi nói, chậu hoa cảnh, vơ vét, chiếm đoạt của cải tiền bạc của nhân dân với những tệ nạn nhũng nhiễu của bọn hoạn quan một cách thô bạo và trắng trợn.

Thái độ của tác giả

Không đồng tình với cuộc sống xa hoa, tỏ ý phê phán cuộc sống nơi phủ chúa và những con người ở đấy. Đặc biệt là chúa Trịnh Sâm, thế tử Trịnh Cán và quan lại quyền quý.

Không đồng tình với cuộc sống xa hoa, tỏ ý phê phán cuộc sống nơi phủ chúa và những con người ở đấy. Đặc biệt là chúa Trịnh Sâm, thế tử Trịnh Cán và quan lại quyền quý.

Đặc sắc nghệ thuật

Quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, chọn được những chi tiết sắc sảo, có ý nghĩa sâu sắc, cám xúc, suy nghĩ bộc lộ một cách độc đáo, gián tiếp.

Sự việc, cảnh vật, chi tiết con người được miêu tả tỉ mỉ, sinh động, sắc sảo, nhà văn hóa vừa kể vừa bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ nhiều hơn, thậm chí có thể nói trực tiếp những suy nghĩ của mình về “triệt bất thường” của một chế độ đang đi đến chỗ suy tàn.

Soạn bài Vào phủ chúa Trịnh - Ngữ văn 11. Câu 1. Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao?

Câu 1

Câu 1 [ trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao? Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào?

Lời giải chi tiết:

a. Quang cảnh trong phủ chúa:

- Âm thầm quan sát, người thầy thuốc phát hiện ra rằng: Vào phủ chúa phải qua rất nhiều lần cửa, với "những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp". Ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, "ai muốn ra vào phải có thẻ", trong khuôn viên phủ chúa có điếm "Hậu mã quân túc trực" để chúa sai phái đi truyền bá mệnh lệnh ra bên ngoài. Vườn hoa trong phủ chúa "cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương".

- Bên trong phủ bày biện toàn những đồ sang trọng như: kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng rồi những đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là "mâm vàng, chén bạc". Trong nội cung thế tử cũng vậy: Phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn che ngang sân, "xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt".

   Có thể nói, chính những gì đang hiển hiện ra trước mắt người đọc đã tự nói lên tất cả cái quyền uy tối thượng đang nằm trong tay nhà chúa cũng như nếp hướng thụ cực kỳ xa xỉ của Trịnh Sâm và gia đình chúa.

b. Cung cách sinh hoạt đầy kiểu cách:

- Đầu tiên, khi tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh của chúa thì có "tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường". "Cáng chạy như ngựa lồng" khiến người trong cáng "bị xốc một mẻ, khổ không nói hết". Trong phủ chúa, "người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi".

- Trong cuộc tiếp kiến vị Đông cung thế tử, tất cả những lời lẽ nhắc đến chúa và thái tử đều phải hết sức cung kính, lễ độ ["Thánh thượng đang ngự ở đấy", "chưa thể yết kiến", "hầu mạch Đông cung thế tử", "hầu trà" [cho thế tử uống thuốc], "phòng trà" [nơi thế tử uống thuốc],...].

- Trong cuộc tiếp kiến ấy, tác giả cũng không được thấy mặt chúa. Tất cả những mệnh lệnh của chúa đểu được phán bảo qua quan Chánh đường hoặc người truyền mệnh. Thầy thuốc xem bệnh xong cũng không được phép trao đổi với chúa mà phải viết tờ khải để quan Chánh đường dâng lên chúa. Nội cung trang nghiêm đến nỗi vị thầy thuốc cũng phải "nín thở" khi đứng chờ ở xa và "khúm núm" khi đến trước sập để xem mạch cho thế tử.

- Thế tử ốm và lúc nào cũng có đến bảy, tám thầy thuốc phục dịch. Lúc nào cũng có "mấy người đứng hầu hai bên". Thế tử tuy mới chỉ được năm, sáu tuổi nhưng khi vào xem mạch lẫn khi ra, người thầy thuốc đểu phải cúi lạy cung kính, lễ phép. Trước khi cho thầy thuốc xem thân hình, một viên quan nội thần phải đến xin phép được cởi áo cho thế tử.

c. Cách nhìn của tác giả:

– Tác giả không bộc lộ trực tiếp thái độ nhưng qua việc chọn chi tiết để kể và tả, đôi lúc xen vào lời nhận xét khách quan, phần nào thấy được thái độ của ông:

+ Ông nhận xét cảnh xa hoa, lộng lẫy tấp nập ở phủ chúa "khác hẳn người thường" đến mức không tưởng tượng nổi, "khác nào ngư phủ đào nguyên thưa nào".

+ Được mời ăn cơm: tác giả nhận xét "toàn của ngon vật lạ"

=> Tác giả nhận xét nơi phủ chúa cái gì cũng đẹp, cái gì cũng sang nhưng thái độ của tác giả lại tỏ rõ sự dửng dưng, không đồng tính với cuộc sống quá tiện nghi, quá sang trọng, khác thường như vậy. Đó là cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc xa xỉ nhưng lại chẳng có tự do sinh khí.

Câu 2

Câu 2 [trang 9 SGK Ngữ văn 11 tâp 1]

Phân tích những chi tiết trong đoạn trích mà anh [chị] cho là "đắt", có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

- Đoạn trích có nhiều chi tiết nghệ thuật rất "đắt", thể hiện nổi bật nội dung hiện thực của tác phẩm. Sự tinh tế và sắc sảo của tác giả đọng lại trong đoạn trích là ở những chi tiết tuy nhỏ nhưng rất gây ấn tượng. Ví như chi tiết đối lập: thế tử - mội đứa bé - ngồi chễm chệ trên sập vàng cho thầy thuốc - một cụ già - quỳ lạy. Để rồi "ngài" cười và ban một lời khen "rất trẻ con": "Ông này lạy khéo!". Hoặc ở một chi tiết khác khi tác giả đi vào nơi ở của thế tử để xem mạch: "Đột nhiên thấy ông ta [quan Chánh đường] mở một chỗ trong màn gấm rồi bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy...".

- Truyện còn có nhiều chi tiết khác cũng sắc sảo như vậy: Chi tiết miêu tả nơi "Thánh thượng đang ngự" ["có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt"], rồi chi tiết miêu tả những dụng cụ dùng để ăn uống, những món ăn khi quan Chánh đường mời thầy thuốc dùng bữa sáng,..

=> Lời văn của tác giả rất tự nhiên, không hề có chút cường điệu nào. Cũng chính vì thế mà việc hưởng lạc xa hoa của nhà chúa tự nó phơi bày ra trước mắt người đọc.

Câu 3

Câu 3 [trang 9 SGK ngữ văn 11 tâp 1]

Cách chẩn đoán và chữ bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?

Lời giải chi tiết:

 Dõi theo từng bước đi của người thầy thuốc, người đọc có thể nhận thấy thái độ, tâm trạng và những suy nghĩ khá sâu sắc của nhà văn:

- Đứng trước cảnh xa hoa lộng lẫy, tấp nập người hầu kẻ hạ nơi phủ chúa, tác giả nhận xét: "Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa khác hẳn người thường". Trước cảnh ấy, tác giả đã vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng, vương giả nơi phủ chúa. Trong bài thơ ấy, tác giả đã phải thốt lên: "Cả trời Nam sang nhất là đây!".

+ Khi được mời ăn cơm sáng, tác giả đã khéo léo bày tỏ nhận xét: "mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia".

+ Nói về bệnh trạng của thế tử, tác giả nhận xét: "Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi".

   Tác giả tỏ ra dửng dưng trước những quyến rũ vật chất, đồng thời có những biểu hiện chứng tỏ thái độ không đồng tình với cuộc sống tuy quá no đủ và tiện nghi nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự do.

- Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác khi chữa bệnh cho thế tử còn diễn biến phức tạp hơn. Thăm bệnh xong, người thầy thuốc đã hiểu được rõ nguyên nhân căn bệnh của thái tử. Ông đưa ra những luận giải rất hợp lý, có cách chữa trị riêng. Nhưng trong lúc ấy, ông lại lo nếu chữa bệnh hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, lúc đó lại bị trói buộc bởi vòng danh lợi. Thoáng nghĩ đến việc kê một đom thuốc vô thướng, vô phạt nhưng rồi ông lại quên ý nghĩ đó ngay. Việc làm ấy trái với y đức, trái với lương tâm ông và thậm chí phụ lòng trung của tổ tiên. Hai suy nghĩ đó giằng co, xung đột với nhau. Cuối cùng ông đã chọn theo lương tâm, phẩm chất của người thầy thuốc. Ông thẳng thắn đưa ra bài thuốc của mình - một bài thuốc trái với ý của nhiều người khiến quan Chánh đường thậm chí có ý đắn đo.

   Từ những chi tiết về việc chữa bệnh của thầy thuốc Lê Hữu Trác, có thể thấy:

+ Tác giả là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm, có kiến thức sâu và rộng.

+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một người thầy giàu y đức.

+ Trên cả những điều đó là một thái độ coi thường danh lợi, yêu thích nếp sống tự do, thanh đạm ở quê nhà. Quan điểm này tất nhiên cũng gián tiếp cho thấy, tác giả không đồng tình với lối sống xa hoa của những người nắm giữ trọng trách quốc gia.

Câu 4

Câu 4 [trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Theo anh [chị], bút pháp ký sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những nét đặc sắc đó.

Lời giải chi tiết:

 Từ những điều đã phân tích trên đây, có thể thấy đặc sắc trong nghệ thuật viết ký sự của nhà văn được bộc lộ ở những điểm sau:

- Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo; bút pháp tả cảnh sinh động.

- Nội dung ghi chép trung thực.

- Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn, hấp dẫn, đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và việc.

- Giọng điệu châm biếm, phê phán một cách nhẹ nhàng, kín đáo.

- Kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm tạo sức hút, tăng giá trị hiện thực, gây ấn tượng sâu sắc về cảnh và người nơi phủ chúa.

Luyện tập

Câu hỏi [trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm [hoặc đoạn trích] ký khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh [chị] đã đọc và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này.

Lời giải chi tiết:

- Điểm chung của đa số các tuỳ bút là giá trị hiện thực và thái độ của nhà văn trước hiện thực ấy.

- Tuy nhiên mỗi tuỳ bút lại có sự khác nhau trong cách bộc lộ thái độ của nhà văn trước hiện thực [trực tiếp hay gián tiếp, rõ ràng hay kín đáo,...]; khác nhau trong việc lựa chọn các chi tiết nghệ thuật, cũng như cách thể hiện nghệ thuật.

- Có thể tự làm rõ những điều này khi so sánh Thượng kinh kí sự với Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ [một tác phẩm cùng thời] hoặc với Nhật ký ĐặngThuỳ Trâm [một tác phẩm kí thời hiện đại]

 TƯ LIỆU THAM KHẢO

“… Khoảng năm Giáp Ngọ [1774], Ất Mùi [1775] trong nước vô sự, Trịnh Sâm lưu ý về việc chơi đèn đuốc, thường ngự chơi các ly cung ở trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy; việc xây dựng đình đài khởi làm luôn mãi. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ngự chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu quanh bốn mặt bờ hồ, các kẻ nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, dàn bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán.

   Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các hóa vật như các cửa hàng buôn trong chợ. Cũng có lúc bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay ngồi ở bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc âm.

   Thời ấy, phàm bao nhiêu những loài trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian đều cho thu lấy, không thiếu một thứ gì. Từng thấy lấy một cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại phải bốn người đi kèm đều cầm gươm, cầm thanh la để đốc thúc quân lính khiêng cho có điều độ. Trong phủ chúa tùy chỗ mà điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết là cái triệu bất tường! Kẻ hoạn quan cung giáp lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dậm dọa. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào lồng chim hay chậu cây. Đêm đến, các cậu trèo qua cung tường lẻn ra, sai bọn tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho [chủ nhà] cái tội đem dìm giấu các vật cung phụng để dọa dẫm lấy tiền. Nếu hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra. Các nhà giàu có bị vu cho là đem giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ hoặc đốt bỏ cây cảnh để tránh khỏi phải tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng, trước nhà trung đường có trồng hai cây lựu trắng và lựu đỏ kết quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta đều sai chặt đi cả, cũng là vì cớ ấy.”

[Phạm Đình Hổ – Việc cũ trong phủ chúa Trịnh]

Video liên quan

Chủ Đề