Phương pháp dạy học của giáo viên tiểu học

Với những quan điểm giáo dục hiện đại, người thầy, người giáo viên cũng có những vai trò mới và cần phải đáp ứng được nhiều tiêu chí khác nhau ngoài tiêu chí chuyên môn. Trong bài viết này Cẩm nang dạy học sẽ chia sẻ với thầy cô những kỹ năng quan trọng nhất đối với giáo viên tiểu học. Nếu thiếu những kỹ năng này, giáo viên tiểu học khó có thể đứng trên bục giảng, ngay cả khi có tấm bằng giỏi trên tay.

Nhiều người cho rằng, làm giáo viên là một công việc nhẹ nhàng. Tuy nhiên, mỗi ngành nghề đều có những yêu cầu, quy định chuẩn mực riêng mà không phải ai cũng có thể làm được. Giáo viên cũng vậy, những kỹ năng sau là những điều mà bất cứ giáo viên tiểu học nào cũng không nên bỏ qua khi muốn trở thành một người cô, người thầy dạy giỏi.

1. KỸ NĂNG QUAN SÁT, NHẬN XÉT

Kết quả học tập của các học sinh tiểu học bây giờ đều do giáo viên đánh giá nên kĩ năng quan sát, nhận xét không thể thiếu với các giáo viên. Các thầy cô phải thường xuyên quan sát các em để có thể đưa ra đánh giá đúng, khách quan và công bằng nhất. Có như vậy, phụ huynh mới nắm bắt được tình hình học tập của con em mình.

Ngoài ra nhờ kỹ năng quan sát tốt, các giáo viên có thể phán đoán được học sinh của mình có năng khiếu nổi bật nào không, qua đó thông báo cho gia đình chọn môn năng khiếu phù hợp cho các em.

2. KỸ NĂNG GIAO TIẾP

Đây là kĩ năng cần có của bất kì thầy cô nào. Thầy cô không chỉ giao tiếp với học sinh trên phương diện nội dung bài học mà còn phải ứng xử với các tình huống khác phát sinh trong và ngoài nhà trường, trao đổi với phụ huynh học sinh,… Với mỗi đối tượng giao tiếp thì giáo viên phải lựa chọn một phong cách giao tiếp phù hợp để vừa duy trì được mối quan hệ tốt vừa giữ đúng tác phong sư phạm của mình.

Chuẩn tác phong sư phạm, phong thái trong cách cư xử, giao tiếp là điều tất cả giáo viên cần có

3. CHUẨN TÁC PHONG SƯ PHẠM

Trong nhận thức của mỗi học sinh tiểu học, giáo viên chính là hình mẫu để các học sinh noi theo. Vì vậy, giáo viên tiểu học cần để ý đến các chuẩn mực về cư xử, hành vi ở cả trong và ngoài trường học. Tác phong nền tảng cần có là sự nhã nhặn, từ tốn, khả năng xử lí tình huống một cách linh hoạt.

4. CHUẨN CHỮ VIẾT VÀ KIẾN THỨC

Kiến thức bậc tiểu học là kiến thức cơ bản, nền tảng nhất nên phải đảm bảo độ chuẩn cao. Ngoài ra, bậc tiểu học là bậc rèn cho các học sinh về nét chữ nên giáo viên tiểu học cần đạt trình độ cao về nét chữ, đảm bảo đúng chuẩn, sạch đẹp, dễ nhìn.

Đối với giáo viên, việc sử dụng ngôn ngữ chuẩn mực không chỉ giúp việc truyền tải kiến thức tốt hơn mà còn có ảnh hưởng tới tâm lý của học sinh. Vì vậy, trong quá trình rèn luyện nghiệp vụ Sư phạm thì đây là kỹ năng không thể thiếu:

  • Giáo viên khi lên lớp cần phải nói và giảng bài một cách rõ ràng, khúc chiết, có ngữ điệu, âm lượng vừa phải, có thể thu hút sự chú ý của học sinh
  • Khắc phục các tật lặp đi lặp lại các câu như: “làm cho cô”, “cho cô biết”, “hỏi cả lớp…”
  • Giáo viên cần tự mình rèn luyện các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết cho thật chuẩn

5. TỰ HỌC, ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO

Trong nền giáo dục đang ngày một thay đổi như hiện nay, giáo viên tiểu học cũng cần nhanh nhạy cập nhật và linh hoạt với những thay đổi mới. Bên cạnh đó cũng phải không ngừng học hỏi những phương pháp mới, cách dạy mới tiến bộ để kịp cập nhật cho học sinh của mình.

Giáo viên phải trang bị cho mình phương pháp dạy học và thói quen làm việc khoa học ở mỗi môn học, mỗi bài học để đạt được hiệu quả cao trong giảng dạy. Cần xác định được mục tiêu của bài. Đặc biệt cần dành tâm sức trí tuệ và thời gian cho việc dạy học. Việc thiết kế bài dạy  phải căn cứ vào mục tiêu dạy học, đặc điểm của học sinh, tính chất của môn học, điều kiện vật chất có thể sử dụng được trong quá trình dạy học. Trước khi lên lớp người giáo viên cần phải xác định được:

  • Dạy cái gì ? [Xác định nội dung dạy học].
  • Sau khi học song học sinh cần biết hoặc biết làm cái gì? [Xác định mục tiêu].
  • Kiến thức thực sự của học sinh hiện nay như thế nào?
  • Học sinh thực sự đã biết gì? [Đánh giá những điều học sinh đã biết trước khi học và sau khi học].
  • Dạy bài học đó như thế nào? [Lựa chọn phương pháp và kỹ năng dạy học].
  • Giáo viên cần hiểu biết về những đặc điểm của học sinh, lứa tuổi, thói quen trình độ học sinh, trẻ bị tật, trẻ có gia đình khó khăn…
  • Cần chú ý đến cách mở đầu bài học sao cho hứng thú trong học tập với học sinh và cách kết thúc bài học để gây ấn tượng cho học sinh. Nhất là đảm bảo tính đa dạng và hài hoà của các phương pháp dạy học được áp dụng, điều này đặc biệt quan trọng với học sinh Tiểu học.

6. LẮNG NGHE, KIÊN NHẪN VỚI HỌC SINH

Ở bậc tiểu học, các em vẫn chưa thể đi vào nề nếp, kỉ luật như ở bậc lớn hơn. Hơn thế, các em cũng vẫn chỉ là những đứa trẻ nên rất cần đến sự quan tâm của các thầy cô khi ở trường. Những vấn đề xoay quanh các em không chỉ trong các giờ học mà còn có trong giờ ra chơi, các mối quan hệ bạn bè,… đều cần các thầy cô có thể hiểu và kịp giải đáp những thắc mắc khi cần.

Ở tiểu học, không phải các em đều ngoan ngoãn, nghe lời nên giáo viên cần phải kiên nhẫn, từ từ uốn nắn các em

7. KHẢ NĂNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHÓM

Đây cũng là một kỹ năng cần có với các giáo viên tiểu học để gắn kết các học sinh lại với nhau hơn. Các hoạt động nhóm trong giờ học, giờ ngoại khóa sẽ rèn cho các em biết hợp tác và làm việc theo nhóm, có tinh thần đồng đội. Tổ chức các nhóm trong giờ học cũng sẽ khiến các em thích thú với bài học hơn, tiếp thu bài tốt hơn.

8. KĨ NĂNG XỬ LÍ TÌNH HUỐNG PHÁT SINH TRONG LỚP HỌC

Các bé tiểu học còn rất hiếu động nên cũng rất dễ xảy ra xô xát, cãi nhau, đánh nhau trong giờ ra chơi. Bé không chịu làm bài tập, không chịu nghe giảng, cãi lại thầy cô,… là những vấn đề rất thường xuất hiện. Vì vậy, các thầy cô cần  chuẩn bị sẵn tâm lí, kỹ năng để có thể ứng phó với những tình huống như vậy.

9. KỸ NĂNG TIN HỌC

Công nghệ thông tin ngày nay rất phát triển và phổ biến. Các giáo viên cần biết tận dụng công cụ này để bổ sung kiến thức cho mình bằng các nguồn tài liệu phong phú. Bên cạnh đó, việc sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy cũng sẽ làm nội dung bài học phong phú, hấp dẫn hơn.

10. KỸ NĂNG SƠ CỨU CƠ BẢN, THOÁT HIỂM

Không ai có thể ngờ được những tình huống xấu có thể xảy ra nên việc đề phòng rất cần thiết. Khi xảy ra các mối nguy hiểm, thầy cô phải là những người giữ được bình tĩnh và nghĩ ra biện pháp để đảm bảo an toàn cho các em. Đồng thời, cũng cần biết những biện pháp sơ cứu cơ bản để có thể sử dụng trong trường hợp cần thiết.

Trên đây là những chia sẻ dựa trên kinh nghiệm của các chuyên gia giáo dục tiểu học, hy vọng nó sẽ là nguồn tham khảo hữu ích dành cho tất cả thầy cô.

Billy Nguyễn

VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết một số phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học để bạn đọc cùng tham khảo. Một số phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học thuộc module 15 trong bộ tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cấp tiểu học. Module chỉ rõ phương pháp dạy học tích cực là gì. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết và tải về một số phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học tại đây.

Một số phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học

  • 1. Phương pháp dạy học tích cực là gì?
    • a. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học
    • b. Thế nào là tính tích cực học tập?
    • c. Phương pháp dạy học tích cực
    • d. Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm trung tâm
  • 2. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực
    • a. Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh
    • b. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
    • c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
    • d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
  • 3. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường Tiểu học
    • a. Phương pháp vấn đáp
    • b. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề
    • c. Phương pháp hoạt động nhóm
    • d. Phương pháp đóng vai
    • e. Phương pháp động não

Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cấp Tiểu học mới nhất

1. Phương pháp dạy học tích cực là gì?

a. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học

Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.

b. Thế nào là tính tích cực học tập?

Tính tích cực học tập - về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Tính tích học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn...

c. Phương pháp dạy học tích cực

Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. "Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.

Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công.

d. Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm trung tâm

Dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn có một số thuật ngữ tương đương như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học hướng vào người học... Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học sinh trong quá trình dạy học.

Thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.

Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả quá trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá... chứ không phải chỉ liên quan đến phương pháp dạy và học.

2. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực

a. Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh

Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.

b. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học

Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.

Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.

c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác

Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.

Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ.

d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò

Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.

Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.

Việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.

Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

3. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường Tiểu học

a. Phương pháp vấn đáp

* Vấn đáp: Là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:

* Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.

* Vấn đáp giải thích - minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe - nhìn.

* Vấn đáp tìm tòi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định.

b. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề

Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. Cấu trúc một bài học [hoặc một phần bài học] theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề thường như sau:

* Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức

- Tạo tình huống có vấn đề;

- Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;

- Phát hiện vấn đề cần giải quyết

* Giải quyết vấn đề đặt ra

- Đề xuất cách giải quyết;

- Lập kế hoạch giải quyết;

- Thực hiện kế hoạch giải quyết.

* Kết luận: - Thảo luận kết quả và đánh giá;

- Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;

- Phát biểu kết luận;

- Đề xuất vấn đề mới.

* Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề:

Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh.

Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.

Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.

Mức 4: Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.

c. Phương pháp hoạt động nhóm

Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.

Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.

* Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành:

· Làm việc chung cả lớp: - Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức

- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ

- Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm.

· Làm việc theo nhóm: - Phân công trong nhóm.

- Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm

- Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả làm việc theo nhóm

· Tổng kết trước lớp:

- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.

- Thảo luận chung.

- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài.

Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia.

d. Phương pháp đóng vai

Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.

Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:

- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.

- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.

- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.

- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực.

- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.

* Cách tiến hành có thể như sau:

- Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai.

- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.

- Các nhóm lên đóng vai.

- Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai.

- Vì sao em lại ứng xử như vậy?

- Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử?

- Lớp thảo luận, nhận xét: Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?

- Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.

Những điều cần lưu ý khi sử dụng:

- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai

- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai

- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia.

e. Phương pháp động não

Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.

Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận.

* Cách tiến hành

- Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.

- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.

- Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to.

- Phân loại ý kiến.

- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.

Video liên quan

Chủ Đề