30
bị tâm thế lao động cho người học, đào tạo được cấu thành bởi các thành tố
cấu trúc gồm mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp, phương tiện và
hình thức tổ chức các hoạt động đào tạo.
Quá trình chuyển giao năng lực nghề nghiệp được thực hiện trong
hoạt động cùng nhau của thầy và trò, trong một môi trường dạy học xác định.
Xét từ góc độ này, quá trình đào tạo gồm các thành tố chính sau:
Mục tiêu và nội dung, chương trình đào tạo [đối tượng, thời gian, mục
tiêu, nội dung, phương pháp, đánh giá kết quả học tập...].
Hoạt động giảng dạy của giảng viên.
Hoạt động học của học sinh/sinh viên.
Hoạt động giám sát, đánh giá kết quả học tập.
Môi trường đào tạo [môi trường vật chất, tinh thần và môi trường văn
hóa].
Từ những phân tích nêu trên có thể cho rằng:
Đào tạo là một quá trình tác động có hướng đích, có kế hoạch của
chủ thể vào đối tượng đào tạo về một lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ,
trong một thời gian nhất định nhằm đạt được kết quả theo mục tiêu ban
đầu đã đề ra.
1.1.1.2. Khái niệm quản lý đào tạo
Quản lý đào tạo ở trường đại học là tác động của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý trong quá trình đào tạo với mục tiêu làm thay đổi trạng thái của nó
theo hướng đã xác định.
Quản lý đào tạo ở trường đại học là vận dụng các các chức năng quản lý,
các quy luật, các nguyên tắc đào tạo và quản lý đào tạo để tổ chức và huy động,
sử dụng tối ưu các nguồn lực [nhân lực, vật lực và tài lực], tác động vào các
thành tố của quá trình đào tạo nhằm thực hiện được mục tiêu đào tạo đã xác
định.
Thực chất quản lý đào tạo ở trường đại học là xây dựng và thực hiện các
quy trình, các chuẩn mực, quy định, điều lệ, quy tắc.... để đảm bảo cho quá trình
đào tạo diễn ra một cách có điều khiển, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện
mục tiêu đào tạo đã xác định.
31
Hình thức quản lý đào tạo ở trường đại học được biểu hiện ra bên ngoài
nội dung quản lý. Mỗi nội dung quản lý đều thể hiện ra những hình thức nhất
định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của chủ thể quản lý nhất
định. Thông thường các các hình thức quản lý: Ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về đào tạo; tác nghiệp xử lý điều hành các công việc hàng ngày để
thực hiện các kế hoạch đào tạo hàng quý, hàng tháng, hàng tuần; tổ chức hội
nghị, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch đào tạo; sử dụng các
phương tiện kỹ thuật để quản lý đào tạo ở trường đại học.
Nguyên tắc quản lý đào tạo ở trường đại học bao gồm các nguyên tắc
chung và nguyên tắc riêng nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý đào
tạo theo quy chế.
Đặc điểm quản lý đào tạo, mang tính chất quản lý hành chính - sư phạm;
tính hành chính, quản lý theo pháp luật, nội quy, quy chế; tính sư phạm, quản lý
phải phù hợp với quy luật của quá trình dạy học diễn ra trong môi trường sư
phạm lấy hoạt động giáo dục - đào tạo làm đối tượng quản lý, quản lý đào tạo
mang tính chất đặc trưng của khoa học quản lý, thực hiện theo các chức năng
quản lý, lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra; quản lý đào tạo có tính chất
xã hội hóa cao, chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế - xã hội; huy động
nhiều lực lượng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục - đào tạo; quản lý đào tạo
phải xuất phát từ đặc điểm của lao động xã hội vì đối tượng của lao động sư
phạm là người học; công cụ lao động sư phạm là loại công cụ đặc thù phụ thuộc
vào trình độ chuyên môn, trình độ nghiệp vụ sư phạm của giảng viên, phẩm chất
chính trị, đạo đức của nhà giáo, phương tiện công cụ dạy học.
Nhiệm vụ quản lý đào tạo ở trường đại học, là tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi cho đội ngũ giảng viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học; tạo
động lực và kích thích tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ cán bộ, giảng
viên tham gia quá trình đào tạo; kết hợp việc phát huy cao độ tính sáng tạo của
mỗi cán bộ, giảng viên với sự quản lý thống nhất của đội ngũ cán bộ quản lý nhà
trường; xây dựng cơ chế chính sách phù hợp để phát huy tối đa nội lực, đi đôi
với sự tranh thủ tiềm lực của các lực lượng ngoài nhà trường; đảm bảo chất
lượng bền vững.
32
Nội dung quản lý đào tạo, xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, kế
hoạch đào tạo của nhà trường bao gồm kế hoạch khóa học, năm học, sơ đồ mạng
lưới giữa các môn học. Những kế hoạch riêng về từng loại hình, phương pháp
đào tạo như kế hoạch kiểm tra, đánh giá, kế hoạch thi tốt nghiệp, kế hoạch thực
hành, thực tập, kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất cho đào tạo.
Xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định giáo dục đào tạo, bao gồm
quy chế GD - ĐT, quy định nắm tình hình, báo cáo, kiểm tra, sơ kết, tổng kết,
phối hợp hiệp đồng công tác, quy định các mối quan hệ trong giáo dục đào tạo.
Quản lý mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, bao gồm việc biên soạn
tài liệu, sách giáo khoa; nội dung các bài giảng; xác định rõ trách nhiệm của Ban
Giám hiệu, các khoa, bộ môn, hội đồng khoa học trong xây dựng và thực hiện
nội dung chương trình đào tạo.
Quản lý đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, bao gồm việc sắp xếp, tổ
chức, quản lý lực lượng này một cách khoa học, hợp lý nhằm phát huy tính chủ
động, sáng tạo của họ vào thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhằm thực hiện tốt
nhất mục tiêu đào tạo.
Quản lý sinh viên, bao gồm những nội dung quản lý từ khâu tuyển sinh,
chiêu sinh nhập học, quản lý quá trình học tập và rèn luyện theo quy chế cho đến
khi người học hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp ra trường.
Quản lý cơ sở vật chất của nhà trường, bao gồm các nội dung về đầu tư,
bảo quản giữ gìn cơ sở vật chất; động viên thu hút và sử dụng các nguồn lực tài
chính phục vụ cho hoạt động giáo dục, đào tạo.
Phương pháp quản lý đào tạo ở trường đại học bao gồm các phương
pháp chủ yếu của khoa học QLGD: Phương pháp kế hoạch hóa; phương
pháp thống kê; phương pháp tâm lý xã hội học kết hợp chặt chẽ giữa phương
pháp của khoa học QLGD với các phương pháp tổ chức, kinh tế, hành chính,
giáo dục tư tưởng, đạo đức...
Từ quan điểm và phương pháp tiếp cận nêu trên, tác giả luận án cho rằng:
Quản lý đào tạo đại học là tổng hợp các tác động của chủ thể quản lý đến
các đối tượng đào tạo [khách thể] trong quá trình đào tạo đại học để tổ chức,
33
điều khiển, điều hành một cách khoa học, hợp lý quá trình đào tạo nhằm thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp đào tạo đã xác định.
1.1.2. Khái niệm chất lượng và chất lượng đào tạo
1.1.2.1. Khái niệm chất lượng
Tiếp cận chất lượng dưới góc độ giá trị, Từ điển tiếng Việt thông dụng định
nghĩa chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của sự vật hoặc là cái tạo nên
bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia[61, tr.154]. Theo đó, khi nghiên
cứu chất lượng của một sự vật, hiện tượng, con người nào đó cần phải xem xét tất cả
các yếu tố, các thuộc tính của chính sự vật hiện tượng đó. Đồng thời, chất lượng chỉ
được thể hiện ra trong hoạt động, các mối liên hệ thông qua hoạt động, các mối liên
hệ mà sự vật, hiện tượng, con người thể hiện các giá trị của mình trong đời sống.
Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng trong đời sống xã hội nhất là trong
giáo dục, mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng chất lượng từ lâu vẫn là một
khái niệm khó xác định, khó đo lường, đánh giá và cách hiểu của người này
khác với người kia, nhiều quan niệm về chất lượng được biểu hiện như sau; chất
lượng là sự vượt trội; chất lượng là tính ổn định không có khiếm khuyết và tinh
thần làm đúng ngay từ đầu; chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu [tức sản
phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng đúng những mục đích đã đề ra; chất lượng là sự xuất
sắc bẩm sinh, tự nó là cái tốt nhất; chất lượng là sự đáp ứng nhu cầu của khách
hàng [người lao động được đào tạo].
Khái niệm về chất lượng tỏ ra có ý nghĩa đối với việc xác định chất lượng
giáo dục và cả với việc đánh giá nó, đó là chất lượng là sự trùng khớp với mục
tiêu [Quality as feetness for purpose] do tổ chức Đảm bảo chất lượng giáo dục
đại học quốc tế đề xướng [INQAAHE-International Network of Quality
Assurance of Higher Education], mục tiêu ở đây được hiểu một cách toàn diện
bao gồm từ triết lý của giáo dục, tới định hướng [aim], mục đích [goal] của cả hệ
thống giáo dục và sứ mệnh, các nhiệm vụ chiến lược của cơ sở đào tạo [các nhà
trường]. Nếu xét trên quan điểm hệ thống, tức là xem xét chất lượng của cả hệ
thống giáo dục thì trước hết phải xác định cấu trúc của toàn hệ thống đó, các nhà
khoa học giáo dục đã xác định hệ thống giáo dục bao gồm các yếu tố. Đầu vào
[Input] đầu vào của hệ thống giáo dục bao gồm nguồn nhân lực [giáo viên, học
34
sinh, nhà quản lý...], vật lực [cơ sở vật chất, kỹ thuật, học liệu...], tài lực [tài
chính cho giáo dục, các nguồn thu...]. Quá trình [Process] giáo dục bao gồm các
hoạt động dạy, hoạt động học diễn ra trong nhà trường, trong cả hệ thống giáo
dục, bao gồm cả hoạt động quản lý nhà trường. Kết quả đầu ra [Outcome] bao
gồm con người được giáo dục với những phẩm chất, năng lực mà học nhận được
trong những năm học tập. Bối cảnh xã hội nơi diễn ra các hoạt động giáo dục và
tiếp nhận sản phẩm giáo dục bao gồm điều kiện kinh tế xã hội, chính sách của
nhà nước, nhu cầu của thị trường lao động, xu thế toàn cầu hóa của nền kinh tế.
1.1.2.2. Chất lượng đào tạo
Trong bất kỳ thời đại nào hay quốc gia nào, chất lượng đào tạo luôn là
vấn đề được quan tâm hàng đầu của toàn xã hội. Đất nước thịnh hay suy, yếu
hay mạnh phụ thuộc phần lớn vào chất lượng đào tạo, đối với các trường đại học
cũng như các cơ sở đào tạo hiện nay, phấn đấu nâng cao chất lượng luôn xem là
nhiệm vụ quan trọng nhất là một trong những nền tảng quan trọng đối với sự
phát triển của các quốc gia trên thế giới. Bởi vì, CLĐT là nhân tố quyết định
chất lượng nguồn nhân lực để phát triển toàn diện mọi mặt của mỗi nước từ văn
hóa, xã hội, kinh tế, an ninh, quốc phòng.
Ở Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, Chất lượng giáo dục
trường đại học là sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu
về mục tiêu GDĐH của Luật Giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương và của cả nước [66].
CLĐT được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đã đề ra đối
với một chương trình đào tạo [Lê Đức Ngọc, Lâm Quang Thiệp - Đại học Quốc
gia Hà Nội].
CLĐT là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về
phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực thực hành nghề
của người tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ
thể [Trần Khánh Đức - Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục].
CLĐT với đặc trưng sản phẩm là con người lao động có thể hiểu là kết
quả đầu ra của quá trình đào tạo và được thể hiện cụ thể ở các phẩm chất, giá trị
35
nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp
tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng ngành đào tạo trong hệ thống đào tạo
với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, quan niệm về
CLĐT không chỉ dừng ở kết quả của quá trình đào tạo trong nhà trường với
những điều kiện đảm bảo nhất định như đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất...Tuy
nhiên, cần nhấn mạnh rằng CLĐT trước hết phải là kết quả của quá trình đào tạo
và được thể hiện trong hoạt động nghề nghiệp của người tốt nghiệp, quá trình
thích ứng với thị trường lao động không chỉ phụ thuộc vào CLĐT mà còn phụ
thuộc các yếu tố khác của thị trường như quan hệ cung - cầu, giá trị sức lao
động, chính sách sử dụng và bố trí công việc của nhà nước, các tổ chức xã hội,
người sử dụng lao động.
CLĐT ở trường đại học là tổng hòa giá trị các yếu tố, được hình thành và
không ngừng hoàn thiện trong suốt quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc
trưng về phẩm chất, năng lực, kiến thức, kỹ năng, thái độ của đối tượng đào tạo
tương ứng với mục tiêu yêu cầu đào tạo đại học đã xác định.
CLĐT ở trường đại học là sự tích hợp, tổng hòa của các yếu tố, được hình
thành và phát triển trong suốt quá trình đào tạo. Quá trình đào tạo ở trường đại
học là một chỉnh thể bao gồm nhiều yếu tố hợp thành, chúng luôn ở trạng thái
vận động, phát triển không ngừng. Sự vận động và phát triển đồng bộ của các
yếu tố tạo nên CLĐT ở trường đại học, có nghĩa là CLĐT ở trường đại học
được biểu hiện thông qua chất lượng của các yếu tố hợp thành quá trình đào tạo.
Những yếu tố của quá trình đào tạo bao gồm: Mục tiêu đào tạo, nội dung
và chương trình đào tạo; hình thức và phương pháp đào tạo; tổ chức, quản lý quá
trình đào tạo; đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên; công tác nghiên cứu khoa
học; cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo cho quá trình đào tạo. Những yếu tố này có
mỗi quan hệ hữu cơ với nhau. Một trong những yếu tố nào đó hoạt động kém
chất lượng sẽ lập tức ảnh hưởng đến CLĐT ở trường đại học. Chẳng hạn mục
tiêu đào tạo xác định không rõ ràng, chính xác thì không thể định hướng toàn bộ
hoạt động giáo dục, đào tạo, dạy học, quản lý, lãnh đạo. Ngược lại mục tiêu,
36
nhiệm vụ, nội dung, dạy học, phương pháp, các điều kiện vật chất, kỹ thuật phục
vụ cho đào tạo được bảo đảm, nhưng trình độ đội ngũ giảng viên không đáp
ứng, chất lượng tuyển sinh thấp, quản lý sinh viên lỏng lẻo thì cũng làm hạn chế
chất lượng lượng đào tạo. Theo quan điểm đó nghiên cứu CLĐT ở trường đại
học không thể căn cứ vào một hoạt động, khâu công việc nào đó mà phải nghiên
cứu đến tất cả các yếu tố của quá trình đào tạo, tức là việc nghiên cứu CLĐT ở
trường đại học phải bảo đảm tính toàn diện, hệ thống, tính chỉnh thể của hệ
thống bộ máy, tổ chức đào tạo.
Nghiên cứu CLĐT ở trường đại học phải lấy việc phục vụ mục tiêu đào
tạo làm mục đích tối thượng. Quả vậy, tất cả các hoạt động của bộ máy giáo dục
đào tạo từ Ban Giám hiệu, các đơn vị chức năng, đội ngũ cán bộ, giảng viên, cán
bộ quản lý, nội dung, chương trình kế hoạch, cơ sở vật chất, phương tiện,
phương pháp đào tạo chỉ được xem là có chất lượng khi thực hiện mục tiêu đào
tạo theo hướng tích cực. Mục tiêu đào tạo là phẩm chất, năng lực mong muốn
trong tương lai đối với đối tượng đào tạo, là nhân cách người học có được lúc ra
trường để thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và có cơ sở để phát triển.
Mỗi yếu tố, bộ phận của quá trình đào tạo có chức năng, nhiệm vụ khác nhau
nhưng đều có cái đích phục vụ mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Qua các phân tích trên tác giả luận án cho rằng: CLĐT là kết quả của quá
trình đào tạo được phản ánh các đặc trưng về phẩm chất nhân cách - xã hội và
năng lực chuyên môn - nghề nghiệp của người học, sản phẩm đào tạo phù hợp với
mục đích giáo dục và mục tiêu đào tạo, có khả năng thích ứng với thị trường lao
động, đáp ứng được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
1.1.3. Khái niệm quản lý chất lượng và quản lý chất lượng đào tạo
1.1.3.1. Quản lý chất lượng
Là một nội dung của chức năng quản lý tập trung vào các yêu cầu, mục tiêu
về chất lượng [sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó]. QLCL là những hoạt động liên
quan đến tổ chức, kiểm soát và điều phối các nguồn lực để đạt mục tiêu. Theo tiêu
chuẩn công nghệ Nhật Bản [JIT] thì QLCL là một hệ thống phương pháp tạo điều
kiện sản xuất tiết kiệm những hàng hóa có chất lượng, hoặc đưa ra những dịch vụ
có chất lượng thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng
37
Theo Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000: QLCL là một tập hợp các
hoạt động chức năng quản lý chung, nhằm xác định chính sách chất lượng, mục
đích trách nhiệm và thực hiện chúng thông qua các biện pháp như lập kế hoạch
chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo và cải tiến chất lượng trong khuôn
khổ của hệ thống chất lượng.
AG. Robertson, chuyên gia người Anh cho rằng: QLCL được xác định
như hệ thống quản trị nhằm xây dựng chương trình và sự phối hợp các cố gắng
của những đơn vị khác nhau để duy trì và tăng cường chất lượng trong các tổ
chức từ khâu thiết kế, sản xuất, vận hành sao cho có hiệu quả nhất đồng thời
cho phép thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng [10].
Philip Crosby, chuyên gia người Mỹ cho rằng, QLCL là phương tiện có
tính chất hệ thống đảm bảo việc tôn trọng tổng thể tất cả các thành phần của một
kế hoạch hành động [10].
Theo Tiêu chuẩn Việt Nam về chất lượng [TCVN-5814-94] quan niệm
cho rằng QLCL là tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung, xác
định chính sách chất lượng, mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng thông qua
các biện pháp như lập kế hoạch chất lượng, điều khiển và kiểm soát chất lượng,
đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ hệ chất lượng.
Theo các quan niệm trên tác giả luận án cho rằng: Quản lý chất lượng bao
gồm hệ thống các phương pháp, biện pháp nhằm thực hiện chức năng quản lý tập
trung vào việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, thoả mãn nhu cầu thị trường với
hiệu quả kinh tế cao nhất; quản lý chất lượng được tiến hành ở tất cả quá trình
hình thành chất lượng sản phẩm [đầu vào, quá trình, đầu ra] và là trách nhiệm của
tất cả các cấp từ cán bộ lãnh đạo tới mọi thành viên trong bộ máy tổ chức.
1.1.3.2. Các cấp độ của quản lý chất lượng
Kiểm soát chất lượng [Quanlity control]. Kiểm soát chất lượng là hoạt
động đánh giá sự phù hợp của sản phẩm so với yêu cầu, so sánh mức độ đạt
được so với chuẩn thông qua việc cân đo, thử nghiệm, trắc nghiệmCấp độ này
tập trung kiểm soát sản phẩm ở khâu cuối cùng để phát hiện ra các khuyết tật và
đề ra biện pháp để xử lý các sản phẩm đó; kiểm soát chất lượng nhằm loại bỏ
38
các sản phẩm cuối cùng không đạt chuẩn quy định, hoặc làm lại nếu có thể.
Vận dụng vào giáo dục, đó là khâu cuối của quá trình đào tạo thi cử, đánh
giá cấp văn bằng, chứng chỉ, tốt nghiệp, chỉ có điều là giáo dục không được tạo ra
phế phẩm những học sinh thi không đạt chuẩn thì không được cấp bằng tốt nghiệp,
nhưng có thể lưu ban hoặc cũng có thể lao động với trình độ thấp hơn.
Đảm bảo chất lượng [Total quality control]. Đây là quá xảy ra trước và
trong khi thực hiện mối quan tâm của nó là phòng ngừa, phát hiện có thể xảy ra
ngay từ bước đầu tiên. Chất lượng sản phẩm được thiết kế ngay trong quá trình
sản xuất ra nó từ khâu đầu đến khâu cuối theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt
đảm bảo không có sai phạm trong bất kỳ khâu nào. Đảm bảo chất lượng phần
lớn là trách nhiệm của người lao động, thường làm việc trong các đơn vị độc
lập. So với cấp độ kiểm soát chất lượng thì cấp độ đảm bảo chất lượng có ưu
điểm là việc kiểm tra chất lượng sản phẩm được tiến hành từ khâu đầu đến khâu
cuối, nên có những nhận xét tình hình của cả hệ thống sản xuất - dịch vụ hoặc
đào tạo.
Vận dụng vào GDĐH đó là kiểm định các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo
dục trong một tổ chức giáo dục. Các điều kiện đó là: Chương trình đào tạo, đội ngũ
giảng viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, tổ chức quá trình dạy học, tài chính.
Quản lý chất lượng tổng thể [Total Quality Management-TQM]. Xác
định chất lượng không chỉ là công việc của một số ít người quản lý, mà còn là
nhiệm vụ, vinh dự của mọi thành viên trong tổ chức. Chất lượng sản phẩm muốn
nâng cao, phải luôn luôn quan hệ mật thiết với sử dụng yếu tố con người và mọi
nguồn lực trong tổ chức.
Vận dụng vào GDĐH mô hình TQM được nhiều nhà nghiên cứu về
QLGD đặc biệt là trong hệ thống đào tạo cho rằng có thể ứng dụng tốt trong
quản lý CLTT về chất lượng đào tạo [19].
1.1.3.3. Quản lý chất lượng đào tạo
Chất lượng không tự nhiên sinh ra, nó là kết quả của sự tác động của
hàng loạt các yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt được chất lượng
mong muốn cần phải quan tâm đúng đắn đến yếu tố QLCL đào tạo. QLCL
39
đào tạo là quản lý những tiêu chí tạo thành CLĐT đó là quản lý mục tiêu,
chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, quản lý đội ngũ giảng viên,
quản lý học viên, quản lý cơ sở vật chất... Trên cơ sở đó xây dựng bộ tiêu
chuẩn để QLCL đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành 10 tiêu chuẩn
về QLCL đào tạo đại học bao gồm: Sứ mệnh và mục tiêu của trường đại học.
Chương trình đào tạo. Tổ chức và quản lý hoạt động đào tạo. Đội ngũ cán bộ
quản lý, giảng viên và nhân viên. Người học. Nghiên cứu khoa học, ứng
dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ. Hoạt động hợp tác quốc tế. Thư
viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác. Tài chính và quản lý tài
chính. Nhiều nhà nghiên cứu QLGD cũng cho rằng, kiểm định, QLCL đào tạo
đại học theo 10 tiêu chuẩn là bước đi đúng đắn [66].
Quản lý CLĐT ở các trường đại học, thực chất là việc đề xuất và thực
hiện các quy trình, chuẩn mực, các thủ tục liên quan do nhà trường đặt ra, nhằm
duy trì chất lượng theo mục tiêu đề ra, hướng tới sinh viên đồng thời phối hợp
chặt chẽ giữa quản lý bên trong với kiểm soát bên ngoài của các cơ quan và tổ
chức xã hội để đánh giá chất lượng đào tạo.
Mỗi trường đại học, phải thiết lập hệ thống bảo đảm chất lượng, bao
gồm cả việc đưa ra chính sách chất lượng, lập kế hoạch chất lượng, xây dựng
các tiêu chuẩn giáo dục và xác định mục tiêu giáo dục cần đạt được. Triển
khai hệ thống bảo đảm chất lượng để đạt được các mục tiêu và chất lượng đã
đề ra, phân tích đối chiếu để xác định những sự khác biệt, những lỗ hổng
giữa kết quả đào tạo thực tế đạt được với tiêu chuẩn và mục tiêu đào tạo hay
kết quả mong đợi cần đạt được.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả luận án cho rằng: Quản lý CLĐT đại
học là hệ thống những chính sách, kế hoạch và các biện pháp quản lý mà chủ
thể quản lý sử dụng để huy động mọi nguồn lực [vật lực, tài lực, nhân lực] cùng
sự tham gia tích cực, chủ động của mọi thành viên trong tổ chức nhằm tổ chức,
điều khiển, điều hành một cách khoa học, hợp lý quá trình đào tạo nhằm đạt
được mục tiêu chất lượng đào tạo đã được xác định [hoặc mong muốn].
1.2. Quản lý chất lượng tổng thể
1.2.1. Khái niệm quản lý chất lượng tổng thể [TQM]
40
Quản lý chất lượng tổng thể [TQM] bao hàm các thành tố cơ bản sau:
T [Total] đồng bộ, toàn diện, tổng thể. Quản trị chất lượng trong toàn bộ
quá trình, các khâu công việc từ việc nhỏ đến lớn. Mỗi người đều là tác nhân của
chất lượng, chất lượng là công việc, là trách nhiệm của mọi người.
Q [Quality] chất lượng. Chất lượng quản trị quyết định chất lượng của sản
phẩm, mà chất lượng quản trị lại phụ thuộc chặt chẽ vào từng công việc của quá
trình quản trị. Chất lượng được thể hiện ở 3 khía cạnh, độ tin cậy, an toàn, sản
phẩm thích nghi với khách hàng; thỏa mãn nhu cầu, dễ sửa chữa, thay thế; đúng
lúc khi cần có ngay.
M [Management] quản lý hay quản trị. Gồm các công việc, kế hoạch; cơ
cấu tổ chức, mối liên hệ giữa các bộ phận trong tổ chức; lãnh đạo, ra quyết định; kiểm
soát điều khiển quá trình.
Thuật ngữ quản lý chất lượng tổng thể [Total Quality ManagementTQM] đã được tiến sỹ A.V. Faygenbaum đưa ra từ những năm 50 của thế kỷ
XX trở lại đây khi ông đang làm việc tại hãng General Electric. Cho nên, QLCL
tổng thể [TQM] có xuất sứ từ thương mại và công nghiệp, xác định chất lượng
không chỉ là công việc của một số ít người quản lý, mà còn là nhiệm vụ, vinh dự
của mọi thành viên trong đơn vị kinh tế. Chất lượng sản phẩm muốn được nâng
cao, phải luôn luôn quan hệ mật thiết với việc sử dụng tối ưu yếu tố con người
và mọi nguồn lực của doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải có những biện pháp,
những tác động hữu hiệu trong quản lý chất lượng sản phẩm, quản trị doanh
nghiệp, nhằm huy động năng lực, nhiệt tình đóng góp của các thành viên trong
tổ chức cùng nhau giải quyết các vấn đề chất lượng của doanh nghiệp. TQM là
cách quản lý một tổ chức tập trung vào chất lượng, dựa vào sự tham gia của tất
cả các thành viên của nó, nhằm đạt tới sự thành công lâu dài nhờ việc thỏa mãn
khách hàng và đem lại lợi ích cho các thành viên của tổ chức đó và cho xã hộiISO 8402:1994. Nguyên tắc quản lý, cơ bản là dựa trên lòng tin và mạnh dạn
trao quyền cho các nhóm chất lượng cũng như từng thành viên. Chất lượng sẽ
được đảm bảo nhờ quá trình cải tiến liên tục, thực chất TQM là sự kết hợp đồng
bộ giữa quản trị chất lượng với quản trị năng suất để thực hiện mục tiêu - đạt
đến sự hoàn thiện của công ty, sản phẩm không có khuyết tật, làm đúng ngay từ