Quy trình quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng

Hệ thống đang trong quá trình nâng cấp.
Hệ thống sẽ hoạt động trở lại ngay sau khi hoàn thành việc bảo trì, nâng cấp.

Advertisement

Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng là khái niệm được rất nhiều người quan tâm. Do đó cần tìm hiểu kỹ các thông tin về rủi ro tín dụng.

Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của ngân hàng, đem lại nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, vấn đề mà các ngân hàng thương mại đang phải đối mặt là rủi ro tín dụng. Vậy rủi ro tín dụng là gì và quy trình quản lý và xử lý rủi ro tín dụng ra sao, hãy cùng tìm hiểu ngay sau đây.

Rủi ro tín dụng là gì?

Rủi ro tín dụng là những rủi ro do khách hàng vay không làm đúng theo điều khoản quy định trong hợp đồng tín dụng. Rủi ro này thường gắn liền với các biểu hiện như khách hàng chậm trả nợ, trả không đầy đủ, không trả nợ khi đã đến thời hạn trả nợ gồm cả tiền gốc lẫn tiền lãi. Điều này sẽ trực tiếp gây tổn thất về tài chính cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.

Ngày nay, nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, cải tiến trang thiết bị kỹ thuật, nâng cao công nghệ và các nhu cầu phục vụ sản xuất kinh doanh luôn tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu này, các ngân hàng thương mại cũng phải luôn mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, điêu đó có nghĩa là rủi ro tín dụng cũng phát sinh nhiều hơn.

Rủi ro tín dụng là gì

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp nhất, việc quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn, nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào… Rủi ro tín dụng nếu không được phát hiện và sử lý kịp thời sẽ nảy sinh các rủi ro khác.

Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng

Nợ quá hạn

 Là chỉ tiêu cơ bản phản ánh rủi ro tín dụng. Nợ quá hạn sẽ phát sinh khi đến thời hạn trả nợ theo cam kết, người vay không có khả năng trả được nợ một phần hay toàn bộ khoản vay cho người cho vay. Tùy theo thời gian quá hạn, khoản nợ này sẽ được xác định là nợ đủ tiêu chuẩn, nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, hoặc là nợ có khả năng mất vốn… Nợ quá hạn được phản ánh qua 2 chỉ tiêu sau:

  • Tỷ lệ nợ quá hạn = Số dư nợ quá hạn/Tổng dư nợ
  • Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn = Số khách hàng có nợ quá hạn/Tổng số khách hàng có dư nợ

Nếu ngân hàng có chỉ tiêu nợ quá hạn và số khách hàng có nợ quá hạn lớn thì ngân hàng đó đang có mức rủi ro cao và ngược lại.

Nợ xấu

Nợ xấu là các khoản nợ quá hạn trên 90 ngày và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ do con nợ làm ăn thua lỗ liên tục, tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản, mất khả năng thanh toán…

Nợ xấu sẽ phản ánh một cách rõ nét chất lượng tín dụng của ngân hàng, căn cứ vào thời gian quá hạn và khả năng trả nợ của khách hàng để phân loại nợ xấu thành 3 nhóm: nhóm 3 [dưới chuẩn], nhóm 4 [nghi ngờ] và nhóm 5 [có khả năng mất vốn].

Các chỉ tiêu phản ánh nợ xấu bao gồm:

  • Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ. Theo ngân hàng thế giới, tỷ lệ này ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được và tốt nhất là ở mức 1-3%
  • Tỷ trọng nợ xấu theo nhóm nợ = Dư nợ xấu nhóm [3,4,5]/Tổng dư nợ xấu
  • Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu = Nợ xấu/Vốn chủ sở hữu
  • Tỷ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất = Nợ xấu/Quỹ dự phòng tổn thất

Dự phòng rủi ro tín dụng

Dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dự phòng RRTD được tính trên số dư nợ gốc của khách hàng bao gồm:

  • Dự phòng cụ thể – để bảo hiểm rủi ro cụ thể cho từng khoản vay
  • Dự phòng chung – bảo hiểm các rủi ro chung không xác định trong danh mục tín dụng và toàn bộ dự phòng được tính vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp.
Cần nắm rõ quy trình quản lý và xử lý rủi ro tín dụng

Quy trình quản lý và xử lý rủi ro tín dụng

Công tác quản lý rủi ro tín dụng là rất quan trọng đối với ngân hàng. Để đảm bảo cho công tác này được thực hiện tốt, ngân hàng cần có những bước thực hiện cụ thể. Dưới đây là quy trình quản lý và xử lý rủi ro tín dụng hiện nay:

Bước 1: Tính toán xác định rủi ro

  • Thẩm định đánh giá rủi ro đối với từng khoản giải ngân: Tình hình tài chính của đối tượng xin vay vốn, phân tích đặc trưng ngành của doanh nghiệp vay, phân tích khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so với các đối thủ cùng loại trên thị trường. Phân tích các rủi ro hệ thống, rủi ro  tình hình kinh tế…
  • Đánh giá năng lực lãnh đạo của các cán bộ doanh nghiệp.

Bước 2: Lượng hóa rủi ro

Sử dụng các công cụ phân tích, các chỉ báo phân tích để tính toán, đo lường những rủi ro được thể hiện qua các con số.

Bước 3: Quản lý, giám sát

Quản lý và giám sát việc doanh nghiệp sử dụng vốn. Nếu có dấu hiệu doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích: Ngưng việc giải ngân, đề nghị doanh nghiệp giải trình và yêu cầu thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng giải ngân.

Bước 4: Đưa ra các phương pháp giải quyết rủi ro

  • Không giải ngân đối với các hợp đồng không tuân thủ các điều kiện tài chính
  • Không chấp nhận các hợp đồng có độ rủi ro cao [Tài sản thế chấp không đảm bảo, lĩnh vực đầu tư không rõ ràng…]

Rủi ro tín dụng gây ra rất nhiều phiền toái và khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng. Cần có quá trình quản lý rủi ro và xử lý các rủi ro tín dụng một cách hợp lý để hạn chế các tác động mà nó gây ra. Hi vọng bài viết này đã giúp bạn hiểu rõ về khái niệm rủi ro tín dụng là gì cũng như quy trình quản lý và xử lý rủi ro tín dụng ngân hàng.

Mọi thắc mắc, các bạn có thể để lại thông tin liên hệ ngay TẠI ĐÂY để được hỗ trợ nhanh nhất bởi đội ngũ chuyên gia uy tín.

TÌM HIỂU THÊM:

Advertisement

Ảnh minh họa: Nguồn internet

Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

10:03 31/12/2021

Quản lý rủi ro tín dụng là cách thức tốt nhất mà các tổ chức tín dụng cần thực hiện để không bị ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư. Quản lý về rủi ro tín dụng bao gồm tổng thể tất cả các hành động nhằm kiểm soát rủi ro phát sinh trong quá trình vận hành và phát triển quy mô của các ngân hàng thương mại, liên quan đến phòng ngừa và kiểm soát các loại rủi ro. Đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam, bài viết này đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác này trong thời gian tới.

Tăng trưởng tín dụng đã đạt 12,68%, tổng nợ xấu lên tới 8,2%

WB hỗ trợ tín dụng hơn 221 triệu USD giúp Việt Nam phục hồi kinh tế sau dịch

Sắp có thêm đợt nới “room” tín dụng mới?

Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng

Khái niệm rủi ro tín dụng

Theo Nguyễn Văn Tiến [2010]: Rủi ro tín dụng [RRTD] phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu đủ được đầy đủ gốc là lãi khoản vay hoặc việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Nếu tất cả các khoản đầu tư của ngân hàng được thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn thì ngân hàng không chịu bất cứ RRTD nào. Trong trường hợp người vay tiền phá sản thì việc thu hồi gốc lãi tín dụng đầy đủ là không chắc chắn, do đó ngân hàng có thể gặp RRTD.

Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 01/VBHN-NHNN của Ngân hàng Nhà nước: RRTD trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết.

Quản lý rủi ro tín dụng

Theo Nguyễn Quang Thu [2008], Quản lý rủi ro là một chức năng quản trị chung để nhận ra, đánh giá và đối phó với những nguyên nhân và hậu quả của tính bất định và rủi ro của tổ chức. Mục đích của quản lý rủi ro là cho phép tổ chức tiến đến những mục đích của nó bằng con đường trực tiếp, có hiệu năng và hiệu quả nhất. Quản lý RRTD là quá trình kiểm soát tác động của các sự kiện liên quan đến RRTD trên cơ sở tài chính, bao gồm các công việc xác định, đo lường mức độ tổn thất tiềm năng và thực hiện các biện pháp thích hợp để giảm thiểu nguy cơ thiệt hại cho các tổ chức tài chính.

Các nhiệm vụ chủ yếu của công tác quản lý rủi ro tín dụng:

Một là, nhận diện và phân loại rủi ro: Phải theo dõi, xem xét môi trường hoạt động kinh doanh và quy trình cho vay để thống kê các dạng RRTD, nguyên nhân đã xảy ra và dự báo những nguyên nhân tiềm ẩn có thể gây ra RRTD.

Hai là, đánh giá mức độ rủi ro: Cần thu thập số liệu và phân tích dựa trên các tiêu chuẩn đã đặt ra. Các đối tượng cần đánh giá mức độ rủi ro bao gồm: Nội bộ ngân hàng, khách hàng, danh mục đầu tư.

Ba là, phòng chống và dự phòng rủi ro: Kiểm soát rủi ro là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược và các chương trình hoạt động để ngăn ngừa, né tránh, giảm thiểu rủi ro.

Bốn là, theo dõi, đánh giá và điều chỉnh phương pháp phòng chống rủi ro: Việc báo cáo kịp thời, theo đúng yêu cầu về rủi ro là công cụ hỗ trợ đắc lực trong công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro.

Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Thời gian qua, quản lý RRTD của các ngân hàng thương mại cổ phần [TMCP] Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện, trong đó điển hình như: Chiến lược, chính sách định hướng cho hoạt động quản trị RRTD ngày càng rõ ràng và mang tính thực tiễn; hình thành mô hình tổ chức theo hướng tập trung cho quản trị RRTD; Xây dựng được quy trình cấp tín dụng chặt chẽ, tạo điều kiện để kiểm soát RRTD ngay từ khi mới xuất hiện. Cụ thể:

- Chiến lược, chính sách định hướng cho hoạt động quản trị RRTD ngày càng rõ ràng và mang tính thực tiễn: Phần lớn các ngân hàng đã xây dựng được định hướng chiến lược trong cấp tín dụng. Hàng năm, hệ thống NHTM đều có chính sách ưu tiên, chú trọng phát triển tín dụng cho một số ngành phù hợp với chính sách phát triển kinh tế và thị trường mục tiêu của ngân hàng. Điều này hết sức quan trọng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định.

- Hình thành mô hình tổ chức theo hướng tập trung cho quản trị RRTD: Luật các TCTD năm 2010 và sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã đưa ra nhiều quy định mới về tổ chức quản trị điều hành trong ngân hàng.

Hầu hết các ngân hàng đã xây dựng được mô hình tổ chức theo thông lệ quốc tế, chú trọng QTRR nói chung, trong đó có quản trị RRTD. Cụ thể, các ngân hàng đều hình thành Ủy ban Quản lý rủi ro với vai trò tư vấn cho Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên trong vấn đề liên quan đến quản trị rủi ro.

- Xây dựng được quy trình cấp tín dụng chặt chẽ, tạo điều kiện để kiểm soát RRTD ngay từ khi mới xuất hiện: Hiện nay, về cơ bản quy trình tín dụng đều đã được các ngân hàng xây dựng hết sức chặt chẽ, bao gồm nhiều bước đi cụ thể, có sự nối kết, kế thừa và mang nội dung kiểm soát lẫn nhau giữa các bước/các khâu trong quy trình.

Trong khâu thẩm định/phân tích tín dụng - một nội dung của quy trình tín dụng, các ngân hàng đã chú trọng phân tích tình hình hoạt động của người vay, nghiên cứu, nâng cao chất lượng thẩm định các khoản vay, các dự án đầu tư, chú ý phân tích hiệu quả và các yếu tố tác động đến dự án để thấy được rủi ro của khoản vay. Thực hiện tốt việc kiểm tra tín dụng, phối hợp tốt với kiểm soát nội bộ trong việc kiểm tra chéo.

- Xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm đo lường rủi ro giao dịch tín dụng: Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng thường được cấu trúc riêng biệt đối với ba nhóm đối tượng khách hàng chính, bao gồm: Nhóm khách hàng doanh nghiệp [doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp tiềm năng], nhóm khách hàng cá nhân/hộ kinh doanh và nhóm khách hàng là định chế tài chính. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tuy giúp ngân hàng đo lường rủi ro giao dịch nhưng chưa đánh giá được rủi ro danh mục tổng thể. Việc xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cũng cho thấy bước tiến mới của các ngân hàng trong vận dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro vào điều kiện cụ thể tại Việt Nam.

Công tác quản lý RRTD tại các ngân hàng TMCP Việt Nam đã đạt nhiều kết quả tích cực, song vẫn còn không ít khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ. Cụ thể, môi trường quản trị RRTD chưa đáp ứng được các yêu cầu của Ủy ban Basel và thông lệ quốc tế. Việc hoạch định chiến lược về quản trị RRTD tại các NHTM còn khá đơn giản, hầu hết chỉ mang nội dung định hướng phát triển chung, chưa đưa ra được một danh mục tín dụng, kế hoạch cụ thể; trong đó tỷ trọng dư nợ từng ngành, từng khu vực, từng đối tượng chưa được xây dựng cụ thể nhằm hạn chế RRTD tập trung.

Bên cạnh đó, tại một số ngân hàng, chức năng của bộ phận quản lý rủi ro cũng chưa được đánh giá đầy đủ, toàn diện. Tình trạng bộ phận quản lý rủi ro tham gia vào trong khâu thẩm định/tái thẩm định tín dụng không phải chỉ có ở những ngân hàng nhỏ, mà ngay tại các ngân hàng lớn vẫn tồn tại. Điều đó cho thấy chưa thực sự tách biệt giữa chức năng tạo rủi ro [tác nghiệp] và chức năng quản lý rủi ro, tính độc lập của quản lý rủi ro chưa được đảm bảo, dẫn đến hiệu quả quản trị thấp.

Hiện nay, Ủy ban Basel trong Hiệp ước Basel II đã khuyến khích các ngân hàng dùng mô hình nội bộ để đo lường rủi ro riêng biệt của ngân hàng mình. Nhiều ngân hàng tại các nước phát triển đã sử dụng các mô hình khác nhau để đo lường rủi ro, từ đó tiến hành trích lập dự phòng hoặc tính mức vốn tương xứng để bù đắp cho tổn thất. Tuy nhiên, các mô hình này chưa được áp dụng tại Việt Nam.

Hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Thời gian tới, nhằm hoàn thiện công tác quản lý RRTD tại các ngân hàng TMCP Việt Nam cần triển khai các nhóm giải pháp sau:

Hoàn thiện công tác quản lý

Nhận diện và phân loại rủi ro: Thực hiện thẩm định khoản vay chặt chẽ, đúng các quy định trong quản lý RRTD là điều kiện tiên quyết và rào cản rủi ro hữu hiệu và ít tốn kém nhất, nhất là đối với hồ sơ vay vốn, hồ sơ tài sản đảm bảo, hồ sơ giải ngân và kiểm tra. Bên cạnh đó, xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro sớm và hoàn thiện hệ thống cảnh báo rủi ro.

Đánh giá rủi ro hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ: Cải thiện các phương pháp nhận diện, phân tích, đo lường RRTD tại đơn vị ngân hàng áp dụng nhưng chưa mang lại hiệu quả cao. Xây dựng lại Quy định chấm điểm khách hàng và xếp hạng tín dụng để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Xây dựng chương trình phần mềm chấm điểm khách hàng và xếp hạng tín dụng trên hệ thống và online trong hệ thống để làm cơ sở cho việc khai thác thông tin khách hàng tại đơn vị.

Phòng chống và dự phòng rủi ro: Cải thiện, áp dụng các giải pháp dự phòng RRTD tại đơn vị, đồng thời, đẩy mạnh truyền thông, đào tạo về quản lý RRTD tại đơn vị. Thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ và chính xác phản ánh đúng tình trạng nợ của mỗi NHTM. Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và nâng cao tính hiệu lực của kiểm soát và cho công tác quản lý RRTD.

Theo dõi đánh giá và điều chỉnh phương pháp phòng chống rủi ro: Hoàn thiện bộ máy cấp tín dụng theo mô hình cấp tín dụng tập trung: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức NHTM theo hướng tập trung cho quản trị rủi ro. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cho các NHTM Việt Nam trong thời gian tới là phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo xu hướng quản trị ngân hàng hiện đại, dựa trên quy định của Ủy ban Basel.

Hỗ trợ cho công tác quản lý rủi ro tín dụng

Công tác đào tạo: Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, trao đổi về các tình huống tín dụng đã xảy ra để rút kinh nghiệm chung; tổ chức các buổi hội thảo, thảo luận về kiểm soát RRTD, nhấn mạnh các sai phạm và hậu quả gặp phải trong toàn hệ thống để phòng tránh. Nâng cao nhận thức cho cán bộ tín dụng về ý nghĩa của kiểm soát, đào tạo cho họ các kiến thức và kỹ năng cần thiết để phục vụ hoạt động này.

Tổ chức nhân sự: Cần có chế tài, chính sách kiểm điểm kỷ luật bồi thường rõ ràng, kiên quyết đối với những trường hợp cố tình sai phạm gây ra thất thoát tài sản cho ngân hàng nhằm răn đe và giảm thiểu rủi ro đạo đức có thể xảy ra.

Tổ chức các phòng/ban: Các phòng/ban cần thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô. Hiện nay, báo cáo rủi ro thị trường định kỳ hàng tháng còn mang tính tổng hợp chưa phân tính nguyên nhân và dự báo rủi ro ngành nghề. Báo cáo rủi ro vận hành chủ yếu tổng hợp từ các báo cáo của Phòng Kiểm soát nội bộ nên chưa đa dạng và còn thụ động. Việc thu thập thông tin ngành đôi khi gặp khó khăn, vì việc phân tích chủ yếu dựa vào khả năng phán đoán, nhận biết và sự hiểu biết chủ quan của nhân viên tín dụng.

Tài liệu tham khảo:

Ngân hàng Nhà nước [2019], Thông tư số 22/2019/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;

Ủy ban Giám sát ngân hàng, Basel I, Basel II và Basel III, //www.bis. org/bcbs/;

Ngân hàng Nhà nước [2015-2020], Báo cáo thường niên giai đoạn 2015-2020;

Andrew Fight [2004], Credit risk management, Essential Capital Markets, 2004, Page 244;

Jing LinLu H [2021], Lattice clus tering and its appl ication in credit risk mana ge ment ofcom mercial bank. Procedia Computer Science 183 [2021] 145–151.

Thông tin tác giả:

[*] Đào Văn Chung - Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Chúng Việt Nam [PVcomBank].

[**] Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 1 tháng 12/2021.

Video liên quan

Chủ Đề