So sánh 2 mùa khô 65 66 66 67

- Sau khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, Mỹ phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.

- Đây là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng quân Mỹ, đồng minh và quân đội Sài Gòn với phương tiện chiến tranh hiện đại. Quân số lúc cao nhất [1969] lên đến 1,5 triệu [Mỹ hơn 500 ngàn].

- Mỹ nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực có thể áp đảo quân chủ lực ta bằng chiến lược: “tìm diệt”, giành thế chủ động trên chiến trường, đẩy ta về phòng ngự, buộc ta phải phân tán nhỏ… làm cho chiến tranh tàn lụi dần.

- Với ưu thế về quân sự, Mỹ cho mở cuộc hành quân “tìm, diệt” vào Vạn Tường và 2 cuộc phản công 2 mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 nhằm “tìm diệt” và “bình định” vào vùng căn cứ kháng chiến, vùng “đất thánh Việt Cộng” hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến của ta.

2. Chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ”của Mỹ

- Quân dân ta chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” bằng sức mạnh cả dân tộc, của tiền tuyến và hậu phương với ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Trận Vạn Tường [Quảng Ngãi]

+ Ngày 18/8/1965, Mỹ huy động 9.000 quân tấn công Vạn Tường. Sau 1 ngày chiến đấu, ta loại khỏi vòng chiến 900 tên địch, nhiều xe tăng, nhiều máy bay…

+ Vạn Tường được coi là “Ấp Bắc” đối với Mỹ, mở đầu cho cao trào “tìm Mỹ đánh, tìm ngụy diệt” trên khắp miền Nam.

- Cuộc tấn công 2 mùa khô

+ Đông – xuân 1965 - 1966: Mỹ huy động 72 vạn quân [22 vạn Mỹ và đồng minh], mở 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm diệt” lớn, nhắm vào hai hướng chiến lược chính là Liên khu V và Đông Nam Bộ với mục tiêu đánh bại quân chủ lực giải phóng. Ta tấn công khắp nơi, giành nhiều thắng lợi, loại khỏi vòng chiến 104.000 tên địch [có 45.500 Mỹ và đồng minh], bắn rơi 1.430 máy bay.

+ Đông – xuân 1966 – 1967: Mỹ huy động 98 vạn quân [44 vạn Mỹ và đồng minh], mở 895 cuộc hành quân, có 3 cuộc hành quân “bình định” và “tìm diệt” lớn, lớn nhất là Gianxơn Xiti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu [Bắc Tây Ninh] nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta. Ta tấn công khắp nơi, đập tan cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” của Mỹ, loại khỏi vòng chiến 151.000 tên địch [73.500 Mỹ và đồng minh], bắn rơi 1.231 máy bay.

- Từ thành thị đến nông thôn, nhân dân nổi dậy đấu tranh trừng trị ác ôn, phá ấp chiến lược, đòi Mỹ rút về nước, đòi tự do dân chủ.

- Uy tín Mặt trận Dân tộc GPMN Việt Nam lên cao, Cương lĩnh của mặt trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức khu vực ủng hộ.

3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

- Mùa xuân 1968, trên cơ sở nhận định và so sánh lực lượng đã thay đổi có lợi cho ta, lợi dụng mâu thuẫn trong bầu cử Tổng thống Mỹ, ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam nhằm tiêu diệt bộ phận quan trọng quân Mỹ và đồng minh; đánh đòn mạnh vào chính quyền Sài Gòn, buộc Mỹ phải tiến hành đàm phán rút quân.

- Đợt 1 [từ 30/1 đến 25/2/1968], ta đồng loạt tấn công và nổi dậy ở hầu hết các tỉnh, đô thị, quận lỵ. Tại Sài Gòn, ta tấn công các vị trí đầu não của địch [Dinh Độc lập, Tòa đại sứ Mỹ, Bộ tổng tham mưu Ngụy, Tổng nha cảnh sát Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh…]. Có 147.000 tên địch [43.000 Mỹ] bị loại khỏi vòng chiến, phá hủy khối lượng lớn vật chất và các phương tiện chiến tranh của địch.

+ Từ cuộc Tổng tiến công, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình được thành lập.

+ Đây là một đòn bất ngờ làm cho địch choáng váng, nhưng do lực lượng của địch còn mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức phản công giành lại những mục tiêu bị ta chiếm và đồng thời cũng đã làm cho ta bị tổn thất khá nặng nề, trong đợt 2 [tháng 5, 6] và đợt 3 [tháng 8, 9].

- Do ta “chủ quan trong đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa sát với thực tế… không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm để đánh giá tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời, chậm thấy những cố gắng mới của địch và khó khăn lúc đó của ta”.

- Cuộc Tổng tiến công đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ; buộc Mỹ phải tuyên bố “phi Mỹ hoá” chiến tranh [thừa nhận thất bại chiến tranh cục bộ] và chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đến bàn hội nghị Paris đàm phán về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

II. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất

1. Mỹ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc

- Ngày 5/8/1964, Mỹ dựng lên "sự kiện vịnh Bắc Bộ" cho máy bay ném bom, bắn phá một số nơi ở miền Bắc [cửa sông Gianh, Vinh - Bến Thủy]...

- Ngày 7/2/1965, Mỹ ném bom thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ... chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

- Mục đích của Mỹ là phá tiềm lực kinh tế - quốc phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc; ngăn chặn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.

2. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất vừa làm nghĩa vụ hậu phương

- Miền Bắc chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, quân sự hóa toàn dân, đắp công sự, đào hầm, sơ tán... để tránh thiệt hại về người và của, tiếp tục chiến đấu và sản xuất. Hễ địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ sản xuất.

- Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, quân dân miền Bắc thi đua chống Mỹ, đạt nhiều thành tích lớn trong chiến đấu và sản xuất. Sau hơn 4 năm [từ 5/8/1964 đến 1/11/1968], miền Bắc bắn rơi 3.243 máy bay [6 B52, 3 F111], loại khỏi vòng chiến hàng ngàn phi công, bắn chìm 143 tàu chiến. Ngày 1/11/1968, Mỹ buộc phải ngưng ném bom miền Bắc.

- Miền Bắc vừa sản xuất vừa làm nghĩa vụ hậu phương.

+ Trong nông nghiệp, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất tăng, đạt “ba mục tiêu” [5 tấn thóc, 2 đầu lợn, 1 lao động/1ha/1 năm].

+ Trong công nghiệp, năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống.

+ Giao thông vận tải, đảm bảo thường xuyên thông suốt.

+ Miền Bắc luôn hướng về miền Nam ruột thịt, phấn đấu “mỗi người làm việc bằng hai”. Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.

+ Tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển bắt đầu khai thông [tháng 5/1959], nối liền hậu phương với tiền tuyến. Trong 4 năm [1965 - 1968] đưa hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội vào Nam chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng, cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men… tăng gấp 10 lần so với trước.

III. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” [1965 - 1973]

1. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mỹ

- Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ phải chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa” và “Đông Dương hóa” chiến tranh.

- “Việt Nam hóa chiến tranh” là hình thức chiến tranh thực dân kiểu mới được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp của hỏa lực và không quân Mỹ, vẫn do cố vấn Mỹ chỉ huy. Thực chất là tiếp tục thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt”, để giảm xương máu người Mỹ trên chiến trường.

- “Đông Dương hóa chiến tranh” là mở rộng xâm lược Lào và Campuchia, thực hiện âm mưu “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.

- Lợi dụng mâu thuẫn Trung - Xô, thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

2. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mỹ

- Chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” là chống lại cuộc chiến tranh toàn diện được tăng cường và mở rộng ra toàn Đông Dương. Ta vừa chiến đấu trên chiến trường vừa đấu tranh trên bàn đàm phán với địch.

- Ngày 6/6/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập, được 23 nước công nhận, 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.

- Ngày 2/9/1969, Bác Hồ qua đời là một tổn thất lớn đối với cách mạng.

- Trong 2 ngày 24 và 25/04/1970, hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương quyết tâm đoàn kết chống Mỹ.

- Từ ngày 30/4 đến 30/6/1970, quân dân Việt Nam - Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn Mỹ và quân Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến 17.000 tên địch, giải phóng 5 tỉnh đông bắc với 4,5 triệu dân.

- Từ 12/2 đến 23/3/1971, quân dân Việt - Lào đập tan cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của Mỹ và quân Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến 22.000 tên địch, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.

- Ở các đô thị, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và sinh viên, học sinh nổ ra liên tục.

- Ở vùng nông thôn, quần chúng nổi dậy phá “Ấp chiến lược”, chống “bình định”. Đầu năm 1971, cách mạng làm chủ thêm 3.600 ấp với 3 triệu dân.

3. Cuộc Tiến công chiến lược 1972

- Ngày 30/3/1972, quân ta bất ngờ mở cuộc tiến công chiến lược, đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tấn công chủ yếu, rồi phát triển rộng khắp miền Nam.

- Cuối tháng 6/1972, ta chọc thủng ba phòng tuyến Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, diệt 20 vạn quân Sài Gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn.

- Sau đó, địch phản công mạnh, gây cho ta nhiều thiệt hại. Mỹ tiến hành trở lại chiến tranh phá hoại miền Bắc.

- Cuộc tiến công năm 1972 đã giáng đòn mạnh vào chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh, buộc Mỹ phải tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh [thừa nhận sự thất bại của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh].

IV. Miền Bắc phát triển kinh tế, chống chiến tranh phá hoại lần hai

1. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội

- Khuyến khích sản xuất, chú trọng chăn nuôi, thâm canh tăng vụ [5 tấn/ha], sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với 1968.

- Khôi phục và xây dựng công nghiệp, ưu tiên thủy điện Thác Bà [Hòa Bình] phát điện tháng 10/1971, giá trị sản lượng 1971 tăng 142% so với 1968.

- Giao thông vận tải nhanh chóng được khôi phục.

- Văn hóa, giáo dục, y tế được phục hồi và phát triển.

2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương

- Ngày 6/4/1972, Mỹ ném bom một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16/4, chính thức tiến hành chiến tranh không quân phá hoại miến Bắc lần II, sau đó phong tỏa cảng Hải Phòng, các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc.

- Nhờ được chuẩn bị trước và với tư thế sẵn sàng chiến đấu, miền Bắc tiếp tục chuyển sang kinh tế thời chiến, đảm bảo liên tục sản xuất và giao thông thông suốt.

- Từ 14/12/1972, sau 2 tháng ngưng ném bom để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị và ngoại giao mới, Nixon mở cuộc tập kích bắn phá dữ dội Hà Nội, Hải Phòng bằng B52 trong 12 ngày đêm [từ 18 đến 29/12/1972] nhằm giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta ký hiệp định có lợi cho Mỹ.

- Quân dân miền Bắc đánh bại cuộc tập kích của Mỹ, làm nên trận: “Điện Biên Phủ trên không”; hạ 735 máy bay [61 B52, 10 F111], 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến hàng trăm phi công.

- Chiến thắng đã buộc Mỹ phải tuyên bố ngưng các hoạt động chống phá miền Bắc [15/1/1973] và ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam; đảm bảo tiếp nhận hàng viện trợ từ bên ngoài và chi viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam, Lào và Campuchia.

- Từ năm 1969 đến năm 1971, hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ, 60% vào miền Nam, Lào, Campuchia. Năm 1972, 22 vạn thanh niên nhập ngũ vào chiến trường Đông Dương. Miền Bắc đã viện trợ khối lượng vật chất tăng 1,6 lần trước kia [năm 1972 tăng 1,7 lần so với năm 1971].

  1. Hiệp định Pari năm 1973

- Sau cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968, Giônxơn tuyên bố ngưng ném bom ở miền Bắc và nối lại đàm phán với Việt Nam.

- Ngày 13/5/1968, cuộc đàm phán chính thức diễn ra tại Pari giữa hai bên là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và Hoa Kỳ; từ ngày 25/1/1969, gồm 4 bên là Việt Nam dân chủ cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa.

- Sau nhiều cuộc tiếp xúc, lập trường hai bên rất khác nhau, mâu thuẫn nhau; Việt Nam đòi Mỹ và đồng minh rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, đòi tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam. Ngược lại, Mỹ đòi miền Bắc rút quân và từ chối ký dự thảo Hiệp định dù đã thỏa thuận [10/1972].

- Tháng 12/1972, Mỹ mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội và Hải Phòng trong 12 ngày đêm. Việt Nam đập tan cuộc tập kích bằng không quân của Mỹ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải trở lại ký Hiệp định Pari.

- Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được ký kết giữa 4 Bộ trưởng đại diện các Chính phủ tham dự hội nghị.

- Nội dung của Hiệp định Pari:

+ Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

+ Hai bên ngừng bắn ở miền Nam lúc 24 giờ ngày 27/1/1973 và Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động chống phá miền Bắc Việt Nam.

+ Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân đồng minh, phá hết các căn cứ quân sự, cam kết không tiếp tục can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam.

+ Nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai chính trị thông qua tổng tuyển cử tự do.

+ Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có 2 chính quyền, 2 quân đội, 2 vùng kiểm soát và 3 lực lượng chính trị.

+ Hai bên ngừng bắn, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

+ Hoa Kỳ cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, thiết lập quan hệ bình thường cùng có lợi với Việt Nam.

- Hiệp định là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao, là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta trên cả 2 miền đất nước.

- Mở ra bước ngoặt mới cho cách mạng Việt Nam, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Chủ Đề