So sánh ký văn học và ký báo chí

Phân biệt 2 thẻ loại : Ký báo chí và Ký văn học.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [132.53 KB, 7 trang ]

Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
Bài tiểu luận
Môn: Các thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật
Đề bài: Trong thể loại Ký có Ký báo chí và Ký văn học. Hãy phân biệt
hai loại Ký này.
Ký là một trong các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, được nhiều người
sử dụng trong sáng tác văn học và làm báo. Tuy nhiên, phân biệt hai thể loại này là
khá khó nhưng rất cần thiết cho việc viết báo. Trước tiên, thể loại Ký có nhiều đặc
điểm lớn sau:
- Ký phản ánh những vấn đề, sự kiện, con người có thật, điển hình, luôn cố
gắng đảm bảo tính chân thực, chính xác của nội dung.
- Ký có hình thức co giãn thể loại linh hoạt, giọng điệu phong phú.
- Cái tôi trần thuật trong thể loại Ký báo chí là nhân chứng thẩm định hiện
thực.
Những đặc điểm trên đã tạo cho Ký một diện mạo riêng, tiếng nói riêng trong
văn học và báo chí. Cũng chính những đặc điểm này đã giúp cho Ký tạo ra một kênh
giao tiếp riêng đối với công chúng.
Xung quanh sự tồn tại và phát triển của Ký nói chung đã từng có nhiều ý kiến
tranh luận. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Ký có phải là văn học không? Trong Ký có hư
cấu không? Nếu là văn học, Ký đứng ở vị trí nào trong hệ thống? Đặc trưng của các
thể Ký là gì? Liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí không?..
Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
Trong quá trình giải quyết những câu hỏi trên có nhiều phương pháp khác
nhau. Có người căn cứ vào phương thức biểu hiện và chất liệu kết cấu để chia ký
thành ba loại: ký tự sự, ký trữ tình và ký chính luận. Lại có người căn cứ vào bút
pháp và đối tượng được phản ánh để chia ký thành hàng chục thể loại như: phóng sự,
ký sự, tuỳ bút, hồi ký, truyện ký, nhật ký, du ký, bút ký chính luận, tản văn…Về đặc
trưng của Ký, quan điểm hầu như vẫn chưa thống nhất. Có người cho rằng đặc trưng
ấy là ở chỗ do Ký viết về người thật, việc thật.
Đứng trước câu hỏi liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí hay
không, đã từng có những quan niệm trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng sự phân


chia đó là cần thiết. Tuy nhiên, cơ sở phân chia lại ở chất lượng nghệ thuật. Theo
quan điểm này thì ký báo chí là những bài ký có chất lượng nghệ thuật thấp hoặc
không có nghệ thuật mà chỉ đơn giản là cung cấp thông tin đối với công chúng, còn
Ký văn học có chất lượng nghệ thuật cao hơn.
Ngược lại với quan niệm trên, lại có những người cho rằng không nên có sự
phân chia đó. Theo họ, thực ra thì bản chất của Ký chỉ có một. Nếu có sự khác nhau
thì lại là ở chỗ: nhà văn viết ký không giống với nhà báo viết ký.
Sự không nhất trí nói trên đã kéo dài trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn
học trong những năm trước đây. Có một thực tế là trong các bài giảng cho sinh viên
báo chí, thông thường người ta chỉ giới thiệu về ký một cách chung chung trên cơ sở
tổng hợp những ý kiến của các nhà nghiên cứu lý luận văn học. Trong khi đó các thể
ký báo chí đích thực lại bị tách riêng ra thành những thể loại báo chí hoàn toàn
không có liên quan gì đến ký. Nguyên nhân còn do khoa học báo chí vẫn chưa xác
định được hệ thống thể loại dựa trên cơ sở phân loại đúng đắn. Chính sự lúng túng
Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
trong lý luận đã có ảnh hưởng không tốt đến thực tiến. Trên các báo hiện nay thường
xuyên có những bài ghi không dúng tên thể loại, thậm chí nhiều nhà báo hoàn toàn
không phân biệt được bài viết của mình thuộc thể loại nào chứ chưa nói đến những
sự phân biệt khó hơn như phân biệt giữa ký báo chí và ký văn học.
Nếu xét ở mục đích, mặc dù thấy cùng xuất phát từ người thật, việc thật
nhưng ký văn học luôn cố gắng xây dựng những hình tượng nghệ thuật. Đặc trưng
hình tượng luôn luôn chi phối trong các tác phẩm. Nhà văn không bao giờ chỉ dừng
lại ở chỗ trình bày sự thật. Hiện thực chỉ là xuất phát điểm, là cái cớ để thông qua đó
trình bày quan niệm thẩm mỹ của mình. Sự thẩm định có thể là ý kiến trực tiếp,
những hình ảnh, hình tượng hoặc cũng có thể là cách lựa chọn trình bày chi tiết…
Về bút pháp, văn học sử dụng những cách của văn học nói chung để tạo ra một
giọng điệu phong phú, sinh động. Trong thể ký văn học, cái Tôi bao giờ cũng là cái
tôi thẩm mỹ. Bản chất thẩm mỹ của thể loại được đặc biệt chú trọng. Chính bởi vậy,
bên cạnh những thủ pháp nghệ thuật khác, thủ pháp hư cấu vẫn thường được tác giả
văn học sử dụng. Tuy nhiên, mức độ hư cấu trong tác phẩm ký báo chí không giống


như các thể loại văn học khác. Tức là nhà văn có thể sử dụng những hình thức không
xác định để trình bày cái xác định. Hư cấu nghệ thuật sử dụng trong văn học còn do
ở chỗ: trong thực tế, tác giả không thể đồng thời chứng kiến tất cả các khía cạnh của
sự việc đang xảy ra. Muốn có được một bức tranh toàn cảnh của sự việc, nhà văn
phải hỏi những người khác mà thông qua đó, sử dụng sự hồi tưởng hay trí tưởng
tượng để tái tạo hiện thực.
Có thể coi hư cấu là yếu tố quan trọng để phân biệt giữa ký văn học và ký báo
chí. Ký báo chí [ và các thể loại báo chí nói chung] không chấp nhận hư cấu dưới bất
cứ hình thức nào. Các thể ký báo chí dù có bút pháp linh hoạt và sinh động như thế
Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
nào chăng nữa, cũng không được phép vượt qua nguyên tắc mang tính quy luật loại
hình này. Thông tin báo chí phải đạt tới sự xác thực tối đa.
• Ký báo chí:
Xuất hiện là do nhu cầu truyền đạt thông tin, nhu cầu phản ánh thực tiễn. Với
tư cách là người truyền đạt thông tin tới công chúng, nhà báo luôn tìm tòi những
hình thức mới để vượt qua khỏi cái khung của lối văn thông tấn mà vẫn đảm bảo
được tính xác thực, tính thời sự của nội dung được phản ánh. Các thể ký báo chí đã
đáp ứng được nhu cầu đó. Với hình thức kết cấu tương đối co giãn, với bút pháp đa
dạng và đặc biệt là sự xuất hiện của cái Tôi trần thuật sẽ giúp nhà báo có thể truyền
đạt thông tin một cách phong phú, hấp dẫn hơn so với các thể loại báo chí khác. Với
ý nghĩa đó có thể thấy rằng sự hình thành và phát triển của ký báo chí gắn liền với
hoạt động sáng tạo của nhà báo. Việc tìm tòi những hình thức biểu hiện mới nhằm
đạt tới những hiệu quả cao hơn vốn là thuộc tính của quá trình sáng tạo và dĩ nhiên
nhà báo không thể nằm ngoài quy luật đó.
• Sự khác biệt giữa ký báo chí và ký văn học:
Điểm khác biệt được coi là căn bản giữa ký báo chí và ký văn học là ở chỗ:
Mặc dù đều xuất hiện cái Tôi trần thuật, nhưng cái Tôi trong ký báo chí không phải
là cái Tôi thẩm mỹ. Nhà báo không thẩm định được hiện thực trên cơ sở của những
cảm xúc thẩm mỹ. Do phải chịu sự chi phối của yêu cầu thông tin thời sự, thông tin
xác thực nên mặc dù tác giả vẫn có cơ hội trình bày sự thẩm định của mình, sự thẩm


định ấy phải là kết quả của quá trình tư duy lôgic. Hiện thực được trình bày trong ký
báo chí phải luôn đảm bảo độc chính xác tối đa và lập luận phải xuất phát từ tư duy
lôgic của sự thực. Cái tôi trong ký báo chí phải là cái tôi nhân chứng tỉnh táo và lý
trí. Ở đây không loại trừ cảm xúc trước sự thật để phản ánh sự thật.
Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
• Ký văn học:
Với ký văn học thì chất suy nghĩ và tình cảm của chủ đề là chất men. Hiện
thực đã được lên men trong tác phẩm đem đến cho công chúng những cách nhìn,
cách cảm đa dạng, nhiều chiều. Nói tóm lại, nhân vật trần thuật và cảm hứng trữ tình
cùng với những quy luật đặc thù khác của sáng tạo nghệ thuật luôn chi phối trong
các tác phẩm Ký văn học. Trên cơ sở kết hợp được những cách khác nhau, Ký văn
học vừa có giọng điệu phong phú, vừa độc đáo. Với các thể ký báo chí mặc dù tác
giả luôn có ý thức tạo nên sự hấp dẫn trong tác phẩm của mình bằng việc xây dựng
những kết cấu co giãn và sử dụng bút pháp gần gũi với văn học, nhưng do chịu sự
chi phối của đặc điểm thông tin xác thực nên mục đích đối tượng của nó vẫn là
thông tin về người thật, việc thật, sao cho kịp thời nhất, cụ thể nhất, chính xác và hấp
dẫn nhất.
Ký văn học và ký báo chí giống nhau ở chỗ đều tôn trọng tính xác thực và tính
thời sự, nhưng ở ký báo chí tính xác thực phải được đảm bảo ở mức tuyệt đối và tính
thời sự cũng mang tính thật cấp bách có khi hàng ngày, hàng giờ. Ký văn học không
đòi hỏi như vậy. Ngược lại, nó đề ra yêu cầu cao hơn về chất suy nghĩ và tình cảm
cảm của chủ thể.
Trong thực tế của đời sống báo chí và đời sống văn học, thường xuyên xảy ra
quá trình giao thoa, chuyển đổi, chuyển hoá lẫn nhau. Đó là một quy luật của sự vận
động, phát triển. Điều đó không thể hạ thấp vai trò của thể loại, mà ngược lại càng
làm cho chúng phong phú, sinh động hơn.
Văn học và báo chí thường xuyên giao thoa với nhau. Các thể ký văn học và
ký báo chí không chỉ thường xuyên giao thoa với nhau mà còn giao thoa với những

Nội dung Trong thể loại Ký có Ký báo chí và Ký văn học Hãy phân biệt hai loại Ký này

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Trong thể loại Ký có Ký báo chí và Ký văn học Hãy phân biệt hai loại Ký này để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 7 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Trong thể loại Ký có Ký báo chí và Ký văn học Hãy phân biệt hai loại Ký này

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí

  • pdf
  • 106 trang

1

Đại học quốc gia hà nội

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN ĐỨC DŨNG

ĐẶC ĐIỂM VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA KÝ VĂN HỌC VÀ KÝ BÁO CHÍ
Chuyên ngành : LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC
Mã số :
5. 04. 01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
Giáo sư HÀ MINH ĐỨC

HÀ NỘI - 2003

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ thập kỷ 60 sang đến đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, ở nước ta đã
từng có những cuộc bàn luận, tranh luận về những vấn đề xung quanh ký với

2

sự tham gia của nhiều nhà văn và các nhà nghiên cứu nổi tiếng. Đã có nhiều
câu hỏi được đặt ra, trong đó có những câu hỏi rất quan trọng như: Ký có phải
là văn học không? Trong ký có hư cấu không? Mối quan hệ giữa truyện và
ký? Đặc trưng của ký là gì? Liệu có nên phân chia thành ký văn học và ký
báo chí không? v.v...
Những năm sau này, nhiều người vẫn tiếp tục nêu ra những ý kiến bàn
luận. Mặc dù đều thống nhất khẳng định ký là một loại văn học viết về người
thật việc thật nhưng vẫn tồn tại những ý kiến khác nhau khi xác định đặc
trưng của nó. Có ý kiến nhấn mạnh tính chính luận như là là đặc trưng quan
trọng nhất của ký. Ý kiến khác cho rằng đặc trưng quan trọng nhất của ký văn
học là trần thuật về những người thật, việc thật. Một số ý kiến xác định đặc
trưng của ký văn học là ở tính xác thực, tư liệu. Ngoài ra cũng còn những
quan niệm cho rằng không thể xác định được đặc trưng của ký...
Sự không nhất trí về những vấn đề xung quanh ký còn thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác. Có thể lấy ví dụ trong cách sử dụng thuật ngữ. Cũng là để chỉ
“ký” nhưng hiện vẫn còn tồn tại những cách gọi khác nhau. Thông thường
nhất, ta hay gặp cách gọi là “thể ký”. Ngoài ra còn một số tên gọi khác thường
xuyên được sử dụng như “thể loại ký”, “loại ký” v.v... Thậm chí, khi nói về
ký có người chỉ gọi chung chung là “bút ký”. Trong thực tiễn sáng tạo tác
phẩm, có tác giả đã không gọi đúng tên thể loại đối với tác phẩm của mình.
Thực tế nêu trên cho thấy sự phức tạp của vấn đề và điều này xét cho cùng lại
có nguyên do gắn liền với sự năng động của các thể ký trong quá trình phản
ánh hiện thực.
Trong số những câu hỏi đã từng được nêu ra, có lẽ câu hỏi “liệu có nên
phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí không ?” đã gây ra nhiều tranh luận
nhất. Mặc dù vẫn còn những ý kiến cho rằng không thể phân biệt được hai
loại ký nhưng đến những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã cơ bản thống

3

nhất cho rằng đó là một sự phân biệt cần thiết và có thể thực hiện được. Tuy
nhiên, điều đáng chú ý là người ta thường chỉ phân biệt tính chất văn học và
tính chất báo chí trong một số thể loại gần gũi với báo chí như ký sự, bút ký,
bút ký chính luận, tạp văn, tiểu phẩm... Ký báo chí vẫn chưa được xem xét với
tư cách là một loại thể với những đặc điểm khu biệt có thể đối sánh với ký văn
học. Điều này có nguyên nhân ở chỗ: cho đến nay loại thể ký báo chí vẫn
chưa được nhận diện một cách rõ ràng trong hệ thống thể loại báo chí, do đó
những ý kiến phân loại thường chỉ giới hạn trong khu vực các thể ký văn học.
Trong lý luận báo chí nước ta, trước những năm 90 việc nghiên cứu về
ký hầu như chưa có thành quả nào. Mặc dù trong chương trình đào tạo đại học
báo chí cũng có phần dành cho ký, nhưng đó chỉ là sự vận dụng những kết
quả nghiên cứu của lý luận văn học bằng cách giới thiệu một số thể loại được
coi là “gần gũi với báo chí” như bút ký, ký sự, tạp văn, tiểu phẩm... Trong đó,
đặc điểm chung của các thể ký được xác định là “vừa có tính chất văn học,
vừa có tính chất báo chí”.
Hiện nay, các tác phẩm ký đang phát triển rất mạnh mẽ trong nền văn
học và báo chí đổi mới ở nước ta. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một công
trình nghiên cứu nào đề cập đến đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn học và
ký báo chí. Ngay ở thời điểm này, nhiều câu hỏi về những vấn đề có liên quan
đến ký nói chung vẫn chưa được trả lời một cách thoả đáng.
Trong khoảng mười năm qua, chúng tôi đã trình bày quan niệm của
mình trong một số bài viết đăng tải trên các tạp chí, các thông báo khoa học,
trong một số chương của các cuốn sách Viết báo như thế nào, Sáng tạo tác
phẩm báo chí và đặc biệt là trong cuốn Các thể ký báo chí. Trong đó, chúng
tôi cho rằng cần phải nhìn nhận ký báo chí với tư cách là một loại thể tồn tại
độc lập, bình đẳng với các loại thể khác trong hệ thống thể loại báo chí và
độc lập với ký văn học. Tuy nhiên, để có thể giải quyết vấn đề một cách toàn

4

diện, đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu chuyên sâu với một cách tiếp
cận và giải quyết vấn đề bao quát hơn.
Được sự động viên, giúp đỡ của các giáo sư, tiến sỹ và bạn bè đồng
nghiệp, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của giáo sư Hà Minh Đức - người
hướng dẫn luận án, tôi mạnh dạn phát triển đề tài nghiên cứu này. Công việc
này có liên quan trực tiếp tới chuyên môn của tôi - một giảng viên chuyên về
các thể loại báo chí và các thể nằm trong khu vực giao thoa giữa văn học và
báo chí.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận án này không có tham vọng tổng kết toàn bộ những vấn đề đã và
đang đặt ra xung quanh ký văn học và ký báo chí. Với mong muốn đóng góp
một cách nhìn trước những vấn đề hiện vẫn đang gây tranh cãi, bên cạnh việc
trình bày một cách khách quan những quan niệm đã có và những vấn đề đặt
ra, chúng tôi cố gắng trình bày ý kiến riêng của mình từ một góc độ mới.
Để khảo sát những đặc điểm của ký văn học, ký báo chí và mối quan hệ
giữa chúng, trong luận án chúng tôi sẽ lần lượt đề cập đến những nội dung
chủ yếu sau đây:
Một: trình bày khái quát về sự hình thành, phát triển của ký và lịch sử
vấn đề nghiên cứu ký ở Việt Nam với những quan niệm khác nhau, trong đó
đặc biệt chú ý vấn đề ký văn học và ký báo chí.
Hai: khảo sát đặc điểm của các thể ký văn học. Công việc này được
tiến hành trên cơ sở kế thừa thành quả của những nhà nghiên cứu đi trước để
xem xét các thể ký văn học trong bối cảnh của đời sống văn học hiện đại ở
nước ta qua việc khảo sát một số thể ký văn học tiêu biểu như: bút ký, bút ký
chính luận, tuỳ bút, ký sự, phóng sự văn học, nhật ký văn học, truyện ký, hồi
ký, chân dung văn học, tạp văn, tiểu phẩm...

5

Ba: xác định diện mạo hệ thống thể loại báo chí ở nước ta hiện nay,
trong đó có loại thể ký báo chí. Công việc này sẽ tạo cơ sở để triển khai
nghiên cứu những đặc điểm của một số thể ký báo chí như phóng sự, ghi
nhanh, ký chân dung, ký chính luận, nhật ký phóng viên, thư phóng viên và sổ
tay phóng viên...
Bốn: nghiên cứu mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí. Đây là
mối quan hệ vốn có, được hình thành một cách tất yếu trong quá trình phản
ánh về những con người, sự việc sự kiện có thật trong đời sống. Trong bối
cảnh hiện nay, mối quan hệ này vẫn được thể hiện một cách sinh động trên
nhiều khía cạnh, góp phần tạo ra động lực cho sự phát triển của ký trong đời
sống văn học và báo chí hiện đại nước ta.
Toàn bộ những công việc trên nhằm xây dựng một cách nhìn hợp lý, sát
thực hơn đối với các thể ký trong bối cảnh của đời sống văn học và đời sống
báo chí Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là đặc điểm và mối quan hệ giữa
các thể ký văn học và ký báo chí trong bối cảnh của đời sống văn học và đời
sống báo chí hiện nay ở nước ta.
Mặc dù có chung một đối tượng phản ánh và nhận thức là người thật,
việc thật và thường xuyên có sự giao thoa chuyển hoá lẫn nhau nhưng nhìn
chung ký văn học và ký báo chí vẫn có sự khác biệt về đặc trưng loại thể.
Điều đó được thể hiện không chỉ ở những yếu tố như các cấp độ của điển
hình, tính chất và mức độ hư cấu, cảm xúc, suy tưởng, sự chiêm nghiệm của
tác giả, ở những yêu cầu về tính xác thực và tính thời sự... mà còn thể hiện ở
những yếu tố hình thức như thể loại, bút pháp, giọng điệu và kể cả về dung
lượng của tác phẩm...

6

Trong những công trình nghiên cứu trước đây, những đặc điểm và năng
lực của các thể ký báo chí chưa được nhận diện một cách đầy đủ và nhìn
chung chưa có sự phân biệt thực sự giữa ký báo chí với ký văn học. Điều này
có nguyên nhân như đã nói ở trên là các tác giả trước đây thường chỉ xem xét
ký văn học trong sự so sánh với các loại thể văn học. Tuy các ý kiến đều lưu
ý tới mối quan hệ giữa ký văn học với báo chí [hoặc ký báo chí] nhưng nhìn
chung những quan niệm đã trình bày vẫn thường chỉ dừng lại ở chỗ xem xét
tính chất văn học và tính chất báo chí của các thể ký văn học. Hơn nữa, do
trước đây đặc trưng của báo chí thường chỉ được xác định một cách giới hạn ở
tính chất chính luận nên “tính chất báo chí” của ký văn học cũng chỉ được
giới hạn ở đặc điểm này. Nguyên nhân của tình hình trên gắn liền với bối
cảnh của đời sống văn học và đời sống báo chí nước ta những thập kỷ trước.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân do sự phát triển có phần còn chậm của lý luận
báo chí Việt Nam. Trong thực tế, phải đến đầu thập kỷ 90 lý luận báo chí
nước ta mới bắt đầu tiếp cận các thể loại báo chí trên cơ sở hệ thống nhưng
đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi, bàn luận.
Hiện nay, do khái niệm “báo chí” bao hàm nhiều loại hình với những
đặc trưng rất khác biệt như: thông tấn, báo in, báo nói, báo hình, báo ảnh, báo
trực tuyến [báo trên mạng Internet] nên thuật ngữ “ký báo chí” được sử dụng
ở đây chủ yếu là để chỉ các tác phẩm ký báo chí được sử dụng trên các loại
hình báo chí truyền thống có phương thức in ấn, đăng tải gần với văn học chủ yếu là loại hình báo in... Với những tác phẩm được sử dụng trên các loại
hình báo chí gắn với kỹ thuật hiện đại như phát thanh, truyền hình, báo ảnh,
báo trực tuyến... cần phải có những công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có nhiều thuận lợi nhưng cũng
gặp nhiều khó khăn. Thuận lợi lớn nhất là được kế thừa những kết quả quan

7

trọng của các nhà nghiên cứu đi trước về những vấn đề có liên quan tới ký
văn học. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được mục đích đã đề ra cho luận án
này, chúng tôi cho rằng bên cạnh việc dựa vào những thành quả của lý luận
văn học, còn phải kết hợp vận dụng những kết quả nghiên cứu của lý luận báo
chí. Nói cách khác, để xác định những đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn
học và ký báo chí, phải đặt chúng trong mối quan hệ so sánh với tư cách là
hai loại thể thuộc hai hệ thống thể loại khác nhau. Mà muốn vậy - như đã
trình bày ở trên, trước hết phải nhận diện đúng về loại thể ký báo chí trong hệ
thống của nó. Ngoài ra, để có thể làm sáng tỏ những đặc điểm và mối quan
hệ giữa ký văn học, ký báo chí còn phải xem xét đặc điểm của từng thể loại
trong mối quan hệ với những thể loại khác ở bên trong và bên ngoài loại thể
và hệ thống của nó. Đó cũng là con đường của chúng tôi trong việc tiếp cận
để giải quyết đề tài nghiên cứu này. Đây là một đề tài khó, còn nhiều tranh
cãi, lại do các thể ký có nhiều hình thức biểu hiện đa dạng và phức tạp nên
cần phải có những phương pháp nghiên cứu linh hoạt.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi vận dụng kết hợp một số
phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh... Các
phương pháp được vận dụng đều có vai trò quan trọng và tích cực đóng góp
vào kết quả của luận án.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việc xác định một cách đúng đắn những đặc điểm và mối quan hệ giữa
ký văn học và ký báo chí trước hết có liên quan trực tiếp tới việc điều chỉnh
các chương trình đào tạo văn học và báo chí hiện nay. Với các chương trình
đào tạo văn học, cần phải thống nhất một quan niệm về sự phân biệt giữa ký
văn học và ký báo chí. Với các chương trình đào tạo báo chí, việc nhận diện
loại thể ký báo chí trong sự khu biệt với ký văn học và với các loại thể báo chí
khác cũng đang là một yêu cầu bức xúc. Như vậy, công trình nghiên cứu này

8

có thể góp phần giải quyết một bất hợp lý vốn đã từng tồn tại lâu nay trong
các chương trình đào tạo. Rõ ràng là không thể xác định được một cách đầy
đủ những đặc điểm, đặc trưng của ký văn học nếu không đặt nó trong sự so
sánh với ký báo chí và ngược lại. Ngoài ra, công việc này còn có thể có những
tác động trực tiếp đến thực tiễn sáng tạo tác phẩm của các nhà văn, nhà báo và
tạo cơ sở lý luận cần thiết cho việc đánh giá tác phẩm trong những kỳ xét giải
thưởng văn học và báo chí.
6. Cấu trúc của luận án
Trong luận án này, sau Mở đầu, các nội dung chủ yếu được bố trí trong
bốn chương theo trình tự như sau:
Chương 1: Ký và những quan niệm khác nhau
Chương này gồm hai mục. Mục 1 xem xét vài nét về sự hình thành và
phát triển của ký. Mục thứ hai đề cập đến tình hình nghiên cứu ký ở Việt Nam.
Trong mục này, sau khi trình bày một số quan niệm khác nhau, chúng tôi tập
trung vào vấn đề ký văn học và ký báo chí.
Chương 2: Tác phẩm ký văn học
Chương này cũng gồm hai mục. Mục 1 khảo sát đặc trưng của ký văn
học qua việc xem xét năng lực phản ánh hiện thực và nguyên tắc điển hình
hoá của loại văn học này. Phần lớn nội dung của chương được trình bày trong
mục 2 là mục có nhiệm vụ khảo sát các thể ký văn học. Trong đó, sau khi đã
nêu quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi cũng nêu ý kiến
riêng trong việc xác định đặc điểm của một số thể ký văn học tiêu biểu như
bút ký, bút ký chính luận, tuỳ bút, ký sự, phóng sự văn học, nhật ký văn học,
truyện ký, hồi ký, chân dung văn học, tạp văn - tiểu phẩm v.v....
Chương 3: Tác phẩm ký báo chí
Mục 1 của chương này có nhiệm vụ xác định vị trí, vai trò của ký báo
chí trong hệ thống thể loại báo chí. Sau khi đã trình bày quan niệm của mình

9

về hệ thống thể loại báo chí ở Việt Nam, chúng tôi xác định các loại thể báo
chí và mối quan hệ giữa chúng và đặc biệt nhấn mạnh đặc trưng của loại thể
ký báo chí. Mục 2 của chương này khảo sát một số thể loại thuộc loại thể ký
báo chí như phóng sự, ghi nhanh, ký chân dung, ký chính luận, nhật ký phóng
viên, thư phóng viên và sổ tay phóng viên ... Mỗi thể loại sẽ được xem xét
trên các phương diện như sự hình thành và phát triển cùng với những đặc
trưng, đặc điểm thể loại ...
Chương 4: Mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí
Mục 1 của chương này đề cập đến mối quan hệ giữa ký văn học và ký
báo chí trong mối quan hệ giữa văn học và báo chí theo trình tự: xem xét mối
quan hệ giữa văn học và báo chí nói chung và mối quan hệ giữa ký văn học
và ký báo chí nói riêng. Mục 2 đề cập tới những đặc điểm của nền văn học và
báo chí đổi mới và trên cơ sở đó xem xét những xu hướng phát triển của ký
văn học và ký báo chí trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Cuối luận án, sau Kết luận và kiến nghị là Công trình công bố của tác
giả và Tài liệu tham khảo.

10

Chương 1

KÝ VÀ NHỮNG QUAN NIỆM KHÁC NHAU
1.1. VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KÝ
1.1.1. Sự manh nha, định hình và phát triển
Trong quá trình nhận thức và phản ánh hiện thực của con người, những
hình thức ghi chép có tính chất ký đã xuất hiện từ rất sớm, gắn liền với sự
xuất hiện của chữ viết. Ban đầu, việc ghi chép những điều mắt thấy tai nghe
thường lẫn với những truyền thuyết, những huyền thoại lưu truyền trong dân
gian. Đó là một hiện tượng phổ biến trong mọi cuốn sách cổ.
Ở thời kỳ đầu tiên, công việc ghi chép vừa là chép sử vừa là văn học,
đồng thời còn thể hiện những tư tưởng triết học. Đó là thời kỳ “văn - sử - triết
bất phân”. Tuy cho đến nay vẫn chưa có một tài liệu nào khẳng định những
tác phẩm ký đầu tiên đã ra đời ở đâu, nhưng nếu xét từ một thực tế hiển nhiên
là những ghi chép đầu tiên phải gắn liền với sự ra đời của chữ viết thì đó có
lẽ đó là những tác phẩm của Trung Quốc cổ đại như Xuân thu, Tả truyện,
Chiến quốc sách...
Theo giáo sư [viết tắt: GS.] Hà Minh Đức, “trong văn học phương Tây,
văn học sử cũng trích tuyển cả những bài viết có tính chất ký chính luận từ
nguồn sử học của Misơlê [Michelet], Ôguýtanh Chieri [Augustin Tierry], triết
học của Paxcan [Pascal], chính trị của Mirabô [Mirabeau], Vécnhiô
[Vergniaud] v.v”... [36, tr.185,186]. Với sức mạnh là những sự thật được lựa
chọn và phản ánh một cách chân thực, tác phẩm ký là tấm gương phản chiếu
đời sống trong toàn bộ dáng vẻ phức tạp, sinh động vốn có của nó. Ngày nay,

11

CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ
I. BÀI NGHIÊN CỨU:

1. Đức Dũng, Thử phân biệt ký văn học và ký báo chí, Tạp chí Văn học
6 -1994.
2. Đức Dũng, Về hệ thống thể loại báo chí, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền,
9, 10 -1994.
3. Đức Dũng, Các loại thể báo chí , Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền,
11, 12 -1994.
4. Đức Dũng, Phóng sự và viết phóng sự , Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền,
2-1995.
5. Đức Dũng, Mấy suy nghĩ về thể ký trong giảng dạy văn học và giảng dạy
báo chí , Thông báo khoa học của trường đại học Sư phạm Hà Nội,
số 2, 1996.
6. Đức Dũng, Từ chân dung văn học đến ký chân dung, Tạp chí Văn học
3-1996.
7. Đức Dũng, Ghi nhanh - một thể ký báo chí xung kích, Thông báo khoa
học của các trường đại học, 1996.
8. Đức Dũng, Phóng sự một thể loại đứng giữa văn học và báo chí , “Báo
chí những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội,
1997.
9. Đức Dũng, Suy nghĩ về mối quan hệ giữa văn học và báo chí , Tạp chí
Văn học 8-2000.
II. SÁCH:

1. Đức Dũng, Các thể ký báo chí, Nxb Thông tin, 1992, Nxb Văn hoá - Thông
tin tái bản các năm 1996, 1998, 2001.
2. Đức Dũng, Viết báo như thế nào, Nxb Văn hoá- Thông tin, 2001.
3. Đức Dũng, Sáng tạo tác phẩm báo chí, Nxb Văn hoá- Thông tin, 2002.

Tải về bản full

Tác phẩm ký báo chí của nhà báo Phan Quang

  • pdf
  • 130 trang

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------

HOÀNG THU HẰNG

TÁC PHẨM KÝ BÁO CHÍ CỦA
NHÀ BÁO PHAN QUANG

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH BÁO CHÍ

HÀ NỘI - 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------

HOÀNG THU HẰNG

TÁC PHẨM KÝ BÁO CHÍ CỦA
NHÀ BÁO PHAN QUANG

Chuyên ngành

: Báo chí học

Mã số

: 60.32.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH BÁO CHÍ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. HÀ MINH ĐỨC

HÀ NỘI - 2009

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3

4. Phương pháp nghiên cứu

4

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

6. Kết cấu của luận văn

5

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ

6

THỂ LOẠI KÝ BÁO CHÍ VÀ PHONG CÁCH NGÔN
NGỮ BÁO CHÍ
1.1 Thể loại ký báo chí

6

1.1.1 Sự xuất hiện và phát triển của thể loại ký báo chí

6

1.1.2 Đặc trưng của thể loại ký báo chí

11

1.1.3 Sự khác biệt giữa ký báo chí và ký văn học

14

1.2 Khái niệm về phong cách ngôn ngữ và phong cách

18

ngôn ngữ báo chí
1.2.1 Phong cách và phong cách ngôn ngữ

18

1.2.2 Phong cách ngôn ngữ báo chí

21

Chương 2: NỘI DUNG PHẢN ÁNH VÀ NGHỆ THUẬT

31

VIẾT KÝ BÁO CHÍ CỦA PHAN QUANG
2.1 Ký báo chí trong sự nghiệp viết báo của Phan Quang

31

2.1.1 Cuộc đời - sự nghiệp báo chí của Phan Quang

31

2.1.2 Ký báo chí - thể loại tiêu biểu nhất của Phan Quang

35

2.2 Nội dung phản ánh trong tác phẩm ký của Phan Quang

37

2.2.1 Về kinh tế

39

2.2.2 Về xã hội

43

2.2.3 Về cảnh sắc đất nước và con người Việt Nam

48

2.2.4 Về ứng xử văn hoá của Việt Nam với nước ngoài

57

2.2.5 Về người nổi tiếng

62

2.3 Nghệ thuật thể hiện tác phẩm ký của nhà báo Phan Quang

67

2.3.1 Nghệ thuật đặt tên [rút tít] tác phẩm

67

2.3.2 Nghệ thuật kết cấu tác phẩm

69

2.3.3 Ngôn ngữ tác phẩm

72

2.3.4 Cái tôi của tác giả

76

Chương 3: ĐẶC TRƯNG VÀ HIỆU QUẢ THÔNG TIN

83

TỪ PHONG CÁCH VIẾT KÝ CỦA PHAN QUANG
3.1 Đặc trưng riêng về phong cách viết ký báo chí của

83

Phan Quang
3.1.1 Giàu chất trí tuệ

83

3.1.2 Đậm chất văn chương

86

3.1.3 Con đường hình thành phong cách viết ký riêng của

91

Phan Quang
3.1.4 Thử so sánh phong cách ký báo chí của Phan Quang

95

với các phong cách khác
3.2 Hiệu quả ký báo chí của nhà báo Phan Quang

98

KẾT LUẬN

111

Tài liệu tham khảo

115

Phụ lục

MỞ ĐẦU
1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài
Từ khi ra đời và phát triển đến nay, báo chí luôn vận động trong sự đổi
mới cả nội dung và hình thức thể hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày
càng cao của công chúng. Điều đó làm hình thành một hệ thống thể loại riêng
của báo chí. Trong đó, mỗi thể loại có cách thức riêng, lợi thế riêng trong việc
phản ánh hiện thực khách quan. Đồng thời, nó cũng làm xuất hiện những tác
giả, nhà báo không ngừng sáng tạo trong việc sử dụng thể loại báo chí với
ngôn ngữ, giọng điệu mang đặc trưng riêng của mình để tạo ra những tác
phẩm báo chí luôn tươi mới cả về thông tin thời sự, cả về phong cách thể hiện
nhằm hấp dẫn công chúng.
Thể loại ký báo chí ra đời đáp ứng những nhu cầu đó và phản ánh hiện
thực sôi động của cuộc sống. Thế mạnh của thể loại ký là thông tin kịp thời,
chân xác, toàn diện và có chiều sâu. Ký có khả năng bao quát cuộc sống, phản
ánh từ những sự kiện trọng đại đến nét sinh hoạt đời thường trong mọi lĩnh
vực chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội. Ký theo sát diễn biến của đời sống,
nhạy bén với những sự kiện mới mẻ trong dòng thời sự, có khả năng phát hiện
hướng vận động của hiện thực. Với tất cả những khả năng trên, ký trở thành
nhóm thể loại xung kích không thể thiếu trên mặt trận văn hoá thông tin. Nhà
báo không chỉ còn thích viết ký mà còn “phải” viết ký để truyền tải thông tin
đến độc giả một cách sinh động, kịp thời và mang lại hiệu quả cao. “Hiện
thực sôi động của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng
xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta đã tạo điều kiện cho văn học và báo chí thu
về những “mùa ký” bộn bề”[4, tr. 28].
Bác Hồ đã nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút,
trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”[29; tr. 616]. Có thể nói trong cuộc đấu

1

tranh giải phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc, nền báo chí cách mạng đã sản
sinh ra những người con ưu tú. Với tinh thần trách nhiệm cao trước xã hội,
trước nhân dân, họ tìm thấy trong thực tiễn hào hùng những nguồn đề tài vô
tận, chất liệu cuộc sống tươi sáng, tạo nên những tác phẩm báo chí có chất
lượng. Những tác phẩm đó góp phần không nhỏ trong việc cổ vũ, khích lệ
những nhân tố mới, đấu tranh chống tiêu cực, đem đến cho nhân dân sự tin
tưởng vào đường lối, chủ trương cách mạng đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Nhà báo Phan Quang là một trong số ít những người con ưu tú đó. Là một nhà
báo trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, hơn 60 năm hoạt động báo chí,
ông là một trong số ít những cây bút tiêu biểu đã hình thành phong cách riêng.
ở thể loại nào, nhà báo Phan Quang cũng có một khối lượng lớn tác phẩm và
mang nhiều giá trị thực tiễn. Ông viết nhiều thể loại: bình luận, ghi chép, tiểu
phẩm… nhưng thành công hơn cả là ở thể loại ký.
Thực tiễn hoạt động báo chí đã cho thấy nhà báo Phan Quang đã có
những thành công, sáng tạo đặc biệt trong hình thức thể hiện thông tin với thể
loại ký báo chí. Vì thế, có thể thấy rằng, ông đã tạo cho mình một phong cách
viết ký riêng trong làng báo chí cách mạng Việt Nam. Và những thành công
đó của ông được tạo nên bởi yếu tố nào, hiệu quả của nó sẽ ra sao, điều đó
giúp ích gì cho những thế hệ làm báo lớp sau? Góp phần trả lời câu hỏi này,
trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, người viết quyết định chọn đề tài nghiên
cứu: TÁC PHẨM KÝ BÁO CHÍ CỦA NHÀ BÁO PHAN QUANG.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu về tác phẩm ký báo chí của Phan Quang, cho đến nay, mới
chỉ có khoá luận tốt nghiệp cử nhân báo chí của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Hải, sinh viên khoa báo chí trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn với đề
tài Phong cách báo chí Phan Quang [kháo sát các tác phẩm ký từ năm 1975 -

2

1982] đề cập đến tác phẩm ký báo chí của nhà báo Phan Quang. Chưa thấy
một học viên cao học hoặc nghiên cứu sinh báo chí nào nghiên cứu các tác
phẩm ký của Phan Quang.
Đã có một số khóa luận cử nhân báo chí nghiên cứu về tác phẩm ký báo
chí như Thể loại ký trên báo Văn nghệ năm 1995 và nửa đầu năm 1996 của
tác giả Mai Lan Anh, Ký trên báo Người Hà Nội năm 1999 và 3 tháng đầu
năm 2000 của tác giả Hoàng Thị Bích Phú, Ký báo chí viết về kinh tế – xã hội
năm 1999 của tác giả Trần Thị Vân…
Đã có một số khóa luận cử nhân báo chí và luận văn thạc sỹ báo chí đã
nghiên cứu về phong cách ngôn ngữ báo chí như Tìm hiểu phóng sự Huỳnh
Dũng Nhân của tác giả Nguyễn Thị Hồng Cúc, Phong cách ngôn ngữ nhà báo
Hữu Thọ của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung, Phong cách báo chí Lý Sinh Sự
của tác giả Nghiêm Thị Thu Hà, Phong cách hài trong các tiểu phẩm báo chí
hiện đại qua ba nhà báo Lý Sinh Sự, Lê Thị Liên Hoan, Thảo Hảo của tác giả
Trần Xuân Thân…
Cũng có rất nhiều các bài báo, các tài liệu đã đề cập đến tác phẩm ký
của nhà báo Phan Quang. Tuy nhiên, các tài liệu đó còn phân tán và chưa có
hệ thống đầy đủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là tìm hiểu và nghiên cứu những nét riêng chủ
yếu về phong cách viết ký báo chí của Phan Quang thể hiện qua các tác phẩm
ký của ông. Khảo sát và phân tích những điểm đã làm được và những điểm
chưa làm được của phong cách viết ký Phan Quang. Thông qua đó, luận văn
có thể tổng kết, rút ra bài học cho hoạt động viết thế loại ký báo chí.
Luận văn cũng hy vọng tìm hiểu và đánh giá hiệu quả thực tiễn của
phong cách viết ký báo chí độc đáo này nhằm góp phần thúc đẩy hơn nữa quá

3

trình gia tăng sáng tạo trong hoạt động báo chí để thông tin hiệu quả hơn.
Đồng thời, luận văn cũng hy vọng làm tài liệu cho những ai quan tâm nghiên
cứu và tìm hiểu, học hỏi phong cách viết ký của nhà báo Phan Quang.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Thực tế hiện nay những công trình nghiên cứu về lý luận báo chí nói
chung còn khiêm tốn, đặc biệt là những công trình nghiên cứu về các tác giả,
các cây bút nổi tiếng hiện nay như nhà báo Phan Quang là rất hiếm [như đã
trình bày]. Cho nên, nguồn tư liệu phục vụ cho việc triển khai đề tài mang
tính kế thừa là rất hạn chế.
Vì thế, luận văn đi từ phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí
để định hướng phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là phân tích tổng hợp, so
sánh, phỏng vấn sâu. Từ những luận điểm chung về phong cách, sự sáng tạo
linh hoạt trong quá trình tác nghiệp của các nhà báo, những lý luận về thể loại
báo chí, về ký báo chí, sẽ soi rọi vào các tác phẩm cụ thể của nhà báo Phan
Quang, phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm đưa ra những kết luận mang tính
khái quát.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nhằm thể hiện được sự sinh động, độc đáo trong phong cách viết ký
báo chí của Phan Quang, tác giả tập trung khảo sát các tác phẩm ký thông qua
các tuyển tập của nhà báo Phan Quang: Tuyển tập Phan Quang [tập 1, tập
2, tập 3], Những ngƣời tôi quý mến, chân dung văn học và báo chí, Thơ
thẩn Paris, Bên mộ vua Tần, Phác hoạ chân dung, Tuyển tập mƣời năm
[1998 – 2008]. Đây là những tuyển tập bao gồm các bài ký trong suốt sự
nghiệp báo chí của Phan Quang, đăng trên báo Nhân dân và một số tờ báo
khác, đã được tuyển chọn.

4

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Tài liệu tham khảo, Phụ lục
luận văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thể loại ký báo chí và phong
cách ngôn ngữ báo chí.
Chương 2: Nội dung phản ánh và nghệ thuật viết ký báo chí của
Phan Quang.
Chương 3: Đặc trưng và hiệu quả thông tin từ phong cách viết ký của
Phan Quang.

5

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỂ
LOẠI KÝ BÁO CHÍ VÀ PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO CHÍ

1.1 Thể loại ký báo chí
1.1.1 Sự xuất hiện và phát triển của thể loại ký báo chí
* Trên thế giới
Thể ký – ngay từ khi xuất hiện đã được nhìn nhận như một hình thức
ghi chép về sự thật trong đời sống. Từ điển văn học định nghĩa ký là “một loại
hình văn học bên cạnh thơ, tiểu thuyết và kịch, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn
xuôi như bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phóng sự, ký sự, tuỳ bút, tự truyện, tạp
văn, bút ký chính luận… Ký phản ánh sự việc và con người có thật trong cuộc
sống” [31, tr. 365]. Nhưng cho đến nay, chưa có một tài liệu nào nói chính
xác sự ra đời của thể loại ký.
Trong văn học nói chung, những hình thức ghi chép mang tính chất ký
đã xuất hiện từ rất sớm. Thời kỳ ban đầu, ký bị lẫn vào những hình thức ghi
chép khác của sử học, triết học, chính trị... Thời cổ đại, những tác phẩm ký đã
ra đời. “Sử ký của Tư Mã Thiên viết ra từ thế kỷ thứ nhất trước công nguyên
ngoài những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, triết học... còn được coi là một
trong những tác phẩm ký vĩ đại nhất”[32, tr. 120]. Sử ký Tƣ Mã Thiên được
coi là một tuyệt tác văn học trường tồn cùng thời gian cho đến tận ngày nay.
Nó như một viên gạch đặt nền móng vững chắc để thể ký phát triển rực rỡ sau
này. Tuy nhiên, từ thế kỷ XVII trở về trước, thể ký đã có sự hiện diện trong
đời sống văn học và báo chí nhưng chưa có nhiều tác phẩm. Các tác phẩm
mới chỉ là sự ghi chép lịch sử hay trình bày quan điểm triết học. Lúc này, thể
ký chưa thực sự thể hiện được tối đa sức mạnh và vị thế của mình trong đời
sống văn học và báo chí.

6

Theo tài liệu nghiên cứu lý luận văn học, thể ký bắt đầu hình thành ở
phương Tây từ khi chủ nghĩa Khai sáng xuất hiện vào thế kỷ XVIII. Nhưng
nhiều tác phẩm mới chỉ dừng lại ở sự ghi chép lịch sử hoặc ở sự trình bày
quan điểm triết học. Năm 1580, Môngtenhơ, nhà triết học, nhà văn Pháp thời
đại Phục hưng, đã cho xuất bản tập Thể nghiệm. Tác phẩm này là sự ghi chép
những suy nghĩ, kinh nghiệm của bản thân tác giả. “Điều đặc biệt là
Môngtennhơ không trình bày những quan điểm triết học của mình bằng một
thứ tư duy và văn phong lý luận trừu tượng mà bằng tư duy hình tượng với
văn phong mềm mại, uyển chuyển” [31, tr. 467]. Như vậy, trước thế kỷ
XVIII, thể loại ký đã xuất hiện và đặt nền móng cho thể loại ký phát triển rực
rỡ sau này. Phải đến thế kỷ XVIII, “người ta mới thấy ký văn học xuất hiện
nhiều trên một số tạp chí trào phúng [ví như tờ Người ba hoa và tờ Khán giả
của Adison và Stil ở Anh, tờ Họa sỹ của Novinkov ở Nga] và đạt được sự kết
tinh nghệ thuật trong sáng tác của các nhà khai sáng, như Những bức tranh
Paris của Mersier, Tự thú của Didrot” [54, tr. 356]. Đây là những tác phẩm
đã vạch trần bản chất nhà nước phong kiến và ủng hộ cho những tư tưởng
cách mạng Pháp.
Sang thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa hiện thực xuất hiện và thành một
phong trào sáng tác rầm rộ, thì ký văn học đạt tới sự phát triển cực thịnh.
“Nhiều nhà văn hiện thực kiệt xuất như Dickens, Tharcrey, Balzac, Turgenev,
Nescrasov, Uspenski, Korolenko đều viết ký và để lại những tác phẩm bất hủ”
[54; 356]. Tiểu thuyết gia người Anh Tharcrey đã viết tuỳ bút Những kẻ thời
thượng nước Anh. émile Zola, là một nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp thế
kỉ XIX, người được coi là nhà văn tiên phong của chủ nghĩa tự nhiên
[naturalism] đã để lại cho nền văn học và báo chí những tác phẩm ký mang
tính hiện thực rõ rệt. Ngày 13/1/1898, émile Zola viết bài báo nổi tiếng Tôi kết
tội [J'accuse] trên tờ L'Aurore của Georges Clemenceau, bài báo đã gây tiếng

7

vang lớn và thúc đẩy quá trình xét xử lại vụ án Dreyfus. Bài báo như lời kết án
đanh thép nhà cầm quyền Pháp đương thời chà đạp lên số phận của con người.
Những biến động đầu thế kỷ thứ XX đã có những tác động sâu sắc đến
đời sống văn học và đời sống báo chí ở trên thế giới, tạo ra sự phát triển có
tính chất bùng nổ của thể loại phóng sự, ký. Với khả năng phản ánh hiện thực
một cách sốt dẻo, nhạy bén phóng khoáng trong lựa chọn chất liệu và phổ
biến rộng rãi trong công chúng, thể ký đã trở thành thể loại đầu tầu của báo
chí. Trong tập ký Phác thảo về nƣớc Anh [1827 - 1828], tác giả Hainơ đã coi
nền kinh tế công nghiệp là hình thái sản xuất tiến bộ nhất, đồng thời chỉ trích
sâu sắc xã hội Anh, nơi có những kẻ rất giàu nhưng đông đảo nhân dân lao
động thì nghèo. Đặc biệt, không thể không nhắc tới nhà văn Macxim Gorki
với hai tập ký Những cuộc phỏng vấn của tôi và ở Mỹ đã khắc hoạ xã hội
Mỹ bằng ngòi bút châm biếm và sắc sảo. Nhà báo Mỹ John Reed với thiên
phóng sự Mười ngày rung chuyển thế giới đã thu hút sự chú ý của toàn nhân
loại. Tác phẩm đã tái hiện lên bức tranh sinh động và chính xác về cuộc cách
mạng tháng Mười. Đây cũng là tác phẩm đầu tiên công bố cho nhân dân biết
về sự thật của cuộc cách mạng vĩ đại này. Nhà báo Wilfred Burchett người úc
đã xuất bản tập phóng sự Việt Nam, cuộc kháng chiến thứ hai năm 1965
bằng tiếng Anh viết về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Khi mất đi, ông
để lại một tập hồi ký về cuộc đời phóng viên trong suốt 40 năm của mình,
cung cấp cho độc giả những thông tin súc tích và độc đáo liên quan đến
những sự kiện và nhân vật tiêu điểm của thế giới.
* Ở Việt Nam
Theo sách nghiên cứu lý luận văn học, “nếu tính cả bi ký, tự, bạt, thì ở
Việt Nam, ký xuất hiện từ thời Lý, Trần. Đến đời Lê, Nguyễn, ngoài các thể có
hình thức giống như ký Trung Quốc, như ký sự, lục, chí, tùy bút, ký văn học

8

có sự phá cách thể hiện sự sáng tạo phong phú và đạt được những thành tựu
đột xuất với các tập Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh ký sự
của Lê Hữu Trác”[54, tr. 357]. Trong giai đoạn được coi là đỉnh cao của văn
học dân tộc thuộc ý thức hệ phong kiến này đã xuất hiện một số tác phẩm ký
xuất sắc, tiêu biểu cho mảng văn xuôi giàu tính hiện thực. Trong đó, tác phẩm
Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái đầu thế kỷ XIX được coi là
một thể ký sự lịch sử, “được đánh giá là tác phẩm đồ sộ nhất và viết có nghệ
thuật nhất của nền văn học dân tộc ta thời kỳ trung đại”[4, tr. 23]. Các tác
giả trong Ngô Gia văn phái đã tái hiện lại một không khí lịch sử sống động,
có ý nghĩa khái quát cao để chỉ ra bản chất của quá trình suy tàn không có gì
cưỡng lại được của chính quyền phong kiến lúc bấy giờ.
Nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc lại khẳng định tác phẩm Chuyến đi Bắc
kỳ năm ất Hợi của Trương Vĩnh Ký viết năm 1876 “đã mở đầu cho thể loại
văn hồi ký, ký sự tiếng Việt”[4; tr. 25]. Từ năm 1942, nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Phan cho rằng: “những tác phẩm ký bằng Việt văn ở nước ta được mở
đầu bằng những bài viết của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trong các năm 1915,
1916, 1917 như các bài Luận về ăn ngon, Thằng người ngây cưỡi con ngựa hay
và nhiều bài khác của nhà thi sĩ này đăng trong Đông Dương tạp chí” [4, tr.26].
Trong dòng văn học và báo chí cách mạng, những tác phẩm ký đầu tiên
đã ra đời từ những năm 20 của thế kỷ XX, được đánh dấu bằng những bút ký
chính luận xuất sắc của Nguyễn ái Quốc. Những tác phẩm như Bản án chế độ
thực dân Pháp, Khai hoá giết người của Người được coi là những tác phẩm
ký mẫu mực. Đó là những tác phẩm không chỉ phục vụ rất kịp thời và hiệu
quả mục đích cách mạng, mà nó còn đặt nền móng vững chắc cho các sáng
tác văn học cách mạng Việt Nam sau này.

9

Những năm 1930-1945, thể ký để lại dấu ấn với những tác phẩm tiêu
biểu như Việc làng, Tập án cái đình của Ngô Tất Tố đăng trên các báo Hà Nội
tân văn và Con Ong, Ngõ hẻm ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp, Tôi kéo xe của
Tam Lang, Vỡ đê, Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng...
Những tác phẩm ký sắc sảo này đã chuyển tải một cách bao quát và chi tiết
từng góc cạnh của cuộc sống hiện thực xã hội trước cách mạng Tháng Tám.
Sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, thể ký càng ngày càng khẳng định
vị thế của mình bằng việc đóng góp những tác phẩm xuất sắc cho đời sống
văn học và báo chí. Không thể không nhắc tới những nhiều tác phẩm ký có
giá trị như Truyện và ký sự của Trần Đăng, ở rừng của Nam Cao, Ký sự Cao
Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Vỡ tỉnh của Tô Hoài, Sống như anh của Trần
Đình Vân, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Những ngày nổi giận của
Chế Lan Viên, Họ sống và chiến đấu của Nguyễn Khải, Đường lớn của Bùi
Hiển, Miền đất hứa của Nguyễn Sinh và Vũ Kì Lân, Rất nhiều ánh lửa của
Hoàng Phủ Ngọc Tường… Đây thực sự là những tác phẩm ký đã để lại dấu ấn
sâu đậm cho độc giả văn học và báo chí.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI diễn ra năm 1986, sự đổi
mới và phát triển toàn diện của đất nước kéo theo sự phát triển của văn học và
báo chí. Thể ký đã thực sự đóng góp to lớn vào sự phát triển và đổi mới của
báo chí. Ký báo chí phản ánh đời sống hiện thực vận động không ngừng,
khẳng định tính chân thực ngày càng cao của báo chí. Ký báo chí cũng được
coi là một dấu hiệu đáng tin cậy của nền văn học và báo chí giàu tính hiện
thực và tính nhân dân. Nền báo chí cách mạng Việt Nam đã xuất hiện nhiều
cây bút ký sắc nét như Thép Mới, Phan Quang… Đã có nhiều cuộc thi viết ký
được tổ chức với quy mô lớn, thu hút đông đảo các nhà văn nhà báo tham gia
làm cho những tác phẩm ký ngày càng phát triển nở rộ. Cuộc thi viết ký năm
1993 của báo Văn nghệ đã bội thu với những tác phẩm đặc sắc như Người

10

không cô đơn của Minh Chuyên, Khởi sắc Quỳnh Lưu của Đặng Văn Ký,
Thành phố chỉ sống 60 ngày của Nguyễn Quang Thiều.
Tóm lại, thể ký góp phần không nhỏ với sự phát triển của nền báo chí
Việt Nam. Nó khẳng định tính chân thực ngày càng cao của báo chí hiện đại.
1.1.2 Đặc trưng của thể loại ký báo chí
Từ khi ra đời, thể ký đã có rất nhiều định nghĩa và khái niệm khác
nhau. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện
Ngôn ngữ học xuất bản năm 1992, “Ký là một thể văn xuôi viết về người thực
việc thực có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực ở mức cao nhất”.
Theo sách Thuật ngữ nghiên cứu văn học, thể loại ký được xem là
“một loại hình văn học tái hiện cuộc sống qua sự ghi chép, miêu tả người
thật, việc thật… Hình tượng của ký có địa chỉ của nó trong cuộc sống. Do đó,
tính chính xác tối đa là đặc trưng cơ bản của ký” [51, tr. 27].
Theo Từ điển văn học của nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm
1984, ký là “một loại hình văn học bên cạnh thơ, tiểu thuyết và kịch, gồm
nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi như: bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phóng sự,
tùy bút, tự truyện, tạp văn, bút ký chính luận… Ký phản ánh những sự việc và
con người có thật trong cuộc sống”[31, tr. 365].
GS. Hà Minh Đức định nghĩa: “Ký văn học là thể loại cơ động, linh
hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thức ở các thế trực tiếp nhất. Tác
phẩm ký vừa có khả năng đáp ứng được yêu cầu bức thiết của thời đại, đồng
thời vẫn giữ được tiếng nói vang xa, sâu sắc của nghệ thuật” [11, tr. 184].
Như vậy, trong văn học, ký là một thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén
trong việc phản ánh hiện thực ở cái thể trực tiếp nhất, ở những nét sinh động

11

và tươi mới nhất. Nó giúp nhà văn khắc phục được tính bảo thủ truyền thống
trong thi pháp để có thể đón nhận sự đa dạng và phong phú của đời sống.
Trong báo chí, ký tạo ra một không gian sáng tạo giúp tác giả có thể
truyền tải thông tin một cách sinh động và hấp dẫn nhất. Ký báo chí là một
trong những thể loại khó đối với người cầm bút nhưng lại không kém phần
hấp dẫn và quan trọng. Đây cũng là một trong những thể loại báo chí được
người đọc ưa thích.
Như vậy, các tác phẩm thuộc thể loại ký báo chí luôn có xu hướng vượt
ra ngoài lối văn thông tấn. Ký báo chí mềm mại và linh hoạt hơn các thể loại
báo chí khác. Không chỉ trình bày các sự kiện, thể ký báo chí còn chú ý hơn
đến con người và phản ánh từ góc độ con người.
Theo PGS. TS Đinh Hường, các thể loại báo chí hiện nay được phân
chia thành ba nhóm sau:
- Nhóm thể loại báo chí thông tấn [gồm Tin, Phỏng vấn, Tường thuật]
với tính trội là thông tin sự kiện có yếu tố bình luận mức độ.
- Nhóm thể loại báo chính luận [gồm xã luận, bình luận, chuyên luận,
điều tra, bài phê bình…] với tính trội là thông tin lý lẽ, chất trí tuệ,
tư duy, lý luận, lý lẽ, hùng biện trong tác phẩm.
- Nhóm thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật [gồm phóng sự báo
chí, ký báo chí, tiểu phẩm báo chí, câu chuyện báo chí, ghi nhanh…]
với tính trội là thông tin sự kiện, lý lẽ và thẩm mỹ. [24, tr.13-16].
Việc phân chia các thể loại báo chí theo ba nhóm như trên chủ yếu dựa
vào đặc điểm và tính trội của từng thể loại. Cách phân chia này cũng chỉ
mang tính tương đối bởi các thể loại luôn có sự giao thoa, chuyển hoá, bổ
sung, hỗ trợ lẫn nhau. Với tư cách là một thể loại thuộc nhóm thể loại chính

12

luận, nghệ thuật, ký báo chí mang những đặc điểm chung nhất của nhóm. Đó
là sự kết hợp giữa yếu tố chính luận của báo chí [tư liệu, số liệu, sự kiện, nhân
vật có thật, chất lý luận, hùng biện…] với các yếu tố của văn học nghệ thuật
[ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc, thái độ, các thủ pháp so sánh…] giúp tác phẩm
vừa thuyết phục công chúng vừa sinh động, mềm mại, hấp dẫn. Ngoài những
đặc điểm bao trùm của nhóm thể loại chính luận - nghệ thuật trên, ký báo chí
có những đặc trưng riêng biệt.
Đặc trưng đầu tiên của thể loại ký báo chí là trung thành với sự thật
một cách tối đa. Trong thể loại ký, tính xác thực, tư liệu xác thực được coi là
nguyên tắc hàng đầu. Thể loại này phản ánh về những vấn đề, sự kiện, con
người có thật, điển hình và có ý nghĩa xã hội. Trong Ký viết về chiến tranh và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Bôrit Pôlêvôi đã khẳng định: “Một bài ký hay quả
thật là một bài có đủ mọi đặc trưng của thể loại báo chí thuần tuý, nó hết sức
cụ thể, tài liệu đều là sự thật chân chính. Những nhân vật tạo nên phải là
những con người có thật trong cuộc sống hiện thực, những sự việc miêu tả
phải dính chặt với địa điểm giống như người ta thường nói: ký có địa chỉ
chính xác của nó”. Ký không chỉ coi sự thật là đối tượng phản ánh mà còn là
mục đích đối tượng. Thể loại ký luôn bám sát những sự kiện trong đời sống
xã hội nên mang tính thời sự cao.
Đặc trưng tiếp theo và cũng là đặc trưng quan trọng nhất của thể
loại ký báo chí là tác giả xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm với nhiệm vụ trần
thuật về người thật, việc thật, cũng là nhân chứng thẩm định hiện thực. “Từ
sự thật của đời sống xã hội đến tác phẩm ký, cuộc sống vừa giữ những phẩm
chất cơ bản của điển hình xã hội lại vừa tiếp nhận thêm sự sáng tạo mới” [11,
tr.183]. Cái tôi – tác giả xuất hiện với tư cách là người khám phá sự kiện hoặc
kết nối dữ liệu, chi tiết trong tác phẩm. Tác giả cũng có thể xuất hiện với tư
cách là người dẫn truyện. Vai trò của cái tôi trần thuật ở đây cũng rất quan

13

trọng. Nó góp phần đảm bảo tính xác thực của đối tượng được miêu tả. Cái tôi
trần thuật cũng có thể là cái tôi nhân chứng, thẩm định hiện thực và đưa ra
tiếng nói khách quan trước hiện thực. Những ý kiến thẩm định đó phải dựa
trên cơ sở những chi tiết, sự việc, sự kiện mà nhà báo trực tiếp chứng kiến.
Công chúng luôn được tiếp xúc với sự thật và sự thật được trình bày một cách
trung thực thông qua các tác phẩm ký báo chí. Cái tôi trần thuật là chủ thể
sáng tạo nên trong tác phẩm ký báo chí có thể chứa đựng yếu tố cảm xúc.
Những tình cảm, suy nghĩ, thái độ của nhà báo rất quan trọng trong tác phẩm
ký. Nhưng những cảm xúc đó phải xuất phát từ tư duy logic, khách quan để
đánh giá sự kiện. Nếu trong ký báo chí không có những cảm xúc của người
viết, tác phẩm đó chỉ đơn thuần là bài báo ghi chép sự kiện.
Đặc trưng cuối cùng của thể loại là ký báo chí là có kết cấu co giãn,
linh hoạt, bút pháp giàu chất văn học trong việc phản ánh và thẩm định hiện
thực, ngôn ngữ thông tin thời sự giàu hình ảnh và có khả năng biểu cảm cao.
Tác giả có thể sử dụng những biện pháp nghệ thuật của văn học trong ký báo
chí. Nhờ đó, thông tin của cuộc sống được chuyển tải một cách sinh động
hơn. Người viết không bị gò theo bất kỳ khuôn mẫu cứng nhắc nào. Do đó,
tác phẩm ký báo chí phản ánh khách quan hơn trước hiện thực muôn màu
muôn vẻ, đúng tiến trình diễn biến phát sinh và kết quả có thực của nó. Điều
đó lý giải tại sao thể loại ký lại hấp dẫn, lôi cuốn công chúng đến thế.
Với những đặc trưng trên, ký báo chí đã tạo cho mình một phong cách,
một diện mạo riêng, không thể hoà lẫn với các thể loại báo chí khác. Có thể
khẳng định, ký thực sự là một thể loại báo chí mang hiệu quả thông tin cao.
1.1.3 Sự khác biệt giữa ký báo chí và ký văn học
Xung quanh sự tồn tại và phát triển của ký, trong những vấn đề đã từng
được nêu ra từ cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, có một vấn đề

14

đã gây ra nhiều ý kiến khác nhau. Đó là, liệu có nên phân biệt ký văn học và
ký báo chí hay không? Trả lời câu hỏi này cũng có những quan niệm trái
ngược nhau. Có ý kiến cho rằng sự phân chia đó là cần thiết. Tuy nhiên, cơ sở
phân chia lại ở chất lượng nghệ thuật. Theo quan điểm này thì ký báo chí là
những bài ký có chất lượng nghệ thuật thấp hoặc không có nghệ thuật mà chỉ
đơn giản là cung cấp thông tin đối với công chúng, còn ký văn học có chất
lượng nghệ thuật cao hơn. Ngược lại với quan niệm trên, lại có những người
cho rằng không nên có sự phân chia đó. Theo họ, thực ra thì bản chất của ký
chỉ có một. Nếu có sự khác nhau thì lại là ở chỗ: nhà văn viết ký không giống
với nhà báo viết ký.
Ký báo chí được đánh giá là rất gần với ký văn học, nhưng có rất nhiều
đặc điểm để phân biệt ký văn học và ký báo chí. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa
ký văn học và ký báo chí chỉ là tương đối.
Ký văn học là một thể loại tái tạo hiện thực khách quan thông qua cảm
xúc thẩm mỹ. Mặc dù cũng có điểm xuất phát từ hiện thực, song ký văn học
cho phép tác giả sử dụng thủ pháp hư cấu. Sự hư cấu ở đây không có nghĩa là
sự thêm thắt hay bịa đặt vô căn cứ. Về vấn đề này, GS. Hà Minh Đức cho ý
kiến: “Trong tác phẩm ký văn học, “hư cấu nghệ thuật” được vận dụng có
giới hạn trong khuôn khổ người thật việc thật và người viết có thể hư cấu ở
những thành phần không xác định” [11, tr. 190]. Trên cơ sở hiểu biết được
cái lõi của sự kiện và tính chất, người viết vẫn có thể bồi đắp thêm những chi
tiết khác miễn là vẫn giữ được tính xác thực của câu chuyện và không làm
mất lòng tin ở người thưởng thức. Ngược lại, ký báo chí lại đòi hỏi tính xác
thực được đảm bảo một cách tối đa. Vì thế ký báo chí không chấp nhận hư
cấu dưới bất kỳ hình thức nào. Hư cấu một chi tiết sai sẽ làm hỏng cả bài báo.
Sự kiện, nhân vật được tác giả trình bày như tự thân nó vốn có.

15

Là một thể loại xung kích trong hệ thống thể loại báo chí, bản thân tác
phẩm ký đã mang tính thời sự. Ký báo chí thông tin về những sự kiện nóng
hổi, tạo cơ sở cho nhận thức, tư duy và hành động. Với ý nghĩa đó, nó góp
phần quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm, nâng cao hiệu quả báo chí.
Trong khi đó, ký văn học lại không đòi hỏi tính thời sự cao như ký báo chí.
Nhà báo thẩm định sự kiện, vấn đề, con người trên cơ sở cái tôi trần
thuật, cái tôi lôgic. Cái tôi trong ký báo chí là cái tôi nhân chứng cực kỳ tỉnh
táo và đầy lý trí, giàu lý lẽ. Cái tôi trong tác phẩm giúp nhà báo đưa ra tiếng
nói đúng đắn, xem xét vấn đề bằng tư duy logic dựa trên một loạt các sự kiện
xác thực. Nó cũng giúp nhà báo truyền đạt thông tin một cách hấp dẫn hơn
các thể loại báo chí khác. Từ đó, nhà báo cũng có thể đưa ra giải pháp cho
những vấn đề mình đề cập. Cái tôi thể hiện trong ký văn học lại giàu cảm xúc
thẩm mỹ và sự đồng cảm. Dường như cảm xúc của cái tôi và cái ta trong tác
phẩm ký văn học hoà nhập làm một.
Thông thường, ký báo chí thường có kết cấu gồm ba phần: vào đề, nội
dung chính, kết thúc vấn đề với nhiều cách thể hiện khác nhau. Những sự
kiện, vấn đề được đề cập đến thường được thuyết phục bằng những luận
chứng sống động. Trong tác phẩm ký báo chí có những tít phụ ngắn gọn, súc
tích, nội dung đi thẳng vào vấn đề. Đặc biệt, những con số, thông tin trong tác
phẩm ký báo chí thường sống động và chính xác. Dựa trên cơ sở những chi
tiết đó, tác giả phân tích tổng hợp những hình ảnh và những luận chứng đó.
Ký văn học dường như không có tít phụ ở giữa tác phẩm, tạo cho tác giả viết
ký văn học có nhiều cơ hội thể hiện nội dung theo dòng suy nghĩ của mình.
Ký văn học có kết cấu uyển chuyển, mềm mại. Kết cấu của ký văn học
thường đan xen giữa quá khứ và hiện thực, giữa liên tưởng và thực tại, giữa
suy nghĩ và hành động, làm cho người đọc bị cuốn theo sự việc như chính
mình là người nhập cuộc.

16

Tải về bản full

Đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí, 2003

Đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí

Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn

Kí sự, Văn học, Báo chí, Lí luận văn học

Quan niệm khác nhau về kí. Đặc điểm của tác phẩm kí văn học và tác phẩm kí báo chí. Mối quan hệ giữa kí văn học và kí báo chí

Phân biệt Ký báo chí và Ký văn học

Nếu xét ởmục đích, mặc dù thấy cùng xuất phát từngười thật, việc thật

nhưng ký văn học luôn cốgắng xây dựng những hình tượng nghệthuật. Đặc trưng

hình tượng luôn luôn chi phối trong các tác phẩm. Nhà văn không bao giờchỉdừng

lại ởchỗtrình bày sựthật. Hiện thực chỉlà xuất phát điểm, là cái cớ đểthông qua đó

trình bày quan niệm thẩm mỹcủa mình. Sựthẩm định có thểlà ý kiến trực tiếp,

những hình ảnh, hình tượng hoặc cũng có thểlà cách lựa chọn trình bày chi tiết

Vềbút pháp, văn học sửdụng những cách của văn học nói chung đểtạo ra một

giọng điệu phong phú, sinh động. Trong thểký văn học, cái Tôi bao giờcũng là cái

tôi thẩm mỹ. Bản chất thẩm mỹcủa thểloại được đặc biệt chú trọng. Chính bởi vậy,

bên cạnh những thủpháp nghệthuật khác, thủpháp hưcấu vẫn thường được tác giả

văn học sửdụng. Tuy nhiên, mức độhưcấu trong tác phẩm ký báo chí không giống

nhưcác thểloại văn học khác. Tức là nhà văn có thểsửdụng những hình thức không

xác định đểtrình bày cái xác định. Hưcấu nghệthuật sửdụng trong văn học còn do

ởchỗ: trong thực tế, tác giảkhông thể đồng thời chứng kiến tất cảcác khía cạnh của

sựviệc đang xảy ra. Muốn có được một bức tranh toàn cảnh của sựviệc, nhà văn

phải hỏi những người khác mà thông qua đó, sửdụng sựhồi tưởng hay trí tưởng

tượng đểtái tạo hiện thực.

7 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Ngày: 18/01/2014 | Lượt xem: 3958 | Lượt tải: 21

Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân biệt Ký báo chí và Ký văn học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Môn: Các thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật Đề bài: Trong thể loại Ký có Ký báo chí và Ký văn học. Hãy phân biệt hai loại Ký này. Ký là một trong các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, được nhiều người sử dụng trong sáng tác văn học và làm báo. Tuy nhiên, phân biệt hai thể loại này là khá khó nhưng rất cần thiết cho việc viết báo. Trước tiên, thể loại Ký có nhiều đặc điểm lớn sau: - Ký phản ánh những vấn đề, sự kiện, con người có thật, điển hình, luôn cố gắng đảm bảo tính chân thực, chính xác của nội dung. - Ký có hình thức co giãn thể loại linh hoạt, giọng điệu phong phú. - Cái tôi trần thuật trong thể loại Ký báo chí là nhân chứng thẩm định hiện thực. Những đặc điểm trên đã tạo cho Ký một diện mạo riêng, tiếng nói riêng trong văn học và báo chí. Cũng chính những đặc điểm này đã giúp cho Ký tạo ra một kênh giao tiếp riêng đối với công chúng. Xung quanh sự tồn tại và phát triển của Ký nói chung đã từng có nhiều ý kiến tranh luận. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Ký có phải là văn học không? Trong Ký có hư cấu không? Nếu là văn học, Ký đứng ở vị trí nào trong hệ thống? Đặc trưng của các thể Ký là gì? Liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí không?.. Trong quá trình giải quyết những câu hỏi trên có nhiều phương pháp khác nhau. Có người căn cứ vào phương thức biểu hiện và chất liệu kết cấu để chia ký thành ba loại: ký tự sự, ký trữ tình và ký chính luận. Lại có người căn cứ vào bút pháp và đối tượng được phản ánh để chia ký thành hàng chục thể loại như: phóng sự, ký sự, tuỳ bút, hồi ký, truyện ký, nhật ký, du ký, bút ký chính luận, tản văn…Về đặc trưng của Ký, quan điểm hầu như vẫn chưa thống nhất. Có người cho rằng đặc trưng ấy là ở chỗ do Ký viết về người thật, việc thật. Đứng trước câu hỏi liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí hay không, đã từng có những quan niệm trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng sự phân chia đó là cần thiết. Tuy nhiên, cơ sở phân chia lại ở chất lượng nghệ thuật. Theo quan điểm này thì ký báo chí là những bài ký có chất lượng nghệ thuật thấp hoặc không có nghệ thuật mà chỉ đơn giản là cung cấp thông tin đối với công chúng, còn Ký văn học có chất lượng nghệ thuật cao hơn. Ngược lại với quan niệm trên, lại có những người cho rằng không nên có sự phân chia đó. Theo họ, thực ra thì bản chất của Ký chỉ có một. Nếu có sự khác nhau thì lại là ở chỗ: nhà văn viết ký không giống với nhà báo viết ký. Sự không nhất trí nói trên đã kéo dài trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học trong những năm trước đây. Có một thực tế là trong các bài giảng cho sinh viên báo chí, thông thường người ta chỉ giới thiệu về ký một cách chung chung trên cơ sở tổng hợp những ý kiến của các nhà nghiên cứu lý luận văn học. Trong khi đó các thể ký báo chí đích thực lại bị tách riêng ra thành những thể loại báo chí hoàn toàn không có liên quan gì đến ký. Nguyên nhân còn do khoa học báo chí vẫn chưa xác định được hệ thống thể loại dựa trên cơ sở phân loại đúng đắn. Chính sự lúng túng trong lý luận đã có ảnh hưởng không tốt đến thực tiến. Trên các báo hiện nay thường xuyên có những bài ghi không dúng tên thể loại, thậm chí nhiều nhà báo hoàn toàn không phân biệt được bài viết của mình thuộc thể loại nào chứ chưa nói đến những sự phân biệt khó hơn như phân biệt giữa ký báo chí và ký văn học. Nếu xét ở mục đích, mặc dù thấy cùng xuất phát từ người thật, việc thật nhưng ký văn học luôn cố gắng xây dựng những hình tượng nghệ thuật. Đặc trưng hình tượng luôn luôn chi phối trong các tác phẩm. Nhà văn không bao giờ chỉ dừng lại ở chỗ trình bày sự thật. Hiện thực chỉ là xuất phát điểm, là cái cớ để thông qua đó trình bày quan niệm thẩm mỹ của mình. Sự thẩm định có thể là ý kiến trực tiếp, những hình ảnh, hình tượng hoặc cũng có thể là cách lựa chọn trình bày chi tiết… Về bút pháp, văn học sử dụng những cách của văn học nói chung để tạo ra một giọng điệu phong phú, sinh động. Trong thể ký văn học, cái Tôi bao giờ cũng là cái tôi thẩm mỹ. Bản chất thẩm mỹ của thể loại được đặc biệt chú trọng. Chính bởi vậy, bên cạnh những thủ pháp nghệ thuật khác, thủ pháp hư cấu vẫn thường được tác giả văn học sử dụng. Tuy nhiên, mức độ hư cấu trong tác phẩm ký báo chí không giống như các thể loại văn học khác. Tức là nhà văn có thể sử dụng những hình thức không xác định để trình bày cái xác định. Hư cấu nghệ thuật sử dụng trong văn học còn do ở chỗ: trong thực tế, tác giả không thể đồng thời chứng kiến tất cả các khía cạnh của sự việc đang xảy ra. Muốn có được một bức tranh toàn cảnh của sự việc, nhà văn phải hỏi những người khác mà thông qua đó, sử dụng sự hồi tưởng hay trí tưởng tượng để tái tạo hiện thực. Có thể coi hư cấu là yếu tố quan trọng để phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí. Ký báo chí [ và các thể loại báo chí nói chung] không chấp nhận hư cấu dưới bất cứ hình thức nào. Các thể ký báo chí dù có bút pháp linh hoạt và sinh động như thế nào chăng nữa, cũng không được phép vượt qua nguyên tắc mang tính quy luật loại hình này. Thông tin báo chí phải đạt tới sự xác thực tối đa. • Ký báo chí: Xuất hiện là do nhu cầu truyền đạt thông tin, nhu cầu phản ánh thực tiễn. Với tư cách là người truyền đạt thông tin tới công chúng, nhà báo luôn tìm tòi những hình thức mới để vượt qua khỏi cái khung của lối văn thông tấn mà vẫn đảm bảo được tính xác thực, tính thời sự của nội dung được phản ánh. Các thể ký báo chí đã đáp ứng được nhu cầu đó. Với hình thức kết cấu tương đối co giãn, với bút pháp đa dạng và đặc biệt là sự xuất hiện của cái Tôi trần thuật sẽ giúp nhà báo có thể truyền đạt thông tin một cách phong phú, hấp dẫn hơn so với các thể loại báo chí khác. Với ý nghĩa đó có thể thấy rằng sự hình thành và phát triển của ký báo chí gắn liền với hoạt động sáng tạo của nhà báo. Việc tìm tòi những hình thức biểu hiện mới nhằm đạt tới những hiệu quả cao hơn vốn là thuộc tính của quá trình sáng tạo và dĩ nhiên nhà báo không thể nằm ngoài quy luật đó. • Sự khác biệt giữa ký báo chí và ký văn học: Điểm khác biệt được coi là căn bản giữa ký báo chí và ký văn học là ở chỗ: Mặc dù đều xuất hiện cái Tôi trần thuật, nhưng cái Tôi trong ký báo chí không phải là cái Tôi thẩm mỹ. Nhà báo không thẩm định được hiện thực trên cơ sở của những cảm xúc thẩm mỹ. Do phải chịu sự chi phối của yêu cầu thông tin thời sự, thông tin xác thực nên mặc dù tác giả vẫn có cơ hội trình bày sự thẩm định của mình, sự thẩm định ấy phải là kết quả của quá trình tư duy lôgic. Hiện thực được trình bày trong ký báo chí phải luôn đảm bảo độc chính xác tối đa và lập luận phải xuất phát từ tư duy lôgic của sự thực. Cái tôi trong ký báo chí phải là cái tôi nhân chứng tỉnh táo và lý trí. Ở đây không loại trừ cảm xúc trước sự thật để phản ánh sự thật. • Ký văn học: Với ký văn học thì chất suy nghĩ và tình cảm của chủ đề là chất men. Hiện thực đã được lên men trong tác phẩm đem đến cho công chúng những cách nhìn, cách cảm đa dạng, nhiều chiều. Nói tóm lại, nhân vật trần thuật và cảm hứng trữ tình cùng với những quy luật đặc thù khác của sáng tạo nghệ thuật luôn chi phối trong các tác phẩm Ký văn học. Trên cơ sở kết hợp được những cách khác nhau, Ký văn học vừa có giọng điệu phong phú, vừa độc đáo. Với các thể ký báo chí mặc dù tác giả luôn có ý thức tạo nên sự hấp dẫn trong tác phẩm của mình bằng việc xây dựng những kết cấu co giãn và sử dụng bút pháp gần gũi với văn học, nhưng do chịu sự chi phối của đặc điểm thông tin xác thực nên mục đích đối tượng của nó vẫn là thông tin về người thật, việc thật, sao cho kịp thời nhất, cụ thể nhất, chính xác và hấp dẫn nhất. Ký văn học và ký báo chí giống nhau ở chỗ đều tôn trọng tính xác thực và tính thời sự, nhưng ở ký báo chí tính xác thực phải được đảm bảo ở mức tuyệt đối và tính thời sự cũng mang tính thật cấp bách có khi hàng ngày, hàng giờ. Ký văn học không đòi hỏi như vậy. Ngược lại, nó đề ra yêu cầu cao hơn về chất suy nghĩ và tình cảm cảm của chủ thể. Trong thực tế của đời sống báo chí và đời sống văn học, thường xuyên xảy ra quá trình giao thoa, chuyển đổi, chuyển hoá lẫn nhau. Đó là một quy luật của sự vận động, phát triển. Điều đó không thể hạ thấp vai trò của thể loại, mà ngược lại càng làm cho chúng phong phú, sinh động hơn. Văn học và báo chí thường xuyên giao thoa với nhau. Các thể ký văn học và ký báo chí không chỉ thường xuyên giao thoa với nhau mà còn giao thoa với những thể loại khác trong hệ thống thể loại của chính nó. Quá trình giao thoa đó được thể hiện bằng những tác phẩm mà trong thực tế rất khó phân biệt rạch ròi những tính chất của các thể loại. Sự xâm nhập này có thể là khách quan, nhưng cũng có thể là do tác giả hoàn toàn có ý thức để nhằm tạo cho tác phẩm của mình những phẩm chất khác lạ. Sự phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí là hết sức cần thiết. Việc xoá nhoà danh giới giữa chúng hay phân biệt chúng một cách cực đoan đều là những thái độ nên tránh. Với tư cách là hai thể loại thuộc hai lĩnh vực khác nhau, không nên quan niệm một cách đơn giản rằng Ký báo chí là những bài ký viết vội để đáp ứng yêu cầu thời sự, còn tác phẩm ký văn học được tác giả đầu tư nhiều công sức hơn để viết ra bằng văn phong bóng bẩy hơn. Trong thực tế nhiều tác phẩm ký báo chí đa gây được những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc đối với công chúng - điều mà không phải tác phẩm ký văn học nào cũng có được. Cần phải thấy được sự phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí trước hết là sự khác biệt trong tư thế của tác giả khi tiếp cận, thẩm định và tái hiện hiện thực. Trong khi tác phẩm ký văn học cái tôi bao giời cũng là cái tôi thẩm mỹ. Người nghệ sỹ tái tạo hiện thực trên cơ sở những cảm xúc thẩm mỹ, trình bày những quan niệm thẩm mỹ của mình qua tác phẩm. Không giồng như vậy, cái tôi trong tác phẩm ký báo chí trước hết phải là cái tôi xuất phát từ trách nhiệm công dân. Trong ký báo chí không loại trừ những cảm xúc thẩm mỹ nhưng đó không phải là cơ sở của việc tái hiện hiện thực. Điều này cho thấy trong ký văn học đều xuất hiện hai vai trò của cái tôi – nhân vật trần thuật, nhưng đó chỉ là sự gần gũi về hình thức. Ngay cả sự xác thực trong hai loại ký này cũng có sự khác nhau, mặc dù đối tượng chủ yếu của chúng cùng là người thật, việc thật. Đó là chưa kể đến sự khác biệt về giọng điệu, cảm hứng, về cách lựa chọn và trình bày chi tiết … Ngoài ra, điểm cuối cùng là chỉ có ký báo chí với tư cách là một loại thể thuộc hệ thống thể loại báo chí mới chịu những quy định gắt gao về yêu cầu thời sự. Đáp ứng yêu cầu thông tin thời sự là một đòi hỏi có tính khách quan đối với thông tin báo chí nói chung và các thể ký báo chí không nằm ngoài yêu cầu đó. Chính đặc điểm này đã góp phần quyết định trong việc quy định đặc trưng và đặc điểm của ký báo chí. Việc phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí không chỉ là công việc của những người làm công tác lý luận mà còn đặc biệt có ý nghĩa trong việc ấn định kênh giao tiếp giữa tác giả và công chúng. Rõ ràng không thể tiếp nhận những tác phẩm ký văn học như tiếp nhận các tác phẩm ký báo chí, đồng thời cũng không thể phủ nhận quá trình giao thoa, xâm nhập lẫn nhau về nhiều phương diện của hai loại ký này. Trong thực tế đời sống văn học và đời sống báo chí, quá trình đó xảy ra và còn tiếp tục xảy ra như một động lực của sự phát triển. Bởi lẽ đó khi đứng trước một tác phẩm được kết hợp nhiều tính chất, đặc điểm của những thể và loại khác nhau, tiêu chí căn bản để đánh giá tác phẩm là ở giá trị thông tin và hiệu quả mà nó đem lại cho công chúng./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • a1 [2].PDF

Ký và Tiểu luận

Tweet

[BTV] Trong nghiên cứu văn học công nghiệp đương đại, ký là một thuật ngữ được dùng để gọi tên một thể loại văn học bao trùm nhiều “thể” hoặc “tiểu loại”: bút ký, hồi ký, du ký, kỳ chính luận, phóng sự, tùy bút, tản văn, tạp văn, tiểu phẩm [ét – xe][1]…

I. Đặc trưng của thể loại ký.

Có thể dừng lại ở mấy đặc trưng sau đây của ký:

- Ký là thể loại nằm giữa văn báo chí và văn học.

- Ký là “sự hợp nhất truyện và nghiên cứu” [Gorki].

- Ký là “sự nhức nhối của trí tuệ”.


1. Ký gần với văn báo chí, vẫn có thể có những phẩm giá của văn học.


Ký gần với báo chí ở chỗ viết về cuộc đời thực tại, về “người thật”, “việc thật”, thường được viết như sự phản ứng trực tiếp với những biến cố thời sự, trước những vấn đề nóng bỏng đương đặt ra trong cuộc sống. Giống như người biết báo người viết ký đặc biệt quan tâm và tôn trọng những sự kiện của cuộc đời thực tại. Chính tính sự kiện của nội dung ký tạo ra cốt cách “chắc thiệt” và trọng lượng của thể loại này. Về mặt truyền đạt sự kiện, ký đòi hỏi sự trung thực, sự chính xác. Về mặt này, những sự hồ đồ do cẩu thả - dù là rất nhỏ - hoặc những sự “hư cấu”vẽ vời, thêm thắt không đúng chỗ có thể phải trả giá rất đắt: sự mất tin cậy của đọc giả. Sức thuyết phục, lay động của bài ký trước hết là ở tính sự kiện.


Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng sức mạnh của thể ký trước hết là ở tính sự kiện: “… Cùng với cảm xúc văn học, bút ký còn chứa đựng cái cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm. Sức nặng ấy được di chuyển đi, không giống như một cảm giác mỹ học, mà là một quả táo Newton rơi xuống tâm hồn người đọc”[2]. Văn báo chí khác văn học. Ký gần với báo chí [xem ở phần sau], nhưng không có nghĩa là thể loại này “bất cập” những phẩm giá của văn học có giọng điệu, tính đa nghĩa của văn bản, câu văn, câu văn có hồn, tạo được những bức tranh có không khí, những nhân vật đặc sắc, hưu cấu tài tình [dĩ nhiên là đúng chỗ]… Đọc những bài ký hay có thể thấy rằng mọi phẩm giá văn học đều có trong văn học ký. Nhưng phong sự Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng còn “văn học” hơn nhiều tác phẩm văn học “đích thực” khác.


2. Ký là “sự hợp nhất truyện và nghiên cứu”:


Có lẽ đây là đặc trưng quan trọng nhất của ký. Trong thể loại này vừa có những yếu tố của truyện vừa có sự tham gia trực tiếp của tư duy nghiên cứu. Những yếu tố của truyện tựu trung là những hình ảnh “có hồn” [những truyện sinh động, những nhân vật sống. những bức tranh có không khí…] hoặc những hình ảnh thổi “hồn” vào đối tượng được miêu tả. Còn tư duy nghiên cứu chủ yếu cung cấp những dữ kiện, những tri thức nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của con người.


Nếu như “sự hợp nhất truyện và nghiên cứu” là một đặc trưng của thể loại ký thì sự hợp nhất tư duy nghệ thuật và tư duy nghiên cứu có thể xem là một đặc trưng của tư duy viết ký. Ở đây có hai trường hợp giới hạn. Có những bài ký nặng về miêu tả, tường thuật, hầu như không có nỗ lực nghiên cứu. Ngược lại, có những bài ký chính luận từ đầu chí cuối là nghị luận, hầu như không có yếu tố “truyện”. Giữa hai giới hạn này là những mức độ kết hợp rất khác nhau giữa “truyện” và nghiên cứu, giữa những hoạt động của tư duy nghệ thuật và sự tha trực tiếp của tư duy nghiên cứu.


Trong thể loại ký, những yếu tố “truyện có những đặc điểm gì? Có gì khác trong sự trình bày những yếu tố này so với trong truyện “đích thực”?

Ký chủ yếu viết về người thật, việc thật, điều này miễn cho người viết ký khỏi quan tâm đến việc gây ảo giác “thực tại” trong việc xây dựng hình tượng: viết truyện đích thực, tức là truyện hư cấu [fiction] đòi hỏi nhiều công phu hơn để xây dựng những hình tượng hoàn chỉnh. Mặt khác, trong ký, khi cảm hứng chính luận là cốt yếu thì những yếu tố của truyện chỉ có vai trò chức năng, làm căn cứ sự kiện, làm bàn đạp thực tại cho tư tưởng chính luận. Thể loại ký cho phép phác họa những hình tượng nhân vật không hoàn chỉnh.[không nhất thiết phải có số phận, tính cách không nhất thiết phải được triển khai sâu sắc, nhiều mặt], cho phép dừng lại ở những mẩu chuyện [không nhất thiết phải dựng thành cốt chuyện hẳn hoi có hành động thống nhất].


Đọc tập ký Kara Bugaz của Pauxtovxki, Nguyễn Kiên “mường tượng tác giả có cái gì giống như một nhà khoa học”[3]. Đọc một trang sách Sông Đà “trong đó tác giả liệt kê ra cả một đoạn dài tên các ghềnh thác”, Nguyễn Kiên cảm thấy việc làm đó “có vẻ như một công trình khảo cứu”. Nhà văn Nguyễn Kiên cảm nhận một đặc trưng quan trọng của cả ký và tư duy viết ký. Thực ra, sáng tác bất kỳ thể loại văn học nào người viết cũng cần làm công việc nghiên cứu. Tuy nhiên, trong ký những thao tác của tư duy nghiên cứu [phân tích, tổng hợp, phán đoán, lập luận, suy luận…] được trình bày trực tiếp ngay trong văn bản. Do đặc trưng nói trên của ký, viết ký đòi hỏi một sự chuẩn bị tư liệu nghiêm túc như làm một công trình khoa học.


Tuy chưa bao giờ đặt chân tới đất Cà Mau, nhà văn Nguyễn Tuân nói về vùng đất này với những cán bộ Cà Mau tập kết đã làm cho họ phải kinh ngạc. Và ông giải thích: “Tôi đọc báo hàng này, hàng tháng. Tôi hỏi chuyện các bạn tập kết. Tôi đọc sách ta, sách Tây. Với sự tưởng tượng quen thói của người hành nghề văn xuôi, tôi hình thành trong óc tôi một thế giới Cà Mau”[4]. Ông đã vận dụng vốn văn hóa trong mình để thấy cho bằng được cái sắc thái con người và những sự việc, những vùng mình chưa tới. Viết ký cần tham khảo, sử dụng những tri thức “gián tiếp” nhưng phải có “sự tưởng tượng”, “vốn văn hóa” thì những tri thức này mới trở thành “văn học”.


Sự gần gũi của ký với văn báo chí [còn gọi là văn thông tấn] thể hiện ở sự đòi hỏi ở thông tin chính xác.


Do sự tham gia trực tiếp của tư duy nghiên cứu, ngoài hiệu quả gây khoái cảm mỹ học, thể loại ký còn gây ở người đọc những khoái thú thuần trí tuệ bằng việc cung cấp những tri thức người đọc quan tâm, có khi chỉ là những kiến thức thỏa mãn óc tò mò thông thường của con người.

Dĩ nhiên, có tầm quan trọng bậc nhất đối với những viết ký vẫn là nguồn tri thức trực tiếp từ những quan sát, những trải nghiệm trong cuộc sống thực tại. Chỗ mạnh của ký giả Nguyễn Ái Quốc, tác giả tập Truyện và Ký là ở sự kết hợp cả hai nguồn tri thức: học vấn uyên bác và sự hiểu biết lịch lãm về cuộc sống hàng ngày. Phạm Huy Thông viết: “Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, Đông Tây uyên bác. Không phải chỉ những kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hàng ngày. Truyện và ký vận dụng những khái niệm “dương cửu”, “mệnh trời” trong triết lý phương Đông cổ, nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạ của công nhân trong hàng hải, trong giao lưu quốc tế, những mánh khóe câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi của hộp đem Pari hoa lệ…”[5].


3. Ký là “sự nhức nhối của trí tuệ”.


Trong những năm gần đây, những bài ký được chú ý phần lớn là những bài viết về “những điều trông thấy” đau lòng: những nạn nhân của chủ nghĩa quan liêu và sự vô trách nhiệm, những điều tàn bạo, nhếch nhác trong sinh hoạt và thế thái nhân tinh, những sự bất công, vô lý do cơ chế. Văn học ký những năm gần đây mạnh dạn phản ánh đầy đủ hơn sự thật đời sống xã hội, các tác giả không ngần ngại phơi bày sự thật mà trước đây lờ đi có khi được xem là biểu hiện của sự chín chắn, sự thận trọng. Ký có thể phản ánh bất kỳ sự thật nào trong xã hội, kể cả những điểu khủng khiếp nhất. Vấn đề là cách nhìn và thái độ tiếp cận. Một thái độ bàng quang, khinh bạc, hằn học hay là một thái độ đau thương có trách nhiệm. Đau thương là quyền lớn nhất của nhà văn để viết về những sự việc tiêu cực. Chính nỗi đau khiến người viết không thể “bằng chân như vại” trước những “đám cháy” hoặc làm ngơ trước “những điều trông thấy đau lòng”.


Người viết ký không thể bằng lòng với việc lên “những điều trông thấy”. Phải có sự hoạt động ráo riết của trí tuệ để tìm hiểu nghiên cứu, phân tích, lý giải do đâu mà sự tình lại như vậy. Hơn nữa, còn phải thuyết phục người đọc: sự đổi mới là tất yếu. Trong tình hình hiện nay, công luận bị nhiễu loạn bởi trăm thứ dư luận, không có sự hoạt động nghiêm chỉnh của trí tuệ, người viết ký khó mà vượt qua được những dư luận tạp nhạp để đưa ra được những suy nghĩ, những ý kiến đích đáng, thường chỉ đạt được ở những người có tâm huyết, có suy nghĩ độc lập, am hiểu công việc, đã nhiều năm qua theo dõi công việc.


Bút ký có thể chỉ viết về những sự việc tiêu cực. Trong trường hợp này, nhân vật tích cực là bản thân tác giả. Điều này đòi hỏi người viết ký phải “nhập cuộc”, có tinh thần chiến đấu cao và tính khuynh hướng rõ ràng. Sau đây là ý kiến của nhà văn lão thành Hạ Diễn [Trung Quốc] về tính chiến đấu của văn học phóng sự, văn học ký: “Để phản ánh thực tế, tác giả phải điều tra hết sức tỉ mỉ. Muốn có lập trường đúng, tác giả phải tỏ ra cam đảm và có sức mạnh, giữ vững nguyên tắc và dám đấu tranh, không sợ - nếu cần - đi đến cả hành động trước công lý. Tác giả phóng sự phải dám tố cáo các mâu thuẫn, ca ngợi nồng nhiệt những con người và những sự việc mới làm cho lịch sử tiến lên, phê phán và chí trích những kẻ ngăn trở dòng chảy của cuộc sống”[6].


II. ESSAY – MỘT THỂ KÝ ĐẶC BIỆT[7]

1. Tản văn


Những năm gần đây [2000], trên báo chí xuất hiện những bài ký được gọi bằng tên thể loại là tản văn. Đây là một tiểu loại ký ngắn gọn, hàm xúc theo tùy hứng của tác giả có thể bộc lộ trữ tình, tự sự hoặc nghị luận thường là cả mấy thứ đan quyện nhau. Lối thể hiện đời sống trong tản văn mang tính chất chấm phá, tuy vậy, ngòi bút tản văn chạm vào những hiện tượng được tái hiện ở những khía cạnh cốt yếu và bất ngờ.


Có lẽ đặc trưng quan trọng nhất của tiểu loại ký này là ở chỗ tất cả những gì được thể hiện và biểu hiện trong bài tản văn đều mang đậm dấu ấn cách cảm nhận và cảm nghĩ rất riêng của tác giả. Có thể xem sự khảng định của thể loại tản văn trong văn xuôi đương đại của ta như một hiện tượng đáng chú ý trong lịch sử phát triển của ký.


Cầm bút viết tản văn có nghĩa là người viết có ý thức về sự suy nghĩ độc lập mà mạnh dạn trình bày những suy nghĩ và cảm xúc thật sự riêng của mình. Cảm nhận và cảm nghĩ riêng đó chính là “muối” văn học của thể loại ký, ở hầu hết mọi tiểu loại. Viết “hồi ký cách mạng” mà dừng lại những quan điểm chung chung đánh giá những sự kiện và con người trong cuộc thì cùng lắm cung cấp được một tư liệu sử học cũng như viết chính luận mà dè dặt trong sự phát biểu những chính kiến và suy nghĩ riêng của mình thì văn chính luận sẽ không khác mấy văn xã luận.


2. Tiểu luận


Gần gũi với tản văn, essay là một tiểu loại của ký quan trọng hơn nhiều nhưng chưa được ý thức đầy đủ ngay cả trong giới văn học. Thể ký này có khi được gọi là tiểu luận, nhưng tốt nhất vẫn giữ tên gọi là essay vì đây là thuật ngữ có tính chất quốc tế [tiếng Pháp là essai; tiếng Anh là essay; tiếng Nga là exxe…].


Chính ở thể essay, những dặc trưng chung của thể loại ký bộc lộ rõ hơn cả. Trước hết là sự kết hợp những quan điểm tiếp cận thực tế, những phương thức nhận thức [hoặc chiếm lĩnh] thực tế rất khác nhau. Trong một bài essay có thể có tất cả triết luận sáng tạo hình tượng nghệ thuật, tìm tòi nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, không loại trừ cảm hứng đạo đức và siêu nghiệm tôn giáo.


Nếu như mỗi thể loại lớn bao hàm một kiểu tư duy đặc thù thì sức mạnh của tư duy essay là ở chỗ mặc dù không chuyên một lĩnh vực nhận thức nào, nó vẫn có thể chọc được những điển hình bất ngờ, thù vị là những phát hiện sâu sắc và xuất sắc, có khi ngay cả chuyên gia trong lĩnh vực đó cũng ngạc nhiên. Hơn nữa, những phát hiện được trình bày bằng lời văn essay dễ trở nên phổ cập, người ngoại đạo có thể thể hiểu được, vậy nên thể loại essay có khả năng tập hợp được những tầng lớp độc giả trình độ rất khác nhau. Trong thế kỷ XX, nhiều nhà văn, nhà triết học cự phách như: Romanh Roland, Becna So, Herber Uelxo, Tomax Mann… đã viết essay để phổ cập những thành tựu của triết học và khoa học nhân văn hiện đại. Essay đã trở thành một thể loại quan trọng trong văn học thế giới hiện đại.


Bố cục tự do là một đặc trưng riêng của thể loại essay. Trong bài essay, những ý tứ được triển khai, dẫn dắt theo cung cách – nói như nhà văn Nguyễn Tuân – ý này nhằng vào ý kia theo hứng của sự “tưởng tượng miên man”. Với cung cách này, mạch lạc trong bài essay không giống như trong một bài ký thông thường hoặc một luận văn khoa học, ở đây nội dung được triển khai ý này nối vào ý kia theo tuyến tính, hoặc nói như Montennho là ý sau nhìn vào gáy ý trước. Với sự tưởng tượng miên man, những ý kiến được đưa ra có thể ngổn ngang, bề bộn, chính sự “liếc nhìn nhau” giữa các ý tạo ra sự thống nhất, sự mạch lạc của bài essay. Đây là sự mạch lạc cao cấp, đòi hỏi người viết cũng như người đọc essay một sự trực giác tốt, bao quát và quán xuyến được nhiều tọa độ tư duy. Bố cục tự do còn được thể hiện ở sự thoải mái – có thể nói sự phóng túng xáo trộn những sự kiện cụ thể với những trừu tượng cao xa hoặc đem dao cắt những bình diện nhận thức rất khác nhau: những sự việc sinh hoạt được xem xét từ khoảng cách triết học và ngược lại những vấn đề triết học được suy ngẫm từ kinh nghiệm đời thường.


Từ tiếng Pháp essai có nghĩa là thử [Đặng Thai Mai đã từng dịch essai là thí luận]. Nghị quyết viết essay thử đưa ra những ý kiến riêng của mình, những ý kiến chủ quan của mình về một đề tài nào đó. Người viết essay có ý thức về vai trò của chủ quan mình trong nhận thức, thường có những “thước đo” riêng để nhìn nhận sự vật, nhiều khi “chủ quan” đến mức không ngại đưa ra những ý kiến, kiến giải chủ quan một cách lộ liễu, dám động đến cả những khái niệm, những tư tưởng được công nhận chấp nhận là “chân lý tuyệt đối” là “bất di bất dịch”.


Ý thức được vai trò của chủ quan trong nhận thức, không nhất thiết dẫn đến chủ nghĩa chủ quan. Nói như Mongtennho, người viết essay “không lấy ý kiến của mình làm thước đo sự vật” mà xem ý kiến của mình chỉ làm sáng tỏ “bằng thước đo nào mình nhìn sự vật”. Một mặt coi trọng vai trò chủ quan trong nhận thức, mặt khác, người viết essay dè dặt với sự chủ quan trong nhận thức. Người viết essay không phát ra những tri thức khẳng định chân lý một cách tuyệt đối. Cái giọng quyết đoán, cao đạo là điều tối kỵ trong văn essay. Thử đưa ra những lời bàn, sẵn sàng đem đối chiếu với những lời bàn khác, đó là biểu hiện của sự dè dặt trong tư duy của người viết essay. Sự dè dặt có khi thể hiện ngay trong văn phong. Giọng văn essay thường là giọng văn nhấn nhá, thong thả của một người suy ngẫm đương dò dẫm và thấy hết những khó khăn của nhận thức, lời văn essay có sự mềm mại, uyển chuyển của một người biết nhân nhượng, biết tôn trọng ý kiến của người khác nhưng trước sau vẫn cậy vào chủ quan của mình.


III. PHÂN BIỆT KÝ BÁO CHÍ VÀ KÝ VĂN HỌC


Đây là sự phân biệt hết sức ước lệ - chỉ có thể giúp hiểu đúng hơn những đặc trưng của thể loại ký mà thôi.


Ký văn học là ký có tính chất nghệ thuật, gần với tác phẩm nghệ thuật thì một đặc trưng quan trọng của nó là diễn đạt bằng văn bản đa nghĩa. Đa nghĩa ở một số yếu tố: giọng điệu [vừa giận, vừa thương, vừa vui vừa buồn…]; chủ đề, tư tưởng hoặc một số hình tượng quan trọng có khả năng ám gợi nhiều ý nghĩa… Nhưng quan trọng nhất là hiện thực hóa bằng tác phẩm văn bản đơn nghĩa. Ấn tượng báo chí về bài ký trước hết liên quan đến tính chất đơn nghĩa của văn bản. Ký báo chí thích hợp với nhiệm vụ tuyên tuyền, cổ động, người đọc dễ dàng hiểu đúng và nhất trí với nhau về những ý lớn cũng như tiểu tiết trong văn bản. Tính chất văn học của một bài ký còn thể hiện ở giọng điệu trần thuật. Một áng văn bao giờ cũng có giọng, và giọng của văn khác với giọng của báo [nếu như bài báo có giọng] là bao giờ cũng rất riêng, thường là phong phú nhiều sắc thái.


Chất lượng văn học của những bài ký chính luận của Nguyễn Ái Quốc trước hết là ở giọng văn của tác giả khi thì dí dỏm, hóm hỉnh, khi thì cợt mỉa, chua chát, có đoạn trang nghiêm dõng dạc, có đoạn thống thiết hào hùng. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng: “ăn nói hóm hỉnh với những cách ví von bất ngờ mà ác, và những nhận xét, những lời bình luận hết sức thông minh, sắc sảo và có duyên”[8] Và tóm lại, rất khó để mà phân định được đâu là ký văn học – đâu là ký báo chí.

Nguyễn Bùi Khiêm

Ý kiến bạn đọc - Gửi bình luận

Gửi bình luận

Họ tên:[*]

Email:[*]

Tiêu đề:[*]

Nội dung:[*]

Nhập ký tự:[*]

Gửi bình luận Nhập lại

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề