Tại sao gọi là đoàn tàu không số

Cập nhật: 22-10-2016 | 08:45:13

Cùng với xẻ dọc Trường Sơn, mở đường mòn Hồ Chí Minh, một con đường Bắc - Nam bí mật trên biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã được mở vào ngày 23-10-1961. Đoàn 759 - Đoàn tàu không số [Lữ đoàn 125] là lực lượng vận tải chiến lược trên con đường biển này, đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam. Đường Hồ Chí Minh trên biển và Đoàn tàu không số với bao kỳ tích, đã đi vào lịch sử dân tộc như một chiến công huyền thoại, là một biểu tượng của bản lĩnh chính trị và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh.

 Đoàn tàu không số vận chuyển vũ khí trên Đường Hồ Chí Minh trên biển để chi viện cho chiến trường miền Nam. Ảnh: T.L

 Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, theo quyết định của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, một đơn vị đặc nhiệm được thành lập vào tháng 7-1959, có biệt danh là Đoàn 759, lúc đầu là đơn vị nhỏ cỡ tiểu đoàn được tổ chức dưới hình thức “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh” thuộc Tổng cục Hậu cần; đến ngày 23-10-1961, trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tháng 8-1963, Trung ương quyết định giao Đoàn 759 cho Bộ Tư lệnh Hải quân, đổi tên thành Lữ đoàn 125. Đường Hồ Chí Minh trên biển gồm 5 tuyến đi có tổng chiều dài gần 12.000 hải lý [hơn 22.000km] là chiếc cầu nối giữa hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, chi viện trực tiếp cho những chiến trường xa nhất, khó khăn nhất là Nam bộ, Nam Trung bộ và vùng ven biển Khu 5, trở thành con đường huyền thoại với biết bao kỳ tích anh hùng.

Sau chuyến tàu đầu tiên thất bại, Đoàn 759 đã tổ chức rút kinh nghiệm, tính toán cách tổ chức chặt chẽ và thông minh hơn. Qua 14 năm ròng rã [1961-1975], những chuyến tàu không số của Đoàn 759 đã lập công xuất sắc, đưa 152.876 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật, thuốc chữa bệnh cho miền Nam; đưa đón 80.026 lượt cán bộ, chiến sĩ [trong đó có hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, của quân đội] vào miền Nam và từ miền Nam ra miền Bắc, vượt qua gần 4 triệu hải lý an toàn. Những lúc tàu thuyền ta bị địch bao vây, không thể thoát khỏi sự truy lùng của địch, những con tàu không số đã biến thành những khối thuốc nổ vào tàu địch. Cán bộ, chiến sĩ trên các con tàu đã chiến đấu 300 lần với địch và bị hơn 1.200 lần máy bay địch bắn phá nhưng vẫn bảo đảm được nhiệm vụ. Trong 168 con tàu ra đi từ năm 1966 đến năm 1972, có 8 trường hợp phải phá tàu. “Trong trường hợp đấu trí không nổi, đọ sức không thắng, hết đường quay về thì phải bằng lòng can đảm và ý chí quật cường phá tàu để xóa hết tang vật. Không có một con tàu nào đầu hàng”.

Để đối đầu với quân địch, không chỉ cần có sự quyết tâm, tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường, mưu trí, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, mà còn cần phải có trang bị khí tài chất lượng. Nhờ có vũ khí từ các chuyến tàu không số chuyển vào, ta đã liên tiếp có nhiều trận chiến thắng lớn, như trận Bá Gia - Vạn Tường [tháng 7-1965 ở tỉnh Quảng Ngãi], quân giải phóng Quân khu 5 đã tiêu diệt gọn 1 chiến đoàn, 2 tiểu đoàn, phá hủy 15 xe, bắn rơi 18 máy bay địch. Trận Vạn Tường, trận đánh trực diện với quân Mỹ, hạ 916 lính Mỹ, tiêu diệt 18 xe tăng, bắn rơi 22 máy bay Mỹ. Trận Bàu Bàng [ngày 12-11-1965 tại Bình Dương], Đoàn 759 [Lữ đoàn 125] đã tổ chức gấp rút 4 tàu chở 187 tấn vũ khí vào miền Tây Nam bộ, đặc biệt có 3 quả thủy lôi lớn, súng tự động AKA, kính ngắm và súng bắn tỉa để kịp thời trang bị cho các sư đoàn chủ lực, trong đó một số trung đoàn được trang bị vũ khí hiện đại của Liên Xô, đã bao vây, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 lính Mỹ, Sư đoàn Bình Dã [F9], đã nhanh chóng diệt 1 tiểu đoàn Mỹ [Lữ đoàn 173]. Trận đánh chìm tàu chiến Mỹ Ballon Rouge Victory trên sông Lòng Tàu [huyện Cần Giờ, TP.Hồ Chí Minh] bằng những quả thủy lôi khổng lồ KB của Liên Xô, chở từ miền Bắc vào [mỗi quả nặng 1.075kg], do bộ đội Rừng Sác thực hiện đã làm hoảng loạn tinh thần của quân lính Mỹ. Các chiến thắng đó đã khẳng định quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương: “Không sợ quân Mỹ, có thể đương đầu với quân Mỹ và có thể chiến đấu giành thắng lợi trong chiến tranh cục bộ”.

Trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, để thực hiện Chỉ thị “thần tốc và thần tốc hơn nữa” của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, phải kịp thời chuyển thật nhanh những vũ khí hạng nặng và hàng chục ngàn chiến sĩ vào miền Tây, kịp thời hợp đồng tác chiến với cánh quân đường bộ, Đoàn 759 đã vận chuyển thần tốc 130 lần với 143 chuyến tàu chở 8.721 tấn vũ khí hạng nặng, 50 xe tăng và đại pháo, đưa 18.741 cán bộ, chiến sĩ vượt 6.572 hải lý để kịp thời tham gia chiến đấu trong chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Đường Hồ Chí Minh trên biển cũng “muôn hình vạn trạng” như Đường Hồ Chí Minh trên bộ. Đoàn 759 đã sáng tạo nhiều phương thức khác nhau mà có lẽ cũng khó tìm thấy một tiền lệ nào trong lịch sử vận tải đường biển của loài người. Có những phương tiện thông thường như tàu biển, vận chuyển đột xuất những khối lượng lớn đi ra ngoài khơi xa, ban đêm tìm cơ hội thuận lợi đột nhập vào một bãi nào đó đã được hẹn trước. Lại có những thuyền đánh cá với những chiến sĩ trút bỏ áo lính để làm thường dân với thuyền hai đáy, sử dụng cho những cự ly xuất phát từ những bến phía Bắc vĩ tuyến 17 [Quảng Bình] rồi đi gấp trong đêm vào các tỉnh phía Nam, có những chặng phải đi hai hoặc ba đêm. Cứ gần sáng, những chiếc thuyền đánh cá này phải tạm thời vào gần bờ để lẩn tránh tại những cơ sở đã được chuẩn bị sẵn sàng, trời tối lại lên đường. Một cơ hội tốt nữa là trong dịp Tết Nguyên đán, rất nhiều chuyến đi bắt đầu từ ngày 30, thậm chí mồng 1 tết. Nhưng tết chỉ là một thời gian ngắn ngủi trong năm. Phần lớn thời gian vận chuyển ngoài tết là thời gian có gió bão, tàu tuần tiễu của địch không đi được, máy bay trinh sát của địch không nhìn thấy. Đó là cơ hội lên đường. Tất cả các bến phà có chung một tính chất là tạo bất ngờ, theo khí phách “vào hang hùm thì không sợ cọp” đòi hỏi con người phải gan dạ, đối diện tình hình khó khăn, nguy hiểm không được bối rối và manh động.

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng Ðường Hồ Chí Minh trên biển mãi mãi là niềm tự hào của quân đội ta, nhân dân ta; là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của trí thông minh, lòng dũng cảm, ý chí sắt đá, quyết tâm giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc ta… Ðó cũng là biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ Ðoàn 759 [Lữ đoàn 125], Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng; ròng rã 14 năm đã bền bỉ, mưu trí, dũng cảm. Trong đó, nhiều đồng chí cùng với những con tàu không số đã mãi mãi ở lại với biển cả, với non sông đất nước, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Đoàn 759 [Lữ đoàn 125] với những chiếc tàu không số - những ngôi sao sáng chói trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã đi vào những trang sử đặc biệt chiến tranh nhân dân huyền thoại của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Riêng năm 1963, Đoàn 759 đã tổ chức được 28 chuyến tàu chở 1.318 tấn vũ khí vào chiến trường miền Nam. Số vũ khí này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo ra những chiến thắng có ý nghĩa bước ngoặt ở miền Nam, trong đó có trận Ấp Bắc vang dội [ngày 2-1- 1963], tạo đà cho việc liên tiếp đánh thắng nhiều trận, diệt Mỹ trên chiến trường miền Nam với tinh thần “Bám lưng Mỹ mà diệt”. Ta phá tan 1.891 đồn bót, phá dỡ 623 đồn bót ở miền Trung Nam bộ và Tây Nam bộ, mở ra khả năng đánh bại “Chiến thuật trực thăng vận”, “Thiết xa vận” của Mỹ. Chiến thắng đó đã làm cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn dao động. Tỉnh trưởng An Xuyên [nay là Cà Mau] đã báo cáo khẩn cấp về Phủ Tổng thống ngụy [ngày 15-9-1963]: “Vũ khí của Việt Cộng đã vượt ra ngoài ước tính của chúng tôi. Việt Cộng đã dùng cối 81mm, đại liên 12,7mm, DK 275, là những thứ mà quân đội Việt Nam Cộng hòa chưa có”.

P.V [tổng hợp]

Tàu HQ671 hay còn được biết đến với số hiệu C41, 641 đã góp phần làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển

Con tàu huyền thoại…

Tàu vận tải quân sự HQ671 từng có tên gọi khác là C41, 641 hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Quân chủng Hải quân. Tàu dài 31,5m, rộng 5,8m, cao từ đáy đến đỉnh cột cờ 11,7m, lượng giãn nước 165 tấn, là loại tàu Quảng Châu [trọng tải 50 tấn] do Trung Quốc sản xuất năm 1962, viện trợ cho Hải quân Việt Nam năm 1964. Khi đó, tàu được biên chế về Đoàn 125 [còn gọi là Đoàn tàu “không số”] làm nhiệm vụ vận tải chi viện chiến trường miền Nam theo con đường vận chuyển chiến lược trên Biển Đông mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh - đường Hồ Chí Minh trên biển.

Từ năm 1967 đến năm 1971, tàu làm nhiệm vụ bí mật vận chuyển vũ khí, hàng hóa trên con đường vận tải chiến lược chi viện trực tiếp cho chiến trường miền Nam và tham gia vận chuyển trong Chiến dịch vận tải VT5 [1968 - 1969], đưa vũ khí, hàng hóa từ cảng Hải Phòng vào cảng Gianh, tỉnh Quảng Bình, để từ đó, các lực lượng tiếp tục vận chuyển theo đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn vào chi viện cho chiến trường miền Nam.

Từ tháng 7-1971 đến năm 1974, tàu mang số hiệu 641, làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, hàng hóa, phương tiện và bộ đội vào cảng Đồng Hới, Quảng Bình và cảng Cửa Việt, Quảng Trị để chuyển tiếp vào chi viện chiến trường miền Nam.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tàu 641 chở người, vũ khí, hàng hóa vào chi viện cho chiến dịch Huế - Đà Nẵng giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung và chở lực lượng đặc công Hải quân ra tiến công giải phóng quần đảo Trường Sa. Sau năm 1975, tàu làm nhiệm vụ vận chuyển và trực sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa.

Năm 1980, tàu 641 được mang số hiệu HQ671 và năm 1982 được biên chế về Hải đội 413, Vùng 4 Hải quân, làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu và vận chuyển bộ đội, hàng hóa chi viện cho xây dựng, bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và tuần tra bảo vệ khu vực căn cứ quân sự Cam Ranh.

Năm 2002, tàu HQ671 được biên chế về Hải đội 384, Cục Hậu cần Hải quân làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hậu cần phục vụ cho các đơn vị trong Quân chủng Hải quân. Trong dịp kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển [23-10-1961/23-10-2011], ngày 20-9-2011, tàu HQ671 được đưa từ Hải đội 384, Cục Hậu cần Hải quân về Bảo tàng của Quân chủng làm hiện vật trưng bày tuyên truyền chiến công “Đường Hồ Chí Minh trên biển”.

Cựu chiến binh của Đoàn tàu không số thăm tàu HQ671 tháng 7-2016 [Ảnh: Bảo tàng Quân chủng Hải Quân]

Trở thành bảo vật quốc gia

Cùng với đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển là một trong hai con đường vận tải chiến lược vận chuyển chi viện cho quân, dân ta ở miền Nam đánh giặc. Những con người và con tàu làm nhiệm vụ vận tải bí mật trên con đường biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dũng cảm, can trường, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, nguy hiểm để vận chuyển hàng hóa, vũ khí trực tiếp chi viện cho các chiến trường khó khăn và xa nhất ở miền Nam mà đường Trường Sơn chưa tới được là Nam bộ và Nam Trung bộ; trong điều kiện địch có ưu thế tuyệt đối về không quân, hải quân và tổ chức ngăn chặn ta quyết liệt từ biển đến bờ, từ Bắc vào Nam. Để rồi từ đó, làm nên một con đường huyền thoại trên Biển Đông với nhiều chiến công huyền thoại, đóng góp quan trọng vào xây dựng và tăng cường sức chiến đấu của lực lượng vũ trang ở miền Nam thời điểm đó.

Với ý chí quyết tâm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ tháng 10-1962 đến tháng 3-1975, Đoàn 759 sau này đổi tên là Đoàn 125 Hải quân [còn gọi là Đoàn tàu “không số”] đã tổ chức hàng trăm lượt chuyến tàu dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo vượt qua bao gian khổ, hiểm nguy của biển khơi và sự phong tỏa, ngăn chặn quyết liệt của địch, vận chuyển được 97.596 tấn vũ khí, đạn dược và hơn 300 cán bộ trong đó có nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và quân đội.

Sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975, tàu HQ671 làm nhiệm vụ vận tải chi viện cho các đơn vị đóng quân ở quần đảo Trường Sa. Nối tiếp những chiến công, tháng 10-1978, tàu nhận lệnh đi tìm kiếm 7 cán bộ, chiến sĩ của đảo Phan Vinh bị sóng nước làm trôi dạt trong khi đang làm nhiệm vụ.

Sau 8 ngày đêm kiên trì “cày đi xới lại” trên một vùng biển rộng lớn, vượt qua sóng to, gió lớn, tàu đã tìm cứu được cả 7 đồng chí và đưa về đơn vị an toàn. Đầu năm 1988, tàu làm nhiệm vụ trực bảo vệ đảo Đá Lớn. Cán bộ, chiến sĩ tàu HQ671 đã không quản ngại hy sinh, bình tĩnh, dũng cảm vững vàng vượt qua những khó khăn gian khổ, góp phần cùng đơn vị giữ vững chủ quyền của Tổ quốc trên đảo Đá Lớn. Sau đó, tàu tiếp tục thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho việc xây dựng và bảo vệ quần đảo Trường Sa.

Chính với những thành tích trên, tập thể đội tàu HQ671 [41, C41, 641] đã 2 lần được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Được tặng thưởng: 4 Huân chương Quân công, 8 Huân chương Chiến công và nhiều phần thưởng cao quý khác. Có 8 cán bộ, chiến sĩ của tàu qua các thời kỳ đã được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, đó là các đồng chí: Bông Văn Dĩa, Lê Văn Một, Đặng Văn Thanh, Dương Văn Lộc, Huỳnh Văn Sao, Hồ Đắc Thạnh, Phan Nhạn, Nguyễn Sơn.

Từ thực tế lịch sử cho thấy, tàu HQ671 [có số hiệu khác là C41 và 641] là con tàu duy nhất còn lại của Đoàn tàu “không số” - lực lượng vận tải anh hùng đã làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển, một kỳ công chiến lược, một nét đặc biệt đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật quân sự và chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Đây là hiện vật có giá trị đặc biệt, một bảo vật có ý nghĩa không chỉ đối với Hải quân nhân dân Việt Nam mà còn đối với cả dân tộc.

Theo Quỳnh Vân
Công an nhân dân

Video liên quan

Chủ Đề