Tại sao Phật giáo, phát triển ở Đông Nam á

Những con đường du nhập Phật giáo ở Đông Nam Á

Phật giáo là một tôn giáo lớn, có sức ảnh hưởng quan trọng ở châu Á. Từ Ấn Độ, theo các con đường khác nhau, Phật giáo được truyền vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên [TCN] và trở thành quốc giáo, gắn bó với đời sống chính trị – xã hội một số nước Đông Nam Á.

Trong dòng chảy đó, vào thế kỷ thứ XIII – XIV, Phật giáo đồng thời xác lập vị trí quốc giáo tại hai quốc gia trung đại ở Đông Nam Á là Sukhothai [Thái Lan] và Đại Việt [Việt Nam]. Tuy nhiên dưới những biến động lịch sử, Phật giáo vẫn giữ vị trí quốc giáo của mình tại Thái Lan, nhưng tại Việt Nam sau thời kì đỉnh cao ở thế kỷ XIV, Phật giáo trở về địa hạt của đời sống dân gian.

Nỗ lực tìm hiểu về Phật giáo sử Đông Nam Á

NSGN - Cụm từ Phật Giáo Sử Đông Nam Á ở đây là chỉ cho Lịch sử truyền nhập và phát triển của Phật giáo Nam tông tại các nước thuộc Đông Nam Á như Thái Lan, Miến Điện [Myanmar], Campuchia, Lào… kể cả Tích Lan [Srilanka] và Indonesia.


Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền


Đây là một lãnh vực mà cho đến hiện tại [Cuối năm 2018], giới nghiên cứu Phật học của Việt Nam còn bỏ trống, tức chúng ta chưa có một bộ sách biên soạn công phu và đầy đủ về vấn đề vừa nêu trên, ngoại trừ chúng ta đã có được bản Việt dịch tác phẩm Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 2: Phật Giáo Nam Truyền rất có giá trị của Pháp sư Tịnh Hải[1]. Do đó, trong bài viết này, chúng tôi xin điểm qua một số nét chính nơi tập sách Phật Giáo Sử Đông Nam Á của Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền [1905-1973] để thấy rõ Nhà nghiên cứu Phật học thuộc lớp tiền bối này đã có những cố gắng, những nỗ lực nhằm tìm hiểu tóm lược về Phật Giáo Sử Đông Nam Á.

Sách Phật Giáo Sử Đông Nam Á dày hơn 210 trang, nội dung gồm các phần:

* Chương I: Sự Mở Rộng của Phật giáo.

* Chương II: Nghi vấn về vùng Suvarnabhumi. Hai chương này có thể xem như là Phần Mở Đầu [Phật Giáo Sử Đông Nam Á. NXB.Tôn Giáo. 2012. Tr.9-20].

* Lịch Sử Phật Giáo Miến Điện. [Sđd. Tr.21-35].

* Lịch Sử Phật Giáo Nam Dương: Indonesia. [Sđd. Tr.36-68].

* Lịch Sử Phật Giáo Cam Bốt. [Sđd. Tr.69-109].

* Lịch Sử Phật Giáo Ailao. [Sđd. Tr.110-142].

* Lịch Sử Phật Giáo Thái Lan. [Sđd. Tr.143-166]

* Lịch Sử Phật Giáo Chiêm Thành. [Sđd. Tr.167-185].

* Lịch Sử Phật Giáo Tích Lan. [Sđd. Tr.186-215].

Chúng tôi xin lần lượt nêu dẫn rõ hơn về từng phần.

Phần mở đầu

1- Chương I: Sự Mở Rộng của Phật giáo


Phần Mở Đầu của sách, tác giả đã ghi nhận về sự Mở Rộng của Phật giáo ở Ấn Độ như sau: “Phật giáo bắt đầu vào thời đại Maurya [Vua A Dục] lan tràn khỏi vùng sông Hằng là nơi phát xuất, để lần hồi mở rộng phạm vi ảnh hưởng đến các vùng lân cận và rốt cuộc là khắp nước Ấn, kể luôn Tích Lan [Srilanka]. Sự xâm lược êm thấm này đã để nguyên những cơ sở Bà-la-môn giáo và những lối tu hành của dân tộc Ấn, bởi vì những cố gắng của các nhà truyền giáo [Phật giáo] ít nhắm vào việc trừ bỏ những gì đã có cũng như những tin tưởng của dân chúng, mà nhắm vào việc phổ biến những cái ấy cho thích ứng với giáo lý của Đức Phật.” [Phật Giáo Sử Đông Nam Á. Sđd. Tr.9].

Tiếp theo, tác giả nói đến Hai nguồn tài liệu, là cơ sở cho sự tìm hiểu về việc Phật giáo đã truyền ra ngoại quốc như thế nào. Đó là Niên sử của Tích Lan và Khoa khảo cổ Tân cựu. Về Nguồn tài liệu 1, tác giả đã căn cứ theo đấy để nói đến sự kiện vua A Dục và Tôn giả Moggaliputta-Tissa, sau cuộc kết tập kinh điển lần thứ 3 vào năm 236 PL [nhằm năm 250 trước TL] đã cử 9 phái đoàn truyền giáo đi đến 9 nơi, đáng chú ý nhất là 2 phái đoàn 8 và 9:

* 8: Hai Tỳ-kheo Sona và Uttara được cử sang vùng Suvarnabhùmi[2].


* 9: Tỳ-kheo Mahinda, con Vua A Dục, có sứ mạng sang hóa độ xứ Lankà [Tích Lan]. Cùng đi với Mahinda có 4 Tỳ-kheo khác là Itthiya, Utthiya, Sambala và Chadasàla [Sđd. Tr.11]. Gần 5 trang sách còn lại, tác giả dành để biện dẫn, ghi nhận về giá trị của các sử liệu kể trên.

2- Chương II: Nghi vấn về vùng Suvarnabhùmi

Vùng Suvarnabhùmi là nơi chốn đi đến của Phái đoàn truyền giáo thứ 8 do hai vị Tỳ-kheo Sona và Uttara đảm nhận như vừa nêu ở trên. Cư sĩ Chánh Trí đã dẫn ra một số tài liệu và kết luận theo như Tự Điển Nhân Danh Địa Danh Pali [Dictionary of Pali proper - Names] của Malalasekera: “Tích Lan và Suvarnabhùmi cách nhau bảy trăm hải lý và nếu gặp gió xuôi, thuyền phải mất bảy ngày đêm. Suvarnabhùmi thường được nhận là miền Hạ Miến, rất có thể là 2 quận Bagan và Moulmein. Cũng có thể tính luôn cả miền duyên hải Ngưỡng Quan [Rangoon] chạy dài tới Tân Gia Ba [Singapore]. Thị trấn quan trọng nhất của Suvarnabhùmi là Sudhammanagara nay là Thaton, ở vàm sông Sittaung”. [Sđd. Tr.19].


Pháp sư Thánh Nghiêm [1930-2009] trong sách Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 1, phần viết về Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, chương 4: A Dục Vương và Đại Thiên… thì ghi rõ: “* 8: Tu Na Ca [Sonaka] và Uất Đa La [Uttana] được phái đến Đất Kim [Suvarnabhùmi] tức Miến Điện ngày nay. [Xem: Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 1 của Pháp sư Thánh Nghiêm. Nhiều người dịch. NXB.Hà Nội. 1995. Tr.82][3].


Phần: Lịch sử Phật giáo Miến Điện [Myanmar]


Giới thiệu tóm tắt về Lịch sử Phật giáo Miến Điện gồm các mục:

* Lời Nói Đầu: Nêu: Chưa có thể trả lời một cách dứt khoát câu hỏi: Phật giáo đã du nhập vào Miến Điện từ lúc nào?

Căn cứ theo tài liệu do Truyền thống và Kinh sử cung cấp, đại lược có thể chia lịch sử ấy làm 2 phần: Phần thứ nhất: Là Thời Kỳ trước phái đoàn truyền giáo của 2 Đại đức Sona và Uttara. Phần thứ hai: Là Thời Kỳ từ đấy cho đến bây giờ [Sđd. Tr.21].
- Thời Kỳ thứ nhất:

+ Nêu ra 2 truyền thuyết về việc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng đi đến đất nước Miến Điện. [Sđd. Tr.22].

+ Nêu dẫn sự kiện học đạo và đắc đạo của 2 Hoàng tử Dvattajan và Dvattaràj, con của vua Dvattabaung, là vị vua đầu tiên của vương quốc Thiri Khettara được thành lập vào năm 442 trước TL. Thứ phi Ummàra [Mẹ của hoàng tử Dvattajan] và công chúa Suvanna Mà là cũng được một vị A-la-hán hóa độ. Bản thân vua Dvattabaung cũng là một người mộ đạo, có tinh thần hộ pháp lớn, đã cho xây dựng nhiều tháp đền v.v… Đây được xem là nhà nước đầu tiên của Quốc gia Miến Điện mộ Phật, trị vì kéo dài đến 552 năm. Sau khi triều đại này cáo chung thì dân chúng phân tán. Hai đoàn đã thiên cư tới vùng Thaton và Pagan, tạo sự mở mang cho lãnh thổ Miến Điện [Sđd. Tr.23-25].

+ Tác giả Chánh Trí Mai Thọ Truyền cũng đã dựa theo Niên sử của Phật giáo Miến Điện [Sàsanavamsa] để ghi nhận thêm về một số chi tiết chứng tỏ Phật giáo đã du nhập vào Miến Điện từ rất sớm [Sđd., tr.25-27].
- Thời Kỳ thứ hai:

Được nêu dẫn với nhiều chi tiết:

+ Công đức hoằng pháp, giáo hóa của 2 Tỳ-kheo Sona và Uttara, từ năm 235 PL trở đi…

+ Giai đoạn từ năm 800 TL đến 1044 TL: Có nhiều thay đổi trong sự liên lạc giữa các khu độc lập tại Miến. Năm 1018 TL, vua Anurudha đã khéo léo thống nhất các phần đất nơi các bộ lạc Thượng Miến thành một quốc gia rộng lớn, đã hỗ trợ cho sự phát triển của Phật giáo.

+ Phật giáo dưới các triều vua: Vua Anurudha: Từ 1027 TL… Vua Sawlu, từ năm 1079 TL… Năm 1963, Phật giáo được chính phủ Liên Hiệp Miến tôn là Quốc giáo. [Sđd., tr.28-34].
* Phần Sau cùng: Kết luận. Nêu một vài nhận xét về Phật giáo Miến Điện [Sđd., tr.34-35].

Phần: Lịch sử Phật giáo Nam Dương [Indonesia]

Gồm các Mục như sau:

* Lời Nói đầu: [Sđd., tr.36-37].

* Chương I: Phật giáo ở Nam Dương: Từ đầu tới thế kỷ VIII TL. * Chương II: Phật giáo ở Nam Dương: Từ thế kỷ IX tới ngày nay. [Sđd., tr.38-52]. * Phần còn lại, từ trang 53 đến trang 68: Tác giả đã nêu tóm tắt về Nghệ thuật và Văn chương của Phật giáo Nam Dương[4].

Phần: Lịch sử Phật giáo Cam Bốt

Gồm các Mục chính:

* Chương I: Một Ít Tài Liệu Lịch Sử, với các chi tiết:

+ Thời kỳ tiền lịch sử [Sđd. Tr 69].

+ Founan quốc: Thời kỳ lịch sử [Sđd., tr.70]. + Xa hơn là Ấn Độ và Trung Hoa.

+ Ảnh hưởng của Ấn Độ. Cuộc Ấn Độ hóa lần thứ 1. Cuộc Ấn Độ hóa lần thứ 2 và thời đại Founan kết thúc [Sđd., tr.71-76.

+ Nước Tchenla [Chân Lạp]: Thời kỳ thống nhất. Thời kỳ chia rẽ [Sđd., tr.76-78].

+ Cam Bốt lập quốc [Sđd., tr.78-83]. + Cam Bốt vào cuối thế kỷ thứ XIX [Sđd., tr.84-86].

* Chương II: Thời kỳ Phật giáo du nhập hay thời kỳ Founan [Sđd. Tr 87-93].

* Chương III: + Thời kỳ Tchenla [Chân Lạp]: Thế kỷ VI-IX [Sđd., tr.94-98]. + Thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX [Sđd. Tr 98-109] với các chi tiết: Sự thờ cúng. Đời sống của Tăng chúng. Nghệ thuật của Phật giáo Khmer. Phật giáo và dân tộc Khmer. Phật giáo và quốc gia. Tình hình Phật giáo hiện nay.

Phần: Lịch sử Phật giáo Ailao [Lào]

Gồm các Mục:

* Chương I: Quốc gia và dân tộc Lào [Sđd., tr.110-121] với các chi tiết: + Địa dư. + Nguồn gốc. + Thời kỳ tiền lịch sử. + Thời kỳ lịch sử khởi nguyên [1316-1711]. + Pháp quốc can thiệp vào nội tình của Lào [1885].

* Chương II: Phật giáo du nhập [Sđd., tr.122-131] với các chi tiết: + Thời kỳ tiền Phật giáo. + Phật giáo du nhập. + Sự tổ chức Giáo hội. + Sáu bậc Giáo phẩm.

* Chương III: Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống của dân tộc Lào [và hiện tình Phật giáo [Sđd., tr.131-142] gồm các chi tiết: + Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống dân Lào. + Quan niệm của dân chúng đối với Phật giáo và lối tu hành của họ. + Tình hình Phật giáo hiện nay.

Phần: Lịch sử Phật giáo Thái Lan

Gồm các chương:

* Chương I: Một ít lịch sử [Sđd. Tr 143-150].

* Chương II: Phật giáo du nhập và các thời kỳ tiến bộ [Sđd. Tr 151-158] với các chi tiết: + Thời kỳ thứ 1: Tiểu thừa hay Nam tông. + Thời kỳ thứ 2: Đại thừa hay Bắc tông. + Thời kỳ thứ 3: Ảnh hưởng của Phật giáo Miến Điện. + Thời kỳ thứ 4: Ảnh hưởng của Phật giáo Tích Lan.

* Chương III: Tình hình Phật giáo hiện nay [Sđd. Tr 159-166] với các chi tiết: + Tổng quát. + Quan hệ giữa Phật giáo và nhà nước. + Phật giáo và chính phủ. + Truyền bá và giáo dục. + Tăng đồ giáo dục. + Tổ chức: Giáo hội Tăng-già. Các Hiệp hội Phật tử tại gia. + Giáo sản: Tài sản chung của Giáo hội. Tài sản riêng thuộc mỗi chùa. Viện quản trị tài sản chung. Viện quản trị tài sản chùa.

Phần: Lịch sử Phật giáo Chiêm Thành

Gồm các chương:

* Chương I: Một ít lịch sử [Sđd. Tr 167-176] với các chi tiết: + Nêu tổng quát về đất nước Chiêm Thành hiện nay. + Nguồn gốc. + Bảng kê khai các triều đại và những biến cố quan trọng: 14 triều đại, từ năm 192 TL đến 1471 TL.

* Chương II: Văn Hóa và Tôn Giáo [Sđd. Tr 176-185] với các chi tiết: + Nêu: Cuối thế kỷ II sau CN là thời kỳ lịch sử của dân tộc Chàm bắt đầu, vương quốc Chăm đã chịu ảnh hưởng của Văn hóa Ấn Độ… + Phật giáo du nhập vào Chiêm Thành… [Về Lịch sử Phật giáo Chiêm Thành hay nói chung là Lịch sử đất nước Chiêm Thành, xin tham khảo thêm: Dân Tộc Chàm Lược Sử của Dorohiem và Dohamide. Tác giả tự xb. S. 1965].

Phần: Lịch sử Phật giáo Tích Lan [Srilanka]

Gồm các chương:

* Chương I: Một ít lịch sử [Sđd., tr.186-192] với các chi tiết: + Nêu tóm tắt về danh xưng của Hải đảo Ceylan [Tích Lan] và nguồn gốc của cư dân ở đấy. + Nêu 5 vị vua ở Tích Lan trị vì từ năm 486 đến năm 250 trước CN. + Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã quang lâm đến nước Tích Lan.

* Chương II: Phật giáo du nhập Tích Lan [Sđd. Tr 193-196] với các chi tiết: + Nêu vắn tắt về tiểu sử và hành trạng của Tỳ-kheo Mahinda con vua A Dục, sang truyền đạo tại Tích Lan. + Vua Devànampiyatissa [Tích Lan] quy y Tam bảo. + Mattabhaya, em ruột của nhà vua đã xuất gia làm Tỳ-kheo. Hoàng hậu và 500 thể nữ cũng xin vua cho xuất gia…

* Chương III: Phật giáo Tích Lan, từ 200-20 trước CN [Sđd., tr.197-207] với các chi tiết: Nêu ra 4 thời kỳ: Thời kỳ 5 vua [200-148 trước CN]. Triều đại Elàra [148-104 trước CN]. Triều đại Dutthagàmani: 104-80 trước CN]. Thời đại Thập vương [80-20 trước CN].

* Chương IV: Phật giáo Tích Lan: Từ đầu TL cho đến hiện nay [Sđd., tr.207-215] với một số chi tiết tiêu biểu: + Nêu vắn tắt về 3 tông phái của Phật giáo Tích Lan vào thế kỷ 3 TL. + Phật giáo Đại thừa đã du nhập và phát triển tại Tích Lan. + Hành trạng của Tôn giả Buddhaghosa [Thế kỷ V TL] từ Trung Ấn sang Tích Lan hoằng đạo [Dùng tiếng Pali chú thích hầu hết các Kinh-Luật-Luận của Phật giáo Nam tông]. + Phật giáo Tích Lan từ cuối thế kỷ X đến đầu thế kỷ XI đã bị người Tamil ở Nam Ấn Độ vượt biển sang đánh phá, tiêu diệt Phật giáo…

+ Vua Vijaya-bhàhu [1055-1114] nổi lên đánh đuổi quân thù, khôi phục giang sơn, sai sứ sang Miến Điện thỉnh kinh, tượng Phật về cùng trùng hưng Phật giáo. + Vua Para – khamabhàhu [1153-1186] nhờ sự tiếp sức của Phật giáo Miến Điện đã đưa Phật giáo Tích Lan đến chỗ thống nhất: Lấy Phật giáo Thượng tọa bộ thuộc Đại tự phái của Tôn giả Buddhaghosa [Phật Âm] làm giáo học chính thống. + Đến thế kỷ XIII, Phật giáo Thái Lan có những quan hệ tốt với Phật giáo Tích Lan. + Đất nước Tích Lan bị thực dân Bồ Đào Nha xâm lược, đô hộ, từ 1520-1658. Rồi bị người Hà Lan đô hộ từ 1658 đến 1796. Tiếp sau là thực dân Anh đô hộ từ 1796 đến năm 1948, là năm Tích Lan đã giành được độc lập.

+ Những diễn biến và phát triển của Phật giáo Tích Lan từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX. Và từ đầu thế kỷ XX đến hiện tại [1965] với các chi tiết: + Các tôn giáo: Gia Tô giáo [Catholicisme romain] và Tân giáo du nhập vào Tích Lan. Gia Tô giáo do người Bồ Đào Nha, còn Tân giáo thì do người Hà Lan đưa vào…

+ Phật giáo bị nhiều tổn thất trong thời gian đất nước Tích Lan bị thực dân phương Tây xâm lược, đô hộ.

+ Phật giáo Thái Lan đã có những hỗ trợ giúp Phật giáo Tích Lan chấn hưng. Những đóng góp lớn cho phong trào chấn hưng Phật giáo Tích Lan từ cuối thế kỷ XIX của danh Tăng M. Gunananda, của Đại tá người Mỹ: H. Seele Olcott [1832-1907], của danh Tăng Hikkaduwe Sri Sumangura và nhất là của Anagarika Dharmapala [1864-1933]…

Nhận xét

Chúng tôi xin nêu một vài nhận xét tóm tắt xem như là phần kết luận của bài viết này:

* Trước hết, chỉ trong khoảng 200 trang sách khổ 13x17, chữ khá lớn mà tác giả Chánh Trí Mai Thọ Truyền đã viết về lịch sử Phật giáo của 7 nước: Miến Điện, Nam Dương, Cam Bốt, Ai Lao, Thái Lan, Chiêm Thành và Tích Lan, cộng với phần Mở đầu v.v… nên đấy rõ ràng mới chỉ là Những Giới thiệu khái quát, Những Chỉ dẫn tóm lược giúp cho người đọc bước đầu tiếp cận với mảng lịch sử truyền nhập và Phát triển của Phật giáo Nam truyền tại các nước Đông Nam Á, kể cả Tích Lan [Thuộc Nam Á] và Chiêm Thành, là đất nước không còn có tên trên bản đồ thế giới hiện đại. Đây là một lãnh vực rất rộng lớn và phong phú cần được quan tâm khảo sát tìm hiểu, nhưng giới nghiên cứu Phật học ở Việt Nam hiện đại còn đứng cách khá xa[5]. Do vậy, điều đáng nhấn mạnh ở đây, nhưng chúng tôi đã có nói qua nơi phần Nhập đề, tức là những cố gắng những nỗ lực rất đáng tán dương của tác giả để tìm hiểu đối tượng. Và chính từ những nỗ lực, những cố gắng ấy mà giá trị của sách đã được xác định. Đó là giá trị Mở đầu - Mở đường, tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu đi sau.

* Thứ hai là về khía cạnh tư liệu tham khảo, tuy người viết cũng đã có nhiều thâu tóm, quán xuyến, nhưng nhìn chung thì vẫn còn thiếu, còn ít, mà sự trích dẫn cũng chưa được rõ, chưa khoa học. Cứ đối chiếu với sách Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 2: Phật Giáo Nam Truyền của Pháp sư Tịnh Hải thì sẽ thấy rõ. Chắc chắn là vào thời bấy giờ [khoảng 1965-1966?] tác giả chưa có nhiều điều kiện để tiếp cận với những tài liệu có liên hệ thuộc loại tiêu biểu.

* Ngoài ra, sự kiện tác giả đã viết tóm lược về Lịch Sử Phật Giáo Indonesia [Nam Dương] và Lịch Sử Phật Giáo Chiêm Thành… là những đóng góp rất cần thiết và rất đáng tán dương, vì đã giúp cho người đọc, cụ thể là những người học Phật bình thường có được những hiểu biết tương đối chính xác về quá khứ: Phật giáo đã từng du nhập và phát triển tốt tại những vùng đất khá đặc biệt này.

Đào Nguyên

_____________________

Bài viết này là tham luận tham dự Hội thảo khoa học: “Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Việt Nam”, do Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, tổ chức vào ngày 20-04-2019 [16-3 năm Kỷ Hợi] tại chùa Phật Học Xá Lợi TP.HCM.

[1] Xem: Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 2 - Phật Giáo Nam Truyền. Tác giả: Pháp sư Tịnh Hải. Nhiều người dịch. NXB.ĐH và GDCN. 1992. 380 trang.

[2] Về sự kiện Phật giáo từ Ấn Độ [Lan rộng khắp lãnh thổ Ấn Độ] truyền ra nước ngoài có thể tham khảo thêm. Những trang viết của Pháp sư Thánh Nghiêm trong sách Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 1. Phần viết về Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ. Chương 4: A Dục Vương và Đại Thiên… Sđd. Tr 76-85.

[3] Về vùng đất Suvarnabhùmi [Hoặc: Suvannabhùmi] có thể xem thêm: Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới T2 - Phật Giáo Nam Truyền của Pháp sư Tịnh Hải. Phần viết về Lịch Sử Phật Giáo Miến Điện. Nhiều người dịch. NXB.ĐH và GDCN. 1992. tr 141-154.

[4] Đọc qua phần này, người đọc - nhất là lớp trẻ - sẽ hiểu rõ hơn đối với câu viết của Bs Trần Ngọc Ninh trong sách Đức Phật Giữa Chúng Ta [NXB.Lá Bối. S. 1972. Tr.18]: “Nhìn qua khía cạnh của dân chúng Á châu nói chung và của người dân Việt Nam nói riêng, đạo Phật không là một đạo yếm thế và xuất thế. Từ những bích họa vĩ đại Ajanta ở Ấn Độ, Tun Chuang ở Trung Hoa, đến những công trình kiến trúc kỳ diệu Mahabodhi ở nơi Đức Phật thành đạo, Borobudur [Sách của Cư sĩ Chánh Trí ghi là: Tháp Bârâbudur] ở Nam Dương, Angkor Vat ở Cao Miên, Đồng Dương ở Champa, Hương Tích Tự ở Việt Nam… đã có cả một sự nảy nở huy hoàng và tràn đầy sinh khí của nghệ thuật Phật giáo, để chứng tỏ sự vui mừng, sự hoan lạc, sự tin tưởng của quần chúng Á châu khi lời của Đức Phật được truyền đến do các Đại sư. Nếu nghệ thuật là phản ánh của tâm hồn thì đây là bằng chứng rằng đạo Phật đã thực đem lại sự an vui”.

[5] Đúng ra thì phải kể đến những đóng góp của GS Trần Quang Thuận cho lĩnh vực này. Đó là các tác phẩm biên soạn về lịch sử Phật giáo nơi từng nước thuộc Đông Nam Á v.v… đã được xb, sau sách Nguyên Nhân Thăng Trầm - Thịnh Suy của Phật Giáo Ấn Độ. Hy vọng là sẽ có dịp chúng tôi sẽ xin giới thiệu các tác phẩm kể trên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phật Giáo Sử Đông Nam Á của Chánh Trí Mai Thọ Truyền. NXB.Tôn Giáo. 2012.

2. Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 1 của Pháp sư Thánh Nghiêm. Nhiều người dịch. NXB.Hà Nội. 1995.

3. Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 2. Phật Giáo Nam Truyền của Pháp sư Tịnh Hải. Nhiều người dịch. NXB.ĐH và GDCN. 1992.

4. Đức Phật Giữa Chúng Ta của BS.Trần Ngọc Ninh. NXB.Lá Bối. 1972.

5. Dân Tộc Chàm Lược Sử của Dorohiem và Dohamide. Tác giả tự xb. S. 1965. 6. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 3 của Nguyễn Lang. NXB.Lá Bối. Paris. 1985.

Quảng cáo

Quảng cáo

Quảng cáo

Mục lục

  • 1 Lịch sử
  • 2 Giáo lý cốt lõi
    • 2.1 Tứ Thánh Đế
    • 2.2 Bát chánh đạo
    • 2.3 Nhân quả và luân hồi
    • 2.4 Siêu hình học
    • 2.5 Thế giới quan
  • 3 Lịch trình tu học
  • 4 Tông phái
    • 4.1 Phật giáo Nam truyền
    • 4.2 Phật giáo Bắc truyền
      • 4.2.1 Tịnh độ tông
      • 4.2.2 Thiền tông
      • 4.2.3 Thiên Thai tông
      • 4.2.4 Hoa Nghiêm Tông
      • 4.2.5 Pháp Tướng Tông
      • 4.2.6 Tam Luận Tông
    • 4.3 Phật giáo Mật truyền
  • 5 Phật giáo trên thế giới
    • 5.1 Việt Nam
    • 5.2 Trung Quốc
    • 5.3 Myanmar
    • 5.4 Sri Lanka
    • 5.5 Indonesia
    • 5.6 Campuchia
    • 5.7 Thái Lan
    • 5.8 Triều Tiên
    • 5.9 Mông Cổ
    • 5.10 Lào
    • 5.11 Nhật Bản
  • 6 Khác biệt so với các tôn giáo khác
  • 7 Ảnh hưởng tới văn hóa
    • 7.1 Việt Nam
    • 7.2 Trung Quốc
  • 8 Nhận xét
  • 9 Tham khảo
  • 10 Xem thêm
  • 11 Chú thích
  • 12 Thư mục
  • 13 Liên kết ngoài

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử Phật giáo

Phía đông bắc của tiểu lục địa Ấn Độ là dãy núi Hy-mã-lạp-sơn [Himalaya] cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Khoảng 3000 năm TCN, người Dravidian bản địa xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn và sông Hằng. Sau đó, người Aryan du mục đã dần mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Ấn Độ và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm TCN. Nền văn hóa triết học chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ-đà [Vedas].

Văn hoá Vệ-đà nghiêng về sùng bái nhiều thần thánh cũng như có các quan điểm duy tâm và thần bí về thế giới và vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến văn hóa Vệ-đà thành Đạo Bà-la-môn [Đạo Brāhmaṇa] và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng cấp Bà-la-môn [tầng lớp tăng lữ] là giai cấp thống trị. Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bà-la-môn [hay sớm hơn từ văn hóa Vệ-đà]. Đạo Bà-la-môn còn cho rằng tồn tại một bản chất chung của vạn vật, đó là Đại ngã [Brahman].

Tôn giáo gắn liền với nó là triết học phát triển mạnh tại Ấn Độ với sự xuất hiện rất nhiều hướng triết lý và cách hành đạo khác nhau và đôi khi phản bác nhau. Trong thời gian trước khi Phật giáo xuất hiện, đã có rất nhiều trường phái tu luyện. Các xu hướng triết học cũng phân hoá mạnh như là các xu hướng, chủ nghĩa khoái lạc, ngẫu nhiên, hoài nghi mọi thứ, huyền bí pháp thuật, duy vật, duy tâm, tu khổ hạnh, tu đức hạnh, trì niệm chú, đọc tụng kinh...

Đại học Nalanda là một trung tâm Phật giáo quan trọng ở Ấn Độ [bị người Hồi giáo phá hủy năm 1197]

Phật giáo được Tất-đạt-đa Cồ-đàm, người sáng lập Phật giáo, thuyết giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 45 năm theo Phật giáo Nam tông [hoặc 49 năm theo Phật giáo Bắc tông] khi Đức Phật còn tại thế ra đến nhiều nơi, nhiều dân tộc nên lịch sử phát triển của Phật giáo khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức, nghi lễ hay phương pháp thực tập, tu học. Ngay từ buổi đầu, Đức Phật đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Tại Ấn Độ, Phật giáo có thể đã bắt đầu suy tàn từ thế kỉ thứ 7 và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn Độ từ đầu thế kỉ thứ 13 bởi sự đàn áp mạnh của chính quyền và quân Hồi giáo bên ngoài. Mãi đến giữa thế kỉ thứ 20, phong trào chấn hưng Phật giáo ở Ấn Độ mới bắt đầu nhờ công của 1 nhà hoạt động chính trị-xã hội và nhà kinh tế học người Ấn Độ tên là Bhimrao Ambedkar. Tuy nhiên, Phật giáo lại phát triển mạnh ở những nước lân cận. Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ sang Tây Tạng, Trung Quốc, Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Nhờ vào tính chất khai sáng cùng sự uyển chuyển, linh hoạt của triết lý, Phật giáo được nhiều người tiếp nhận và có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều tầng lớp giai cấp, nhiều phong tục tập quán ở các thời kỳ, đất nước khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ, Canada, Úc và châu Âu. Triết lý Phật giáo phù hợp với tinh thần khai sáng của châu Âu nên nhiều nhà triết học ở đây chú ý nghiên cứu Phật giáo và truyền bá nó.

Ngay sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề [Bodhi] ở tại Bồ-đề Đạo Tràng [Bodh Gaya] vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN - có tài liệu cho đó là vào năm 590 TCN theo Phật giáo Nam tông hay năm 595 TCN theo Phật giáo Bắc tông, Đức Phật đã quyết định thuyết giảng lại sự hiểu biết của mình. Bài kinh đầu tiên mà Đức Phật thuyết giảng đó là Kinh Chuyển pháp luân [Dhammacakkappavattana Sutta][10] giáo hóa nhóm có năm vị Tỳ-kheo [Bhikkhu] trở thành A-la-hán [Arahant]: Kiều-trần-như [Koṇḍañña] trưởng nhóm, Vappa, Bhaddiya, Mahānāma và Assaji tại vườn phóng sinh nai tên gọi Vườn Lộc Uyển [Mrigadava] gần kinh thành Ba-la-nại [Bārāṇasī]. 100 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Đức Phật đã hình thành Tăng-già [hay Tăng Đoàn, saṅgha] đầu tiên. Sau đó, những người này chia nhau đi khắp nơi và truyền bá thêm ngày càng nhiều người muốn theo thực tập và tu học. Để làm việc được với một lượng người theo thực tập và tu học ngày càng đông, Đức Phật đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm người được gọi là giới luật. Giới luật này phần chính là việc Quy y Tam bảo [Nương tựa Ba ngôi báu cao quý] - tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính Đức Phật, những lời dạy của Đức Phật [Giáo Pháp], và cộng đồng những người xuất gia thực hành theo lời dạy của Đức Phật [Tăng Đoàn].

Trong thời Đức Phật còn tại thế thì những người xuất gia theo Phật giáo được tập hợp trong tổ chức được gọi là Tăng Đoàn, trực tiếp được sự hướng dẫn của Đức Phật về giáo pháp và phương thức thực hành, tu tập. Tăng Đoàn là tổ chức thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt giới tính, tuổi tác, thân thế, giai cấp xã hội và có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên. Giới luật của Tăng Đoàn dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong các kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn. Nhờ vào tổ chức có tính bình đẳng và quy củ nên Tăng Đoàn tránh được nhiều chia rẽ. Ngoài những người xuất gia, Đức Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia hay cư sĩ. Giới cư sĩ cũng được Đức Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ Tăng Đoàn về nhiều mặt. Khi Đức Phật còn tại thế. Ông là một nhà triết học, một vị chân sư còn các tu sĩ và quần chúng nhân dân là học trò của ông. Chỉ sau khi ông nhập niết-bàn thì Phật giáo mới hình thành với hệ thống giáo lý là những lời dạy của Đức Phật, giáo hội được các đệ tử của Đức Phật thành lập, giáo chúng là những người tin vào lời dạy của Đức Phật và tôn kính Đức Phật.

Sau khi Đức Phật niết-bàn thì Tôn giả Ma-ha-ca-diếp [Maha Kassapa] thay phần lãnh đạo giáo hội. Ông tập họp 500 vị Tỳ-kheo tại thành Vương-xá [Rājagaha] để tổ chức đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất nhằm kết tập những lời dạy của Đức Phật. Tại kỳ kết tập này giáo luật Phật giáo được tôn giả Ưu-ba-li [Upāli] kết tập và được tăng đoàn chấp thuận. Tôn giả A-nan-đà [Ananda] kết tập giáo pháp và được đại chúng nhất trí. Tôn giả A-nan-đa lần lượt kết tập các kinh Tăng nhất, Tăng thập, Ðại nhân duyên, Tăng Kỳ Ðà, Sa môn quả, Phạm Ðộng và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư Thiên và nhân loại. Những kinh dài kiết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm, những kinh trung bình kết tập lại thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm. Ngoài ra tập họp các kinh bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng. Sau kỳ kết tập này Luật tạng và Kinh tạng của Phật giáo cơ bản hình thành.[11] Giáo hội giữ nguyên các hoạt động truyền thống của mình cho đến kì kết tập kinh điển lần thứ hai.

Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai diễn ra sau khi Đức Phật niết-bàn khoảng 100 năm do có sự mâu thuẫn về giới luật và tranh cãi về tính không hoàn hảo của một vị A-la-hán. Sự kiện diễn ra như sau, Trưởng lão Da-sá [Ya-za] trong lần tuần du đến thành Tỳ-xá-ly [Vaishali] đã nhận thấy các Tỳ-kheo ở đây thực hiện nhiều hành vi vi phạm giới luật. Trong đó nghiêm trọng nhất là việc nhận vàng bạc của thí chủ cúng dường. Ông nói như thế này với người dân và Tỳ-kheo ở Tỳ-xá-ly: "các ngươi không nên cúng thí tiền, ta từng đích thân theo Phật nghe pháp, nếu ai cầu thí không đúng với giáo pháp, cũng như những ai cúng thí không đúng với giáo pháp, cả hai đều đắc tội"[12]. Các vị Tỳ kheo ở đây từ chối cho rằng mình có tội, họ nói đó là những điều chỉnh thích hợp đối với văn hóa và phong tục nơi đây, mâu thuẫn không thể giải quyết và do vậy họ quyết định trục xuất Da-sá. Da-sá sau đó đi đến nhiều vùng đất khác nhau tập hợp các Trưởng lão và những người am hiểu phật pháp nhằm mục đích xem xét các hành vi trái với giới luật là có thể chấp nhận được hay không. Kỳ đại hội này đánh dấu sự phân phái chính thức đầu tiên của Phật giáo thành Trưởng lão bộ và Đại chúng bộ[12][13]. Đại hội còn có 2 tên khác là Thất bách kết tập và Tỳ-xá-ly kết tập vì cuộc kết tập diễn ra tại thành Tỳ-xá-ly với sự tham giá của 700 vị A-la-hán. Khi đại hội kết thúc, trưởng lão Revata [Ly-bà-đa] kết luận: "Những gì không do Phật chế thì không được tùy tiện chế định, những gì do Phật đã chế thì không được vi phạm. Tăng chúng phải chăm chỉ học tập những gì Phật đã truyền dạy[11]".

Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba diễn ra sau Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai đúng 118 năm dưới sự bảo trợ của vua Asoka [A-dục], nghĩa là sau Đức Phật niết-bàn khoảng 218 năm, tức là khoảng 325 năm TCN. Đại hội kéo dài khoảng 9 tháng dưới sự chủ tọa của Mục-kiền-liên-tử Ðế-tu [Moggaliputta-Tissa]. Địa điểm diễn ra đại hội là vườn Viên-lâm [Uyỳana], thành Hoa-thị [Pàtaliputta], thuộc miền Trung Ấn Độ. Số người tham gia đại hội là 1000 người.[14][15] Mục đích của đại hội là ngăn chặn việc các sư đem giáo luật ngoại đạo giảng cho tín đồ, qua đó ngăn chặn rạn nứt trong Tăng Đoàn. Thể thức kết tập cũng giống hai lần đại hội trước. Sau khi kết tập, Mục-kiền-liên-tử Ðế-tu đã soạn sách Thuyết-sự [Kathàvatnu] để phản bác nghĩa lý của các phái ngoại đạo đương thời.[16][17] Một công việc quan trọng khác của Đại hội này là biên tập lại các bộ luận. Từ đó, kinh điển Phật giáo được hệ thống hóa đầy đủ thành tam tạng gồm tạng Luật, tạng Kinh và tạng Luận. Mục-kiền-liên-tử Ðế-tu giao cho đệ tử phổ biến tam tạng này sang 9 nước khác gồm: Lankadipa [Sri Lanka], Suvannabhumi [Mon / Myanmar, Thái Lan], Himavanta [ở Himalaya], Yona [Hy Lạp]...

Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư là tên gọi chung cho hai đại hội kết tập kinh điển Phật giáo tại Sri Lanka và Kashmir. Năm 25 TCN tại chùa Thūpārama ở kinh đô Anuradhapura của Sri Lanka phái Thượng tọa bộ tổ chức đại hội kết tập kinh điển. Cũng có thuyết cho rằng đại hội này diễn ra vào khoảng 400 năm sau khi Gautama qua đời và được vua Vattagàmani bảo trợ.[18] Lại có thuyết nữa cho rằng Đại hội này diễn ra vào năm 232 TCN [năm Phật lịch 313] thời vua Devanampiya Tissa [trị vì: 307 TCN – 267 TCN, mất 267 TCN].[19] Thành quả của cuộc kết tập này của phái Thượng tọa bộ là bộ kinh điển bằng tiếng Pali, được viết lên lá cọ và được truyền bá sang xứ của người Môn ở Myanma, Thái Lan, Campuchia, Lào ngày nay. Một đại hội khác được phái Thuyết nhất thiết hữu bộ tổ chức tại Kashmir diễn ra vào khoảng 400 năm sau khi Cồ-đàm qua đời [tức khoảng năm 78] tại thành Kasmira nước Kushan dưới sự bảo hộ của vua nước này là Kanishka. Chủ tọa đại hội là Vasumitra [Thế Hữu]. Số đại biểu là 500 người. Mục đích của đại hội là hệ thống hóa lại các bộ luận của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ. Thành quả của cuộc kết tập của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ là 3 bộ luận bằng chữ Phạn gồm 300 ngàn bài kệ và 9.6 triệu từ được khắc trên các lá đồng.[16]

Quang cảnh Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ sáu

Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ năm được tổ chức vào năm 1871 ở Mandalay, Miến Điện dưới sự bảo trợ của vua Mindon. Về dự đại hội có 2400 tu sĩ Phật giáo. Chủ trì đại hội là Thượng tọa Pong Yi Sayadaw. Các nhà sư nổi tiếng như Jāgarābhivamsa, Narindābhidhaja, Sumangalasāmi đã tham dự đại hội. Kết quả kết tập là toàn bộ Tam tạng được viết trên 729 phiến đá cẩm thạch, mỗi phiến đá cao hơn 1,5 m và rộng gần 1 m, khắc chữ đầy cả hai mặt. Luật tạng khắc trên 101 phiến đá, Kinh tạng trên 520 phiến, và Luận tạng trên 108 phiến. Phần chú giải của Tam tạng được khắc trên 1774 phiến đá khác. Các phiến đá này được vua cho lưu trữ ở tháp Mahalokamarakhin và tháp Candamunī.

Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ sáu diễn ra từ ngày Phật đản 17 tháng 5 năm 1954 đến ngày Phật đản năm 1956 ở thủ đô Rangoon, Miến Điện. Đại hội do Chính phủ Miến Điện bảo trợ. Các đại biểu đến từ Miến Điện và các nước có Thượng tọa bộ gồm Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Sri Lanka, Ấn Độ và Nepal. Chủ tọa Đại hội là Nyungan Sayadaw. Người nêu nghi vấn về kinh điển là Mahasi Sayadaw. Người giải đáp nghi vấn là Mingun Sayadaw [Bhadanta Vicittasāra Bhivamsa]. Cuộc vấn đáp được chủ tọa và 2500 tu sĩ Phật giáo theo dõi, chất vấn và ghi chép. Kinh điển được kết tập, xem xét, chú giải bằng ba thứ tiếng Pāli, tiếng Myanma, và tiếng Anh. Các kinh điển của kỳ Đại hội lần thứ năm được sử dụng làm căn cứ và đối chiếu với các bản kinh cổ của Sri Lanka, Thái Lan, Campuchia và Hiệp hội Thánh điển Pāli ở Luân Đôn.

Phật giáo ở các nước Đông Nam Á hải đảo

Bởi

[phattuvietnam.net]

-

4 Tháng Năm, 2011

0

1620

Facebook

Twitter

Google+

Pinterest

WhatsApp

Việt Nam là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á nhưng đã từ lâu chúng ta chưa có sự hiểu biết nhiều về các quốc gia trong khu vực này.

Từ năm 1995 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN, thì nhu cầu giao lưu tìm hiểu lẫn nhau trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị xã hội ngày càng cấp thiết.

Đông Nam Á có diện tích 4.494.047 km² và bao gồm 11 quốc gia: Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanma, Philippin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.

Dân số năm 2008 là 574.2 triệu người. Đây là khu vực được xem là cửa ngỏ từ Đông sang Tây, có ý nghĩa quan trọng trên con đường giao thương quốc tế và khu vưc. Có một nền văn hóa phong phú và hết sức đa dạng, chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa lớn như Ấn Độ, Trung Hoa, Ả rập, và Phương Tây.

Hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều có mặt ở khu vực này, Phật giáo chiếm đa số dân cư các nước lục địa và được xem là quốc giáo ở Thái Lan, Lào, Campuchia, Mianmar.

Islam giáo, Thiên chúa giáo chiếm đa số tại các nước hải đảo. Islam là quốc giáo ở Malaysia, Brunei, Thiên chúa giáo là quốc giáo ở Philippin, Đông Timor.

Tuy nhiên ở đây tôi không chủ ý đi vào phân tích tình hình tôn giáo hiện nay ở Đông Nam Á, mà tôi xin trình bày về tình hình Phật giáo tại các nước Đông Nam Á hải đảo. Khu vực mà trước đây Phật giáo có giai đoạn phát triển cực thịnh, nhưng trong quá trình lịch sử phát triển thì hiện nay cư dân chủ yếu theo Islam và Thiên chúa giáo.

Quay lại với lịch sử thì vùng hải đảo trước đây từ thế kỷ 3-4 SCN các quốc gia trị vì trên các vùng đảo Java, Sumatra, Malaca đã tiếp nhận nền văn hóa Ân Độ và dần các vương triều trị vì đã “Ấn Độ hóa” vương quốc của mình.

Cùng với đạo Hindu thì Phật giáo cũng bắt đầu theo các lái buôn mà có mặt nơi đây. Ở miền tây Brunei các nhà khảo cổ phát hiện có nhiều tượng Phật có niên đại năm 400 SCN, ở đảo Java, Sumatra cũng phát hiện các di tích tương tự chứng tỏ nơi đây đã tiếp thu nền văn hóa, tôn giáo Ấn Độ khá sớm.

Quần đảo này đã từng chứng kiến những giai đoạn đỉnh cao của Phật giáo dưới các triều đại Sailendra [thế kỷ 8-9], Srivijaya [thế kỷ 7-13] và Medang [thế kỷ 8-10].

Theo thư tịch cổ của Trung Quốc thì năm 418, một vị cao tăng tên Pháp Hiển, trên đường qua Ấn Độ tu học đã có ghé nơi đây và ông đã chứng kiến được sự phồn thịnh của đạo Phật.

Đến thế kỷ thứ 7 thì Sumatra và Java trở thành những trung tâm Phật giáo quan trọng trong khu vực, là nơi tu học của các tăng sĩ hoặc là nơi lưu lại trên đường qua Ấn Độ.

Đây cũng là giai đoạn đánh dấu sự hình thành đền Borubudur ở miền trung Java.

Năm 671 nhà sư Nghĩa Tịnh đã đến đây và cho biết có hàng ngàn nhà sư và các nghi lễ giống hệt ở Ấn Độ.

Đến thế kỷ 13 dưới sự xâm nhập của Islam thì Phật giáo bị tàn lụi dần, triều đình theo Hindu-Phật giáo trước sự tấn công của nhà nước Demak theo Islam phải chạy ra đảo Bali [năm 1500].

Ngày nay tín đồ Phật giáo tập trung chủ yếu ở người Hoa với khoảng 4 triệu triệu tín đồ [năm 2000] tuy nhiên số lượng này có thể ít hơn do tín đồ Khổng giáo và Đạo giáo cũng tự nhận mình là Phật tử do Hiến pháp Indonesia chưa công nhận 2 tôn giáo này, và tín đồ tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Jakarta, Yoyakarta, một số ít ở đảo Riau, Bali, Bắc Sumatra và Tây Kalimantan.

Đến 1934 Phật giáo Indonesia bắt đầu có sự hồi sinh sau sự có mặt của các tu sĩ người Srilanka, họ đã đề ra những mục tiêu để truyền bá Phật giáo tại nơi đây đánh dấu bằng một buổi lễ trồng cây Bồ đề tại Borubudur.

Đến năm 1955 một nhà sư khác tên Ashin Jinarakkhita người Thái Lan bắt đầu có chuyến đi đến Indonesia để tìm hiểu tình hình thực tế và cho gởi các nhà sư địa phương đi đào tạo tại Thái Lan, Srilanka.

Indonesia từ nhiều năm nay đều tổ chức Lễ Vesak [Waisak]-kỷ niệm ngày Phật sinh, Giác ngộ và nhập Niết bàn. Ngày này được xem là một trong những ngày nghĩ lễ công cộng trên toàn quốc thường rơi và trung tuần tháng 5 dương lịch.

Sự kiện đầu tiên của buổi lễ đánh dấu bằng việc lấy nước thiêng từ một con suối ở Jumprit ở huyện Temanggung vào ngày đầu, sau đó được đưa về chùa Mendut gần Borubudur.

Ngày hôm sau sẽ lấy lửa từ làng Grobogan, quận Purwodadi, Trung Java. Ngọn lửa và nước thiêng được lưu giữ trong chùa Mendut và được sử dụng trong các buổi lễ tại Borobudur vào ngày Vesak.

Sáng ngày lễ chính tất cả tăng đoàn và Phật tử sẽ có một cuộc đi bộ từ đền Mendut đến Borubudur, đoàn rước với nến, cờ, hoa, những chiếc xe được trang hoàng lộng lẫy tạo nên một không khí vui nhộn, hoành tráng.

Vào ban đêm dưới ánh trăng tròn mọi người thiền định tại nơi đây và thả lên bầu trời hàng trăm chiếc lồng đèn tượng trưng cho sự giác ngộ của Phật, ngoài ra còn có sự tham gia biểu diễn của các đoàn nghệ thuật đến từ nhiều nơi.

Năm 2010 trong bài phát biểu của mình Tổng Thống Susilo Bambang Yodhoyono có nói “đây là một lễ hội tôn giáo rất quan trọng của Indonesia, Đông Nam Á và cho cả thế giới, khi con người nhận ra mục đích của cùng của cuộc sống là hòa bình, hòa hợp và hạnh phúc”.

Năm nay theo WALUBI- Hiệp hội Phật giáo Indonesia, thì chủ đề của Đại lễ Vesak 2555 là: "Tìm kiếm hạnh phúc và bình an trong chính bản thân mình".

Theo một số bản khắc bằng chữ Phạn có niên đại thế kỷ 4 thì bán đảo Mã Lai lúc đó đã có một số vương quốc tồn tại đó là Kedah, Tambralinga ở Sumatra và Palembang ở Singapore ngày nay.

Các văn bản cổ này còn cho biết sự có mặt của Phật giáo Đại thừa. Ngày nay Malaysia là quốc gia Islam giáo với gần 60% dân số theo Islam, Phật giáo chiếm trên 19% phổ biến trong cộng đồng người Hoa, ngoài ta còn có cộng đồng người Srilanka, Thái Lan, Ấn Độ…

Cũng như ở Indonesia và Singapore, Lễ Vesak là ngày nghĩ trên toàn quốc. Ngày lễ nay được tổ chức hàng năm ở chùa Maha Vihara.

Tại Kualalumpua tín đồ Phật giáo ở đây đã tham gia vào một cuộc tuần hành và rước nến thông qua các đường phố ở trung tâm của thành phố cổ trước đêm diễn ra Vesak với đủ mọi thành phần trong xã hội ngoài ra còn có sự tham gia của các du khách nước ngoài.

Hiện ở Malaysia có 35 tổ chức Phật giáo, gồm các tăng sĩ, hội đoàn của người Hoa, cộng đồng người Ấn, Srilanka…với sự tham gia diễu hành của các đoàn lân sư rồng, thậm chí cả các ban nhạc của của một số trường Công giáo.

Trong thời gian diễn ra lễ hội ngoài các nghi thức chính như tắm Phật, lễ ban phước lành, cúng dường, còn có thuyết pháp, tọa đàm, triển lãm.

Singapore là một quốc đảo có diện tích nhỏ bé, nhưng là một quốc gia phát triển nhất trong khu vực, có dân số khoảng 4,5 triệu người, gồm 3 chủng tộc tộc chính là cộng đồng người Hoa, Malay và Ấn Độ. Trong đó người Hoa chiếm 77%.

Người Hoa ở Singapore theo Phật giáo chiếm khoảng 33,6% [2010] còn lại theo Đạo giáo, Thiên chúa giáo…Nhóm nhỏ hơn theo đạo Phật khoảng trên 100 ngìn người thuộc cộng đồng người Bumar, Thái Lan, Srilanka, Nhật Bản…

Vào ngày Vesak Các ngôi chùa của phái Đại Thừa ở Singapore như chùa Phor Kark See Temple trên đường Bright Hill Road cử hành nghi lễ “tam bộ nhất bái”, để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, an lành và sám hối cho con người.

Lễ diễu hành với xe hoa, cờ xí dọc theo các con phố chính, thu hút đông đảo Phật tử và người dân, lẫn khách du lịch.

Đối với cộng đồng người Sri Lanka và Bumar thì chùa của họ tại Geylang và ở đường St Michael’s tại đây thực hiện nghi lễ nấu cơm với sữa vào Ngày Phật Đản, để tưởng nhớ lại bữa cơm cuối cùng của đức Phật trước khi Ngài nhịn ăn dài ngày tìm đường giác ngộ. Và diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ truyền thống của cộng đồng.

Ở Philippin cộng đồng Phật giáo tương đối nhỏ. Các di chỉ khảo cổ cũng tìm thấy một số di chỉ, hình ảnh Phật giáo ở Agusan có niên đại từ thế kỷ thứ 7, tuy cũng có những ảnh hưởng nhất định đến ngôn ngữ, lễ nghi, tập quán với người Philippin nhưng không rõ nét cho lắm.

Đến những năm 1920-1930 tại Davao, Cebu do số lượng người Nhật, Hoa nhập cư ngày càng nhiều và là cộng đồng Phật giáo chủ yếu, năm 1960 cộng đồng người Việt có dựng một ngôi chùa ở Palawan, cùng lúc thì một ngôi chùa và tổ chức Sokka Gakkai của Nhật cũng được xây dựng.

Ngày nay Phật giáo chiếm từ 1-3% dân số Philippin gồm cộng đồng người Hoa, Nhật, Việt Nam sau có thêm cộng đồng người Srilanka, Thái Lan, Campuchia.

Tóm lại thì Phật giáo là tôn giáo có lịch sử lâu đời tại các quốc gia vùng hải đảo, nhưng trong quá trình lịch sử phát triển của mình do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà Phật giáo dần bị lụi tàn.

Nếu tính tổng số các nước Đông Nam Á thì tín đồ Phật giáo khoảng 147,9 triệu người [25,7% dân số Đông Nam Á], tuy nhiên trong đó số lượng tín đồ Phật giáo ở 6 nước vùng hải đảo chỉ có 12 triệu người [3,5% dân số các nước hải đảo] và chỉ phổ biến trong cộng đồng người Hoa, Thái Lan, Srilanka và một vài nhóm sắc tộc khác.

Tuy nhiên chúng ta có quyền hy vọng rằng với nhiều tổ chức Phật giáo hiện được thiết lập, các trung tâm nghiên cứu, thiền đường đang được xây dựng, thì đạo Phật ở nơi này sẽ vẫn mãi được gìn giữ và phát triển.

Chúng ta biết rằng lời dạy của Đức Phật sẽ tồn tại như Ngài đã tiên đoán, cho đến khi dù chỉ có một số người duy trì chính pháp, thì đạo Phật vẫn còn ở đời. Nhưng chúng ta không được hài lòng với điều đó. Toàn thể nhân loại cần lời dạy của Đức Phật đó là lòng Từ Bi, nhằm mang tới Bình an và Hạnh phúc, và Hòa hợp cho tất cả chúng ta.

Mùa Phật Đản 2555

Tài liệu tham khảo
Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á, TS.Nguyễn Văn Nam, Nxb.Hà nội
Đối thoại với các nền văn hóa, Biên dịch Trịnh Huy Hóa, Nxb.Trẻ
www.en.wikipedia.org
www.buddhistchannel.tv
www.walubi.or.id

Facebook

Twitter

Google+

Pinterest

WhatsApp

Vị Trí Của Phật Giáo Trong Đời Sống Văn Hóa – Xã Hội Đông Nam Á

Trần Thúc Việt[1]

1. Quê hương của đạo Phật là ở ấn Độ, đất nước có hàng trăm tôn giáo và hàng vạn thánh thần, trong đó có những tôn giáo lớn nhất và lâu đời nhất thế giới.

Phật giáo tồn tại và liên tục phát triển là cả một quá trình vừa phải đấu tranh với các tôn giáo khác [như Balamôn giáo, Hin đu giáo...] vừa phải đấu tranh ngay trong nội bộ Phật giáo về mặt giáo lý, và sau đó Phật giáo đã hình thành 2 giáo phái: Đại thừa [Mahayana] và Tiểu thừa [Hinayana].

Đông Nam á cơ bản tiếp nhận Phật giáo Tiểu thừa và căn cứ vào địa bàn ảnh hưởng người ta thường gọi Phật giáo Đông Nam á là Phật giáo Nam Tông. Còn các nước Bắc á như Trung Quốc, Triều Tiên - Hàn Quốc, Nhật Bản [kể cả Việt Nam] tiếp thu Phật giáo Đại thừa, nên thường được gọi là Phật giáo Bắc tông.

2. Phật giáo vào Đông Nam á khá sớm. Nó thâm nhập vào từng quốc gia trong những thời gian không như nhau, bằng những con đường khác nhau và ảnh hưởng của nó cũng không đều nhau.

Người ta dự đoán Phật giáo vào Đông Nam á quãng những thế kỷ I-II đầu công nguyên.

Việt Nam: Phật giáo du nhập vào quãng những năm 194-195 và trung tâm Phật giáo lớn nhất thời đó là Luy Lâu [nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh].

Inđônêxia: Phật giáo Đại thừa có mặt từ rất sớm, quãng thế kỷ II. Phật giáo phát triển rực rỡ thời kỳ quốc gia Srivijaya và ngôi chùa Borobudur là biểu tượng của kiến trúc Phật giáo nổi tiếng của cả khu vực thời đó. Đến thế kỷ XIII, Phật giáo Tiểu thừa xuất hiện thay thế Phật giáo Đại thừa.

- Thái Lan là quốc gia Phật giáo lớn nhất Đông Nam á, Phật giáo Tiểu thừa có mặt quãng thế kỷ I sau công nguyên.

Ở Campuchia quãng thế kỷ V và Lào, chậm hơn, quãng thế kỷ VII và chính thức Phật giáo có ảnh hưởng rộng lớn từ giữa thế kỷ XIV...

Phật giáo được truyền bá vào khu vực Đông Nam á chủ yếu bằng con đường truyền giáo hoặc giao lưu văn hoá, quan hệ thương mại bình thường. Lúc đầu, Phật giáo từ ấn Độ trực tiếp thâm nhập vào các nước vùng ven bờ biển phía Tây của Đông Nam á. Sau đó một số nước tiếp nhận Phật giáo gián tiếp qua một nước trung gian khác. Đây cũng là một nét đặc biệt của Phật giáo ở Đông Nam á.

Chẳng hạn, Lào tiếp nhận Phật giáo không trực tiếp từ ấn Độ mà từ Campuchia, Thái Lan. Trong nhiều con đường tiếp thụ Phật giáo của Thái Lan và Myanma có một con đường qua Srilanca. Thời kỳ đầu, Phật giáo đã qua đường biển từ ấn Độ vào thẳng nước ta. Nhưng đến quãng thế kỷ IV - V Phật giáo lại được truyền từ phương Bắc vào. Phật giáo Philippin được truyền bá từ Inđônêxia hoặc Mã Lai tới.

3. Phật giáo đã trở thành tư tưởng chính thống của nhiều quốc gia và là quốc giáo ở một số nước Đông Nam á.

Nói đến tôn giáo là nói đến hệ tư tưởng được biểu hiện trong giáo lý. Một tôn giáo muốn tồn tại và phát triển phải hội tụ 3 yếu tố: Người sáng lập - giáo lý - và tăng lữ tín đồ. Giáo lý là một phương tiện, một công cụ rất quan trọng để truyền bá tư tưởng tôn giáo. Cần chú ý rằng: Giáo lý của Phật giáo cũng như của các tôn giáo khác hoàn toàn không phải là chân lý [không phải là khoa học] nhưng nó là đôí tượng nghiên cứu của khoa học.

Phật giáo sở dĩ vào Đông Nam á cắm rễ sâu chắc trong xã hội, lại có ảnh hưởng to lớn vào đời sống tinh thần của người dân trong vùng bởi nó đã phải bản địa hoá, đã biết hoà đồng với các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã biết dung nạp các yếu tố của các tôn giáo ngoại lai khác. Nói cách khác, Phật giáo vào từng nước Đông Nam á đã bị khúc xạ bởi các ý thức hệ ở các quốc gia đó.

Phật giáo vào Đông Nam á đã được dân gian hoá, bản địa hoá rất mạnh, rất sâu. Có thể nói, những học thuyết có tính chất tư biện, các tín điều khô khan, các suy tư huyền bí đã phần nào bị rơi rụng, giản lược đi để hoà quyện vào nó các tín ngưỡng dân gian bản địa chất phác và đơn giản. Một trong những đặc điểm nổi bật của Phật giáo ở Đông Nam á là tính chất đơn giản tượng trưng của nghi lễ. Khác với nghi lễ trong chùa chiền Bắc tông thường linh thiêng, ồn ào, trọng tâm của người xuất gia đến chùa chiền ở Nam tông là sự hoà quyện giữa Đạo và Đời, sự nỗ lực của con người không phải là lễ bái mà là toạ thiền, suy tư về nguyên lý của Phật.

4. Phật giáo giữ một vai trò, vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Đông Nam á. ở một số nước như Lào, Thái, Myanma... người ta đều khẳng định Phật giáo đã có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng một nền văn hoá thống nhất, trong nền văn hoá dân tộc đều mang màu sắc Phật giáo, Phật giáo gắn liền với Tổ quốc và Dân tộc.

Có thể nói, ở các nước Đông Bắc á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam [ảnh hưởng vùng văn hoá đồng văn]. Nho giáo đã đóng vai trò cơ sở tư tưởng quan trọng như thế nào thì ở các nước Đông Nam á lục địa như Thái Lan, Lào, Campuchia, Mayanama Phật giáo cũng giữ vai trò quan trọng như thế. Và hơn thế nữa, xét về phương diện Phật giáo được coi là tôn giáo của cả nước [quốc giáo], nó còn có vai trò quan trọng hơn nhiều trong đời sống mỗi con người từ nhỏ cho đến lớn, từ lúc sinh ra cho đến lúc mất đi. Con người khi cất tiếng chào đời được đưa vào chùa tính số đặt tên, đến tuổi trưởng thành vào chùa tu 3 năm nghĩa vụ, khi lập gia đình vào chùa làm lễ ba xí [buộc chỉ cổ tay] và khi về cõi Niết bàn, hoả táng để trong chùa. Phật giáo còn tác động tới đời sống của toàn xã hội từ vua quan cho đến người dân thường, từ trung ương cho đến các địa phương nhỏ nhất là thôn xóm bản làng...

Về mặt tổ chức, Phật giáo ở Đông Nam á với các nước coi nó là tôn giáo chính, có cả một hệ thống chùa chiền và sư sãi ở từng bản làng, thôn xóm đến cấp huyện tỉnh và cuối cùng đến cấp trung ương tương ứng với các cấp chính quyền của triều đình. Các nhà sư Thái Lan, Campuchia, Lào, Myanma là người có vai trò đặc biệt lớn lao trong đời sống xã hội. Nhà sư trở thành tấm gương đạo đức, nhân vật trung tâm, chỗ dựa tinh thần, là người bảo vệ những giá trị truyền thống của đạo Phật.Ở Thái Lan, nhiều triều đại phong kiến đã dựa vào uy tín và sức mạnh của Phật giáo để củng cố địa vị của mình. Có những trường hợp vua và sư không phân biệt, vua cũng là sư và sư trở thành vua. Ở Lào, trải qua nhiều triều đại vua - sư gắn bó mật thiết với nhau trong việc giải quyết nhiều vấn đề chính trị quốc gia.

Về hoạt động tôn giáo: chúng ta không cường điệu mà nói rằng, hầu như quanh năm suốt tháng từ cộng đồng nhỏ bé ở làng bản đến cộng đồng rộng lớn của cả nước luôn bị cuốn hút vào các lễ hội, bun than vừa mang tính tôn giáo của đạo Phật vừa có tính thế tục đậm đà của phong tục xứ sở ở các nước Đông Nam á.

Một trong những biểu hiện cụ thể nhất, sinh động nhất của các tổ chức và hoạt động Phật giáo là vai trò to lớn của chùa đối với con người. Nếu như Thiên chúa giáo coi nhà thờ là nơi để con chiên có thể gặp được chúa ở “thế giới bên kia” [dù chỉ trong ảo tưởng] thì ngôi chùa Phật giáo là nơi các Phật tử có thể đến đó để thoả mãn nhu cầu đời sống tình cảm tâm linh, hướng về đức Phật từ bi. Nhưng khác với nhà thờ và khác với các ngôi chùa của Phật giáo Đại thừa ở Bắc phương, ngôi chùa ở Đông NamÁ có ý nghĩa hết sức đặc biệt.Ở đây, chùa không chỉ là trung tâm về tôn giáo mà còn là trung tâm văn hoá - xã hội. Chùa đồng thời là trường học dạy chữ, đạo cho con em nhân dân, là nơi sáng tác văn chương.Ở Lào, Campuchia một số nhà thơ lớn trưởng thành từ trong chùa [Xôm xỉ Đê xa, Bôtum Mătthê Xôm]. Chùa là nơi lưu giữ các tác phẩm nghệ thuật, là thư viện, là bệnh viện, nhà trọ, nơi hội hợp quyết định những vấn đề quan trọng của bản mường. Chùa vừa là nơi thờ Đức Phật vừa là nơi để người dân đến vui chơi hội hè, mừng được mùa, hơn nữa một số chùa ở một số nước Đông Nam á còn là nơi để cúng ông bà tổ tiên và các vị thần địa phương.

Như vậy, ngôi chùa ở Đông Nam á trước đây chính là nơi cung cấp tri thức văn hoá nói chung cho con em những người lao động. Ở đây, cái thiêng liêng, u mặc của tôn giáo huyền bí bị giản lược để hoà quyện một cách tự nhiên với các sinh hoạt thế tục sôi động của cuộc đời.

Hiện nay, nhà chùa ở nhiều nước Đông Nam á tổ chức các lớp học không thu tiền. Ở thủ đô Phnômpênh [Campuchia] nhà chùa còn giành ra một số phòng cho những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đến cư trú.

Ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn học nghệ thuật Đông Nam á là khá toàn diện và sâu sắc.

Khi xây dựng nền văn học viết truyền thống ở một số nước Đông Nam á bên cạnh tiếp nhận các kinh kệ, giáo lý Phật giáo, đã tiếp nhận chữ viết ấn Độ, từ đó tiếp nhận cả các đề tài, cốt truyện, tác phẩm văn học ấn - Phật. ở các nước Lào, Thái Lan, Myanma, văn học có nhiều xu hướng, nhiều tính chất, trong đó văn học có tính chất Phật giáo chiếm số lượng tác phẩm đáng kể.

Hệ tư tưởng Phật giáo không chỉ ảnh hưởng tới người sáng tác mà còn ảnh hưởng sâu đậm đến công chúng thưởng thức văn học. Văn học nhà chùa mang đậm tính chất Phật giáo đã trở thành một đặc điểm nổi bật của nền văn học Lào - Thái Lan - Myanma. Giáo lý đạo Phật đã trở thành tư tưởng chủ đạo trong nhiều ánh văn chương. Cho nên, khi tiếp xúc với văn học Lào - Thái Lan - Myanma thì tính mâu thuẫn, nhất là xung đột, đấu tranh giai cấp thường không mạnh mẽ bằng các nền văn học ở các quốc gia Đông Nam á khác.

Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc chùa chiền Phật giáo ở khắp các nước Đông Nam á thể hiện rõ nét nhất về vị trí của đạo Phật trong đời sống tinh thần người dân Đông Nam á. Những ngôi chùa nổi tiếng là công trình kiến trúc đồ sộ như Borobudur [Inđônêxia] và Thạt luổng [Lào] hay rất nhiều chùa chiền ở Campuchia, Thái Lan, Myanma đã trở thành niềm tự hào và là biểu tượng thịnh vượng của đạo Phật Tiểu thừa ở khu vực.

Nhìn chung, Phật giáo ở Đông Nam á nằm trong một phức hợp văn hoá tôn giáo vừa khá đa dạng vừa hoà hợp vào nhau. Trong đó những tín ngưỡng dân gian chất phác tràn ngập vào trong kinh kệ thiêng liêng đến mức có thể che lấp hoặc giảm nhẹ tính chất tư biện, cao siêu của giáo lý. Phật giáo cũng không tồn tại một cách thuần khiết bởi nó thấm đượm những yếu tố của tín ngưỡng bản địa và tàn dư văn hoá của các tôn giáo vào trước nó. Sự đan xen hoà hợp dung nạp giữa của yếu tố văn hoá và tôn giáo trên đây đã tạo nên một gương mặt đặc biệt cho Phật giáo ở Đông Nam á. Cũng chính vì vậy Phật giáo tồn tại và phát triển, trở thành tôn giáo chính và có vai trò hết sức to lớn trong đời sống văn hoá, xã hội Đông Nam á./.

Chú Thích:

[1]Trường Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Video liên quan

Chủ Đề