Tiền mãn kinh tiếng anh là gì

Thời kỳ mãn kinh là giai đoạn mất chức năng sinh lý hoặc kết thúc chu kỳ kinh nguyệt (vô kinh) do giảm chức năng buồng trứng. Các triệu chứng có thể bao gồm bốc hoả, ra mồ hôi ban đêm, rối loạn giấc ngủ, và hội chứng niệu sinh dục của mãn kinh (các triệu chứng và dấu hiệu do thiếu hụt estrogen, chẳng hạn như teo âm hộ - âm đạo). Chẩn đoán bằng lâm sàng: không có kinh nguyệt trong 1 năm. Các biểu hiện có thể được điều trị (ví dụ như với cách thay đổi lối sống, thuốc bổ sung và thay thế, và/hoặc liệu pháp hormone).

Ở Mỹ, tuổi trung bình của mãn kinh sinh lý là 52. Các yếu tố như hút thuốc, sống ở độ cao và thiếu dinh dưỡng có thể làm giảm tuổi mãn kinh.

Thời kỳ tiền mãn kinh diễn ra đến một vài năm (thời gian dao động nhiều) trước và 1 năm sau thời kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Đây thường là giai đoạn có nhiều triệu chứng nhất vì các hormone đang dao động.

Sau mãn kinh dùng để chỉ thời gian sau kỳ kinh cuối cùng; nó cũng được chia thành giai đoạn sớm và muộn.

Tiền mãn kinh tiếng anh là gì

  • 1. Paramsothy P, Harlow SD, Nan B, et al: Duration of the menopausal transition is longer in women with young age at onset: The multi-ethnic Study of Women's Health Across the Nation. Menopause 24 (2):142–149, 2017. doi: 10.1097/GME.0000000000000736

Khi các buồng trứng già đi, đáp ứng của chúng đối với hormone tuyến yên gonadotropins kích thích noãn (FSH) và hormone luteinizing (LH) giảm, bước đầu gây ra những biểu hiện sau đây:

  • Một giai đoạn nang noãn ngắn hơn (với chu kỳ kinh nguyệt ngắn hơn và ít đều hơn)
  • Ít phóng noãn

Trong quá trình chuyển sang giai đoạn mãn kinh, rụng trứng kép và các sự kiện ngoài giai đoạn hoàng thể (LOOP) (ví dụ sự hình thành sớm của nang noãn do tăng nhanh FSH trong giai đoạn hoàng thể) xảy ra và thỉnh thoảng gây ra nồng độ estradiol ở mức cao hơn bình thường. Số lượng nang noãn khỏe mạnh giảm; cuối cùng, các nang còn lại không phản ứng, và buồng trứng sản sinh ra rất ít estradiol. Estrogen cũng được sản xuất bởi các mô ngoại vi (ví dụ, chất béo, da) từ androgens (ví dụ androstenedione, testosterone). Tuy nhiên, tổng nồng độ estrogen giảm dần trong suốt 5 năm sau khi mãn kinh, và estrone thay thế estradiol như là loại estrogen phổ biến nhất.

Quanh thời kỳ mãn kinh, nồng độ androstenedione giảm xuống một nửa.

Sự sụt giảm testosterone, bắt đầu ở tuổi trưởng thành trẻ, không tăng tốc trong thời kỳ mãn kinh vì mô đệm của buồng trứng sau mãn kinh và tuyến thượng thận tiếp tục tiết ra một lượng đáng kể.

Mức độ chất ức chế buồng trứng và estrogen giảm, làm ức chế sự phóng thích LH và FSH tuyến yên, gây tăng đáng kể mức LH và FSH trong tuần hoàn.

Các tế bào bề mặt âm đạo bị mất đi, dẫn đến độ pH có tính kiềm hơn. Kết quả là, số lượng lactobacilli giảm và vi khuẩn gây bệnh phát triển quá mức, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.

Các triệu chứng và dấu hiệu của mãn kinh

Những thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt thường bắt đầu trong thời kỳ tuổi 40 của phụ nữ, với sự thay đổi về độ dài chu kỳ kinh nguyệt. Các chu kỳ kinh nguyệt kéo dài liên lúc hơn ≥ 7 ngày so với bình thường xác định tình trạng chuyển mãn kinh sớm. Bỏ qua ≥ 2 chu kỳ xác định tình trạng chuyển mãn kinh muộn.

Các biến động đấng kể của nồng độ estrogen có thể góp phần gây ra các triệu chứng và dấu hiệu tiền mãn kinh khác như

  • Căng vú
  • Thay đổi lượng máu kinh
  • Thay đổi tâm trạng
  • Cơn đau nửa đầu cấp liên quan đến kinh nguyệt

Các triệu chứng có thể kéo dài từ 6 tháng đến > 10 năm và dao động từ nhẹ đến trầm trọng.

Vận mạch

Phụ nữ cảm thấy ấm hoặc nóng và có thể đổ mồ hôi, đôi khi rất nhiều; tăng nhiệt độ lõi cơ thể. Da, đặc biệt là mặt, đầu và cổ, có thể trở nên đỏ và ấm. Cơn bốc hỏa từng đợt, có thể kéo dài từ 30 giây đến 5 phút, sau đó có thể ớn lạnh. Các cảm giác này có thể biểu hiện vào đêm như đổ mồ hôi ban đêm.

Cơ chế của các đợt nóng không rõ, nhưng chúng được cho là kết quả của những thay đổi trong trung tâm điều hoà nhiệt nằm ở vùng dưới đồi. Phạm vi nhiệt độ lõi cơ thể của người phụ nữ giảm xuống; kết quả là, sự gia tăng nhiệt độ cơ thể rất ít của lõi cơ thể có thể kích hoạt sự giải phóng nhiệt như một cơn nóng.

Âm đạo

Các triệu chứng âm đạo bao gồm khô, quan hệ khó, và đôi khi có kích ứng và ngứa. Khi estrogen giảm sản xuất, niêm mạc âm hộ và âm đạo trở nên mỏng hơn, khô hơn, dễ tổn thương và ít đàn hồi hơn, và các nếp nhăn âm đạo bị mất.

Hội chứng niệu sinh dục của thời kỳ mãn kinh bao gồm các triệu chứng và dấu hiệu do sự thiếu hụt estrogen và androgen như

  • Teo âm đạo và âm hộ
  • Tiểu són
  • Tiểu buốt
  • Các bệnh nhiễm trùng tiết niệu và/hoặc viêm âm đạo thường gặp

Thần kinh - tâm thần

Thay đổi thần kinh tâm thần (ví dụ giảm tập trung, mất trí nhớ, triệu chứng trầm cảm, lo lắng) có thể thoáng qua cùng với mãn kinh. Nhiều phụ nữ bị các triệu chứng này trong thời kỳ tiền mãn kinh và cho rằng nguyên nhân là do mãn kinh. Tuy nhiên, các bằng chứng chứng minh mối liên hệ giữa thời kỳ mãn kinh và các triệu chứng này còn xáo trộn. Ngoài ra, những triệu chứng này không liên quan trực tiếp đến việc giảm nồng độ estrogen xảy ra trong thời kỳ mãn kinh.

Mồ hôi đổ thường xuyên ban đêm có thể góp phần làm mất ngủ, mệt mỏi, khó chịu, và tập trung không tốt bởi giấc ngủ bị rối loạn. Tuy nhiên, trong thời kỳ mãn kinh, rối loạn giấc ngủ vẫn phổ biến ngay cả ở những phụ nữ không bị bốc hỏa.

Tim mạch

Sau khi mãn kinh, nồng độ cholesterol lipoprotein mật độ thấp (LDL) tăng ở phụ nữ. Các nồng độ cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL) vẫn còn tương tự như trước khi mãn kinh. Sự thay đổi nồng độ LDL có thể phần nào giải thích tại sao xơ vữa động mạch và do đó bệnh mạch vành trở nên phổ biến hơn ở phụ nữ sau mãn kinh. Tuy nhiên, liệu những thay đổi này có phải do lão hóa hay do sự giảm mức estrogen sau mãn kinh vẫn chưa rõ ràng. Cho đến khi mãn kinh, nồng độ estrogen cao có thể bảo vệ chống lại bệnh động mạch vành.

Cơ xương khớp

Có đến 20% mật độ xương bị mất trong 5 năm đầu sau mãn kinh. Sau giai đoạn mất xương nhanh này, tuổi liên quan đến tỷ lệ mất xương ở phụ nữ tương tự so với nam giới.

Các triệu chứng khác

Thời kỳ mãn kinh là một giai đoạn sức khoẻ bình thường trong cuộc đời phụ nữ, nhưng mỗi phụ nữ đều có một trải nghiệm riêng.

Chất lượng cuộc sống có thể giảm nếu các triệu chứng nặng lên hoặc nếu triệu chứng mãn kinh ít hơn, như đau khớp và đau, tiến triển. Đối với một số phụ nữ (ví dụ những người có tiền sử bị lạc nội mạc tử cung, đau bụng kinh, rong kinh hội chứng tiền kinh nguyệt, hội chứng có kinh đau nửa đầu) thì chất lượng cuộc sống sẽ cải thiện sau mãn kinh.

Tài liệu tham khảo về các triệu chứng và dấu hiệu

  • 1. Avis NE, Crawford SL, Greendale G, et al: Duration of menopausal vasomotor symptoms over the menopause transition (Study of Women's Health Across the Nation). JAMA Intern Med 175 (4):531–539, 2015. doi: 10.1001/jamainternmed.2014.8063
  • Đánh giá lâm sàng
  • Ít khi đo nồng độ FSH

Chẩn đoán mãn kinh dựa vào lâm sàng. Tiền mãn kinh có thể xuất hiện, nếu phụ nữ ở trong độ tuổi thích hợp và có một số các triệu chứng và dấu hiệu của tiền mãn kinh. Tuy nhiên, nên cân nhắc mang thai. Thời kỳ mãn kinh được xác nhận khi phụ nữ không có kinh nguyệt trong 12 tháng và không có nguyên nhân rõ ràng nào khác.

Có thể xét nghiệm nồng độ FSH, nhưng xét nghiệm này hiếm khi cần thiết, ngoại trừ ở phụ nữ đã cắt bỏ tử cung và ở những phụ nữ trẻ hơn tuổi mãn kinh bình thường. Nồng độ cao xác nhận mãn kinh.

  • Những người có nguy cơ gãy xương cao (ví dụ, bệnh nhân có tiền sử gia đình loãng xương)
  • Tất cả phụ nữ ≥ 65
  • Thay đổi lối sống
  • Thuốc bổ sung và thay thế
  • Liệu pháp hormone
  • Các thuốc hoạt tính thần kinh

Điều trị mãn kinh là điều trị triệu chứng (ví dụ, để làm giảm cơn nóng và triệu chứng do teo âm hộ âm đạo). Điều trị cũng có thể bao gồm việc ngăn ngừa mất xương.

Thảo luận về các nguyên nhân sinh lý của thời kỳ mãn kinh, các triệu chứng và dấu hiệu có thể có với phụ nữ giúp họ kiểm soát những thay đổi xảy ra.

Đối với dấu hiệu bốc hoả, những điều sau đây có thể giúp ích:

  • Tránh các yếu tố kích thích (ví dụ như đèn sáng chói, chăn bông, phản ứng cảm xúc có thể dự đoán)
  • Làm mát môi trường (ví dụ: giảm bộ điều nhiệt, sử dụng quạt, tấm lót đệm bằng gel làm mát [các lớp chứa đầy gel được đặt trên đệm và tản nhiệt cơ thể])
  • Mặc quần áo nhiều lớp có thể tháo ra khi cần thiết

Các thiết bị làm mát các cơ quan tiếp nhận trên da có thể có tác dụng cho một số phụ nữ; các thiết bị này có thể đeo như vòng tay hoặc vòng cổ hoặc để ở gáy.

Chất bôi trơn không kê đơn và chất làm ẩm âm đạo khi quan hệ giúp làm giảm sự khô da âm đạo. Thường xuyên quan hệ tình dục hoặc kích thích âm đạo bằng cách khác giúp duy trì chức năng âm đạo.

Một loạt các liệu pháp bổ sung và thay thế đã được sử dụng (4) để làm giảm các triệu chứng. Cohosh đen, các chế phẩm thảo dược khác và các sản phẩm không kê đơn dường như không hữu ích. Ngoài ra, một số chế phẩm thảo dược tương tác với các loại thuốc khác. Protein từ đậu nành, có thể có tác dụng estrogen, đã được nghiên cứu với kết quả hỗn hợp; tuy nhiên, một sản phẩm đậu nành, S-equol, đã được báo cáo là làm giảm các cơn bốc.

Sử dụng các bài tập thể dục đều đặn, thở theo nhịp (thở chậm, thở sâu), sự quan tâm hoặc kỹ thuật thư giãn để giảm cơn nóng đã có kết quả lẫn lộn, mặc dù kỹ năng tập thể dục, yoga và thư giãn có thể cải thiện giấc ngủ và làm giảm căng thẳng. Châm cứu cũng đã có kết quả khác nhau.

Trong những thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng được thiết kế tốt, các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI), ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRI), và gabapentin đã được chứng minh là có hiệu quả vừa phải trong việc làm giảm các cơn bốc hỏa. Một liều thấp (7,5 mg 1 lần/ngày) của paroxetin (một SSRI) là liệu pháp duy nhất không dùng hormone được sử dụng đặc biệt cho các cơn bốc hoả. Tuy nhiên, tất cả các loại thuốc này ít hiệu quả hơn so với liệu pháp hormone.

  • 2. Thurston RC, Ewing LJ, Low CA, et al: Behavioral weight loss for the management of menopausal hot flashes: A pilot study. Menopause 22 (1):59–65, 2015. doi: 10.1097/GME.0000000000000274
  • 3. Bailey TG, Cable NT, Aziz N, et al: Exercise training reduces the frequency of menopausal hot flushes by improving thermoregulatory control. Menopause 23 (7):708–718, 2016. doi: 10.1097/GME.0000000000000625
  • 4. Johnson A, Roberts L, Elkins G: Complementary and alternative medicine for menopause. J Evid Based Integr Med 24:2515690X19829380, 2019. doi: 10.1177/2515690X19829380
  • 5. Rahimzadeh P, Imani F, Nafissi N, et al: Comparison of the effects of stellate ganglion block and paroxetine on hot flashes and sleep disturbance in breast cancer survivors. Cancer Manag Res 10:4831–4837, 2018. doi: 10.2147/CMAR.S173511 eCollection 2018.
  • 6. Prague JK, Roberts RE, Comninos AN, et al: Neurokinin 3 receptor antagonism as a novel treatment for menopausal hot flushes: A phase 2, randomised, double-blind, placebo-controlled trial. Lancet 389 (10081):1809–1820, 2017. doi: 10.1016/S0140-6736(17)30823-1 Epub 2017 Apr 3.
  • 7. Szeliga A, Podfigurna A, Bala G, Meczekalski B: Kisspeptin and neurokinin B analogs use in gynecological endocrinology: where do we stand? J Endocrinol Invest 43 (5):555–561, 2020. doi: 10.1007/s40618-019-01160-0 Epub 2019 Dec 14.

Liệu pháp hormone cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhiều phụ nữ bằng cách làm giảm các triệu chứng nhưng không cải thiện được chất lượng cuộc sống cho những phụ nữ không có triệu chứng và do đó không áp dụng cho tất cả phụ nữ sau mãn kinh.

Nếu điều trị bằng hormone là cần thiết để kiểm soát các triệu chứng mãn kinh, bác sĩ lâm sàng nên xác định loại thuốc, liều, đường dùng và thời gian thích hợp nhất dựa trên mục tiêu điều trị và nguy cơ sức khoẻ cá nhân. Các lợi ích và tác hại tiềm ẩn do điều trị bằng nội tiết tố nên được đánh giá theo định kỳ.

Đối với phụ nữ khỏe mạnh < 60 tuổi hoặc đã trải qua < 10 năm mãn kinh, lợi ích tiềm năng của liệu pháp hormone có thể nhiều hơn khả năng gây hại. Nếu những phụ nữ như vậy có nguy cơ bị mất xương hoặc bị gãy xương, liệu pháp hormone sẽ làm giảm sự mất xương và tỉ lệ gãy xương và có thể được sử dụng ở những phụ nữ không phải là những người là ứng viên cho các thuốc đầu tay chữa loãng xương.

Khởi đầu điều trị bằng nội tiết tố ở phụ nữ > 60 tuổi hoặc > 10 đến 20 năm đã mãn kinh nhìn chung không được khuyến nghị. Ở những phụ nữ này, những tác hại tiềm ẩn của liệu pháp hormone (như bệnh động mạch vành, đột quỵ, huyết khối tắc nghẽn tĩnh mạch, chứng sa sút trí tuệ) có thể vượt quá những lợi ích tiềm ẩn.

Trừ khi gợi ý lâm sàng là rõ ràng, các khuyến cáo được chia sẻ theo:

  • Những lợi ích và tác hại tiềm ẩn của liệu pháp hormone có thể phức tạp.
  • Lợi ích và thiệt hại tổng thể là mong manh.
  • Nguy cơ về sức khoẻ có thể thay đổi theo thời gian.

Đối với phụ nữ đã cắt tử cung, estrogen được sử dụng đơn độc. Dạng đường uống, qua da (miếng dán, kem dưỡng da, xịt, hoặc gel), hoặc dạng đường âm đạo có thể được sử dụng. Điều trị nên bắt đầu với liều thấp nhất; liều sẽ tăng lên mỗi 2 đến 4 tuần nếu cần. Liều thay đổi tùy theo sự chuẩn bị. Liều thấp bao gồm

  • 0,3 mg uống 1 lần/ngày (estrogen liên hợp hoặc tổng hợp)
  • 0,5 mg uống 1 lần/ngày (estradiol đường uống)
  • 0,025 đến 0,375 mg mỗi ngày được giải phóng bằng miếng dán bôi lên da một hoặc hai lần mỗi tuần (miếng dán estradiol)

Phụ nữ có tử cung nên được cho thêm progestogen bổ sung cho estrogen vì estrogen không đối lập làm tăng nguy cơ ung thư niêm mạc tử cung. Các progestogen kết hợp với estrogen liên tục (tức là hàng ngày) hoặc tuần tự (12 đến 14 ngày liên tiếp trong mỗi 4 tuần). Liều là

  • Medroxyprogesterone acetate: 2,5 mg dùng hàng ngày và 5 mg cho sử dụng tuần tự
  • Progesterone vi thể (tự nhiên hơn loại progesterone tổng hợp): 100 mg sử dụng hàng ngày và 200 mg cho sử dụng tuần tự

Chảy máu do ngưng dùng progestogen ít có khả năng xảy ra khi điều trị liên tục, mặc dù chảy máu không đều có thể xảy ra trong 6 tháng đầu điều trị.

Các sản phẩm kết hợp của estrogen và progestogen có sẵn như

  • Thuốc (ví dụ, 0,3 mg estrogen liên hợp cộng với medroxyprogesterone acetate 1,5 mg mỗi ngày một lần; norethindrone acetate 0,1 mg cộng với estradiol 0,5 mg hoặc 1 mg mỗi ngày một lần; estradiol 1 mg cộng với progesterone 100 mg mỗi ngày một lần; estradiol 1 mg cộng drospirenone 0,5 mg mỗi ngày một lần; estradiol 0,5 mg cộng drospirenone 0,25 mg một lần mỗi ngày)
  • Miếng dán (ví dụ, estradiol 0,045 mg cộng với levonorgestrel 0,015 mg mỗi ngày bằng miếng dán dán trên da mỗi tuần một lần, estradiol 0,05 mg cộng với norethindrone acetate 0,14 mg hoặc 0,25 mg một ngày được dán bằng miếng dán hai lần mỗi tuần)

Khi các triệu chứng chỉ có ở âm đạo, liều thấp estrogen đặt âm đạo được ưa thích hơn. Các dạng tại chỗ (ví dụ kem, viên nén, viêm đạn hoặc vòng âm đạo) có thể có hiệu quả hơn đối với các triệu chứng âm đạo so với dạng uống. Các viên nén, viên đặt âm đạo và vòng có chứa estradiol với liều thấp (ví dụ: 10 mcg cho viên nén, 7,5 mcg đối với vòng, 4 mcg và 10mcg cho viên đạn) cung cấp estrogen vào hệ thống tuần hoàn ít hơn. Khi estrogen dùng đường âm đạo được sử dụng ở liều thấp nhất được đề nghị thì không cần đến progestogen. Liều cao hơn của estrogen dùng đường âm đạo có thể cung cấp nhiều estrogen như điều trị bằng đường uống hoặc qua da và, nếu cho phụ nữ vẫn còn tử cung, cần yêu cầu bổ sung progestogen. Bất kỳ chảy máu âm đạo ở phụ nữ dùng liệu pháp hormone nên được đánh giá ngay lập tức để loại trừ ung thư nội mạc tử cung.

Đối với các triệu chứng từ trung bình đến nặng, các phương pháp điều trị bao gồm

  • Estrogen trong âm đạo
  • Dehydroepiandrosterone trong âm đạo (DHEA)
  • Liệu pháp hormone toàn thân

Progestogen (ví dụ, medroxyprogesterone acetate 10 mg uống một lần/ngày hoặc depot 150 mg tiêm bắp một lần/tháng, megestrol acetate 10 đến 20 mg uống một lần/ngày, progesterone 300 mg ban đêm) đôi khi được sử dụng đơn lẻ để giảm bốc hoả khi estrogen bị chống chỉ định, nhưng chúng không hiệu quả như estrogen đối với những cơn bốc hoả và không làm giảm khô âm đạo. Progesterone vi thể có thể dùng liều 100-300 mg vào giờ đi ngủ. Có thể gây buồn ngủ. Progesterone vi thể trong dầu đậu phộng chống chỉ định ở những phụ nữ bị dị ứng với đậu phộng. Các sản phẩm kết hợp mới hơn không chứa dầu đậu phộng.

  • Phụ nữ có nguy cơ loãng xương rõ.
  • Họ < 60 tuổi hoặc khởi phát mãn kinh < 10 năm.

Nguy cơ với liệu pháp estrogen hoặc kết hợp estrogen/progestogen bao gồm

Nguy cơ ung thư nội mạc tử cung cao hơn ở phụ nữ có tử cung và được điều trị bằng estrogen. Tuy nhiên, bất kỳ trường hợp nào chảy máu âm đạo ở phụ nữ bằng liệu pháp nội tiết nên được đánh giá ngay để loại trừ ung thư nội mạc tử cung.

Nguy cơ ung thư vú bắt đầu tăng lên sau 3 đến 5 năm điều trị kết hợp khi dùng liều chuẩn (ví dụ estrogen kết hợp 0,625 mg và medroxyprogesterone acetate với liều 2,5 mg một lần/ngày). Khi estrogen được sử dụng đơn lẻ, nguy cơ ung thư vú thấp hơn một chút lúc 7 năm qua một nghiên cứu của Sáng kiến sức khoẻ phụ nữ, nhưng lợi ích này dường như hết sau 10 đến 15 năm sử dụng. Nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch và đột quỵ có thể thấp hơn khi dùng liều thấp estrogen qua da. Phụ nữ lớn tuổi sau mãn kinh (đã mãn kinh > 10 năm hoặc > 60 tuổi khi họ bắt đầu điều trị bằng nội tiết) có nguy cơ cao bị bệnh động mạch vành và chứng mất trí khi dùng liệu pháp kết hợp. Tỷ lệ bị bệnh túi mật và tiểu tiện không kiểm soát có thể tăng lên khi điều trị phối hợp hoặc dùng estrogen đơn trị liệu. Nguy cơ của tất cả những rối loạn này rất thấp ở những phụ nữ khỏe mạnh dùng liệu pháp hormone trong một thời gian ngắn sau khi mãn kinh.

Liệu pháp estrogen có thể bị chống chỉ định ở những phụ nữ có hoặc có nguy cơ cao bị ung thư vú, đột quỵ, bệnh động mạch vành hoặc huyết khối.

Progestogens có thể có các tác dụng phụ (ví dụ như chướng bụng, căng vú, tăng mật độ vú, đau đầu, tăng LDL); progesterone vi thể dường như ít tác dụng phụ hơn. Progestogen có thể làm tăng nguy cơ huyết khối. Không có dữ liệu an toàn lâu dài cho progestogen.

Trước khi kê toa liệu pháp hormone và điều trị duy trì liên tục, bác sĩ lâm sàng nên thảo luận về những nguy cơ và lợi ích của nó với phụ nữ.

được cho dùng cùng với estrogen liên hợp; thuốc này có thể làm giảm bốc hoả, cải thiện giấc ngủ, ngăn ngừa mất xương, và làm giảm các triệu chứng teo âm đạo.

  • 2. Pinkerton JV, Pickar JH, Racketa J, et al: Bazedoxifene/conjugated estrogens for menopausal symptom treatment and osteoporosis prevention. Climacteric 15 (5):411–418, 2012. doi: 10.3109/13697137.2012.696289
  • 3. The North American Menopause Society: The 2020 genitourinary syndrome of menopause position statement of The North American Menopause Society. Menopause 27 (9):976–992,2020. doi: 10.1097/GME.0000000000001609
  • 4. Faubion SS, Larkin LC, Stuenkel CA, et al: Management of genitourinary syndrome of menopause in women with or at high risk for breast cancer: consensus recommendations from The North American Menopause Society and The International Society for the Study of Women's Sexual Health. Menopause 2 5(6):596–608, 2018. doi: 10.1097/GME.0000000000001121
  • 5. Labrie F, Archer DF, Koltun W, et al: Efficacy of intravaginal dehydroepiandrosterone (DHEA) on moderate to severe dyspareunia and vaginal dryness, symptoms of vulvovaginal atrophy, and of the genitourinary syndrome of menopause. Menopause 23 (3):243–256, 2016. doi: 10.1097/GME.0000000000000571
  • 6. Rossouw JE, Anderson GL, Prentice RL, et al: Risks and benefits of estrogen plus progestin in healthy postmenopausal women: Principal results from the Women's Health Initiative randomized controlled trial. JAMA 288 (3):321–333, 2002.
  • 7. Constantine G, Graham S, Portman DJ, et al: Female sexual function improved with ospemifene in postmenopausal women with vulvar and vaginal atrophy: Results of a randomized, placebo-controlled trial. Climacteric 18 (2): 226–232, 2015.
  • Ở Mỹ, tuổi mãn kinh trung bình là 52.
  • Các triệu chứng mãn kinh có khuynh hướng tối đa trong vài năm trước và năm sau khi mãn kinh (trong thời kỳ tiền mãn kinh), ngoại trừ chứng teo âm hộ và âm đạo, có thể xấu đi theo thời gian.
  • Có đến 20% mật độ xương bị mất trong 5 năm đầu sau mãn kinh, sau đó là tỷ lệ mất xương liên quan đến tuổi thì tương đương như ở nam giới.
  • Coi như là mãn kinh được xác nhận nếu một phụ nữ ở độ tuổi thích hợp và người không mang thai mà không có kinh nguyệt trong 12 tháng.
  • Đối với tình trạng khô âm đạo hoặc chứng khó quan hệ do mãn kinh, khuyến cáo kích thích âm đạo và chất bôi trơn và chất làm ẩm âm đạo của OTC, và nếu chúng không hiệu quả, hãy xem xét liều âm đạo thấp estrogen dạng kem, thuốc viên, viên đạn, thuốc đặt hoặc vòng; các lựa chọn khác bao gồm uống ospemifene hoặc suppositories DHEA trong âm đạo.
  • Trước khi kê toa liệu pháp hormone và điều trị duy trì liên tục, hãy trao đổi với phụ nữ về những lợi ích và những tác hại tiềm ẩn (ví dụ như huyết khối tĩnh mạch sâu, nghẽn mạch phổi, đột quỵ, ung thư vú, nguy cơ thấp bị bệnh túi mật, tiểu không tự chủ); những tác hại tiềm tàng thì lớn hơn đối với những phụ nữ bắt đầu điều trị bằng nội tiết tố sau tuổi 60 hoặc những người đã có > 10 đến 20 năm mãn kinh.
  • Nếu phụ nữ chọn liệu pháp hormone để giảm bớt bốc hoả, kê toa estrogen phối hợp progestogen hoặc kê toa estrogen/bazedoxifene kết hợp cho những phụ nữ còn tử cung.
  • Cá nhân hóa điều trị bằng liệu pháp hormone để tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu tác hại, và định kỳ đánh giá lại lợi ích và tác hại; liệu pháp hormone xuyên da liều thấp có thể ít nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và đột quỵ.

Xem xét SSRI, SNRI, và gabapentin là những lựa chọn thay thế ít hiệu quả hơn đối với liệu pháp hormone để làm giảm các cơn bốc hỏa; paroxetine 7,5 mg là thuốc không chứa hormone duy nhất được chấp thuận ở Hoa Kỳ để giảm đau.

Tuổi mãn kinh ở phụ nữ là bao nhiêu?

Thông thường, thời gian bắt đầu giai đoạn tiền mãn kinh ở mỗi phụ nữ là khác nhau vì thể chất mỗi người mỗi kiểu. Tuy nhiên, theo thống kê, đa phần phụ nữ đối mặt với tuổi tiền mãn kinh khi ở độ tuổi 40 - 47.

Phụ nữ tiền mãn kinh là gì?

Tiền mãn kinh là quá trình chuyển đổi mãn kinh ở phụ nữ, lúc này cơ thể sẽ không xuất hiện chu kỳ rụng trứng, kinh nguyệt sẽ mất đi và không còn khả năng sinh sản. Thời kỳ này thường đến trong khoảng 45 đến 55 tuổi. Mãn kinh được coi là sớm khi xuất hiện trước tuổi 40.

Tại sao phụ nữ mãn kinh sớm?

Mãn kinh sớm có thể xảy ra bởi hai nguyên nhân: suy giảm nang trứng hoặc rối loạn chức năng nang trứng. Khi những nguyên nhân này xảy ra, trứng sẽ không trưởng thành hay không được giải phóng, khiến chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ bị dừng lại.

Làm thế nào để biết hết kinh?

Tâm trạng thay đổi thất thường..

Giảm ham muốn tình dục..

Nóng bừng..

Đổ mồ hôi..

Tim đập nhanh..

Nhức đầu..

Khô và đau âm đạo..

Đau nhiều khi quan hệ tình dục..