Tính đối tượng trong tâm lý học

Đối tượng, nhiệm vụ và các phương pháp nghiên cứu trong tâm lý học?

1.Đối tượng nghiên cứu: Tâm lý học nghiên cứu sự nảy sinh, vận hành và phát triển của các hoạt động tâm lý.


2.Nhiệm vụ nghiên cứu: Mô tả và nhận diện các hiện tượng tâm lý. Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lý, những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động tâm lý. Nghiên cứu cơ chế hình thành, hình thức biểu hiện, quy luật hoạt động và phát triển của các hiện tượng tâm lý. Chức năng, vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người. Ứng dụng những thành tựu đã nghiên cứu vào trong hoạt động thực tiễn của con người.

3.Các phương pháp nghiên cứu:


*Phương pháp quan sát:
Nội dung:nhà nghiên cứu sử dụng các cơ quan cảm giác của mình nhằm tri giác sự biểu hiện ra ngoài một cách thường xuyên các đặc điểm tâm lý bên trong của đối tượng để thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

Các hình thức quan sát: Kín-mở; Toàn diện - bộ phận; Có trọng điểm - không có trọng điểm; Chiến lược - chiến thuật; Tiêu chuẩn hóa - không tiêu chuẩn hoá.


Ưu và nhược điểm:

- Dễ tiến hành; tư liệu phong phú; - Tiết kiệm. - Tuy nhiên thường bị phụ thuộc, tư liệu thường là cảm tính, trực quan, độ tin cậy không cao, tốn nhiều thời gian và đôi khi không đạt được mục đích.


Yêu cầu: Khi tiến hành nghiên cứu cần phải:

+ Xác định rõ mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát. + Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt trước khi quan sát + Tiến hành quan sát một cách cẩn thận và có hệ thống. + Ghi chép và phân tích tài liệu một cách đầy đủ, trung thực, khách quan. + Cần phải kết hợp với các phương pháp khác trong nghiên cứu. Quan sát lại lần nữa để kiểm tra các kết quả đã quan sát. *Cách quan sát:Sử dụng cái gì để quan sát? Dùng các cơ quan cảm giác như: mắt, tai, mũi, lưỡi, da. Trong đó mắt và tai là sử dụng thường xuyên hơn.

Sử dụng như thế nào?

- Dùng mắt để nhìn:

+

Những đặc điểm tĩnh như: Hình dáng; mặt [trán, chân mày, mắt, mũi, gò má, miệng, cằm, tai…]; trang phục [đồng phục, màu sắc…]

+ Những đặc điểm động như: Dáng [đi, đứng, ngồi, nằm]; đầu, chi…

- Dùng tai để nghe: Chú ý đến từ ngữ, ngữ điệu, nội dung. - Cần kết hợp các cơ quan cảm giác khi quan sát.


* Phương pháp thực nghiệm:

-Nội dung: thực nghiệm là phương pháp chủ động tác động vào đối tượng trong điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện về mối quan hệ nhân quả, tính quy luật, cơ chế... của các hiện tượng tâm lý. - Thường được dùng kèm với phương pháp quan sát để hạn chế nhược điểm của phương pháp quan sát. - Ưu và nhược điểm: rất chủ động; tài liệu tương đối tin cậy có thể định tính và định lượng được; có thể lặp đi lặp lại nhằm kiểm tra. Tuy nhiên không hoàn toàn có thể khống chế những yếu tố chi phối đến kết quả nghiên cứu; và có thể tốn kém về mặt kinh tế. Có 2 loại thực nghiệm cơ bản:

- Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong các điều kiện hoạt động bình thừơng của đối tượng thực nghiệm.


Thực nghiệm tự nhiên có 2 loại: Thực nghiệm nhận định: là loại thực nghiệm nhằm xác định tình trạng những vấn đề tâm lý ở đối tượng thực nghiệm. Thực nghiệm hình thành: nhằm hình thành một phẩm chất tâm lý nào đó ở đối tượng thực nghiệm dưới tác động của nhà nghiên cứu.

- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là loại thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện khống chế một cách nghiêm ngặt các tác động chi phối, ảnh hưởng từ bên ngoài.

*
Phương pháp đàm thoại:

Nội dung: là phương pháp sử dụng lời nói giao tiếp với đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập những thông tin cần thiết. Có nhiều cách trao đổi, đàm thoại với đối tượng: đặt ra các nội dung trao đổi; đặt ra những câu hỏi trực tiếp, gián tiếp...

Ưu và nhược điểm: dễ nghiên cứu; kinh tế; chủ động. Tuy nhiên tư liệu thu được dễ bị đối tượng ngụy trang; phụ thuộc nhiều vào tâm trạng của đối tượng.

Muốn đàm thoại có kết quả tốt cần chú ý: - Xác định rõ vấn đề cần tìm hiểu - Tìm hiểu trước thông tin về đối tượng đàm thoại với 1 số đặc điểm của họ. - Có kế hoạch để chủ động điều khiển quá trình đàm thoại. - Nên linh hoạt trong quá trình điều khiển 1 cuộc đàm thoại để nó vừa giử được tính logic, vừa đáp ứng được yêu cầu của người nghiên cứu.


* Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.


Nội dung: là phương pháp dựa vào sản phẩm vật chất và tinh thần của đối tượng để nghiên cứu về các đặc điểm tâm lý của đối tượng đó.

Yêu cầu: + Cần phải cẩn trọng trong nghiên cứu, đánh giá. + Phải đặt trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể để nghiên cứu, đánh giá.


* Phương pháp điều tra



Nội dung
: là phương pháp sử dụng một hệ thống câu hỏi được trình bày bằng văn bản thông qua việc trả lời của đối tượng nghiên cứu để thu thập những thông tin cần thiết.

Ưu và nhược điểm:
dễ nghiên cứu; thông tin thu thập được trên một loạt đối tượng, dễ xử lý bằng toán thống kê. Tuy nhiên các ý kiến thường mang tính chủ quan, đối tượng dễ trả lời giả tạo.

Yêu cầu:
- Câu hỏi soạn thảo phải rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với đối tượng. - Cách trả lời câu hỏi phải được nhà nghiên cứu hướng dẫn cụ thể.


* Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, tài liệu
.



Nội dung:
là phương pháp nghiên cứu lịch sử về quá trình hoạt động của cá nhân đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở đó có những đánh giá, nhận định về vấn đề nghiên cứu.

Yêu cầu:
+ Cần phải nhìn nhận đánh giá các vấn đề tâm lý trong tính lịch sử, cụ thể và phát triển. + Tránh thành kiến, áp đặt chủ quan. + Kết hợp với phương pháp khác trong nghiên cứu


* Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
.



Nội dung: là phương pháp dựa vào sản phẩm vật chất và tinh thần của đối tượng để nghiên cứu về các đặc điểm tâm lý của đối tượng đó.

Yêu cầu: + Cần phải cẩn trọng trong nghiên cứu, đánh giá. + Phải đặt trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể để nghiên cứu, đánh giá.


* Phương pháp trắc nghiệm

Nội dung: “Test” là một phép thử đã được chuẩn hoá dùng đề đo lường một phẩm chất tâm lý nào đó ở đối tượng nghiên cứu. Cấu tạo của “Test” gồm 4 phần: Văn bản “Test”; quy trình tiến hành; khoá “test”; Bản đánh giá.

Ưu - nhược điểm: dễ tiến hành; có thể đo nhiều đối tượng; tính mục đích trong nghiên cứu cao. Tuy nhiên khó soạn thảo.

Khi ta nhìn, quan sát thấy một sự vật  hiện  tượng,  biểu  tượng  đó  xuất  hiện trong đầu của chúng ta. Đó chính là biểu tượng tâm lí.

Khi chúng ta vui hoặc buồn, trạng thái vui hay buồn đó cũng là tâm lí.

Khi chúng ta suy nghĩ và đưa ra một nhận định, đánh  giá nào  đó, những  nhận định đánh giá của chúng ta cũng là các hiện tượng tâm lí.

Có những sự việc  không diễn ra tức  thời  như  quá  trình  suy  nghĩ  hay  như trạng thái vui, buồn mà nó chỉ là những khái quát từ các hiện tượng tâm lí khác.

Ví dụ: khi ta nói yêu lao động thì chúng  ta đã đề  cập đến một  nét  tính cách của  con người. Đối với một con người như vậy  họ  rất  trân trọng, quý  trọng sản phẩm của lao động.

Trong ngôn ngữ Việt, bên cạnh thuật ngữ  tâm  lí  còn có  thuật  ngữ  tâm  hồn. Đôi khi người ta tách chữ tâm riêng, chữ hồn riêng. Trong Từ  điển tiếng  Việt [1988], tâm hồn được định nghĩa là ý  nghĩ  và  tình cảm, làm thành đời  sống nội tâm, thế giới bên trong của mỗi con người.

Các hiện tượng tâm  lí, tâm hồn của con người  đều có nguồn gốc  từ bên ngoài, là sự phản ánh thế giới khách quan.  Thế  giới  vật  chất  được  chuyển vào  não, dưới các dạng biểu  tượng,  hình ảnh đó không dừng lại  ở mức  độ xơ  cứng, bất  biến.  Nhờ có các giác quan, chúng ta có được  những  biểu tượng về  các  sự vật,  hiện  tượng của thế giới khách quan. Từ vô  số  các  hình ảnh,  biểu tượng về  những  ngôi nhà có thực, trong óc con người dần khái quát  hoá,  thu  gọn  tất  cả những  biểu tượng đó vào một khái niệm:  nhà.  Chính  ngôn  ngữ  đã  giúp  cho  khả  năng  nhận biết của con người về thế giới bên ngoài tăng lên một cách đột phá.

Cũng nhờ có  ngôn ngữ,  tư duy  của con người  đã chuyển sang một bước ngoặt  vĩ đại: từ tư duy  bằng  tay con người  chuyển sang tư duy  bằng  khái  niệm. Nhờ  có  tư duy bằng khái niệm, con người đã có khả  năng  “nhìn”  sâu  vào  những  cái  mà bằng mắt thường không thể nhìn thấy. Bằng  mắt,  con người  không  thể  nào  nhìn thấy đường đi của hạt ánh sáng song bằng tư duy thì có thể.

Như vậy có thể nhận thấy các hiện tượng tâm lí - thế giới  nội  tâm  của con người, mặc dù là sự phản ánh thế giới  bên ngoài  song nó  là các  hiện tượng tinh thần. Thế giới tinh thần này cũng có những cơ chế, quy luật hoạt động cho  riêng mình. Bản thân nó có cấu trúc phức tạp. Để có thể  nghiên cứu sâu hơn các  hiện tượng tâm lí, người ta phân chia chúng thành các lớp hiện tượng khác nhau.

Phân  loại các hiện tượng  tâm lí.

Có rất nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm  lí  khác  nhau. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một số cách phân loại thường thấy.

Ý thức và vô thức:

Ý thức:

Khái niệm: có nhiều lĩnh vực quan tâm đến ý thức: Triết học, Giáo dục học, Tâm thần học, Tâm lí học…

Với Tâm thần học, ý thức chủ yếu giới hạn ở khả năng định hướng  của con  người: định hướng thời gian,  định  hướng  không  gian  và  định  hướng  bản  thân. Khái niệm ý thức trong Tâm lí học được hiểu rộng hơn so với Tâm  thần học. Như  trên đã đề cập, những hình ảnh mà chúng ta quan sát được, những ý  nghĩ  và  nhận định mà chúng ta có được  trong quá  trình tư  duy…  đều là những  hiện tượng tâm  lí. Khi những hiện tượng tâm lí đó  lại  là đối tượng để  chúng ta suy nghĩ:  tại làm  sao chúng ta quan sát được? Liệu những suy nghĩ  và  quyết  định của chúng  ta có đúng hay không?…Khi đó các hiện tượng tâm lí đã được nâng  cấp lên bình  diện mới: bình diện ý thức. Nói một cách khác, ý thức chính là năng lực hiểu được các hiểu biết. Nói một cách khác, nếu các hiện tượng tâm lí là sự phản ánh  thế  giới khách quan thì sự phản ánh đó lại một lần nữa  được  phản  ánh  lại  trong ta  - đó chính là ý thức.

Ở động vật  cũng  có  sự  phản  ánh tâm lí. Tuy  nhiên sự phản ánh này chỉ  dừng  lại ở đó mà không có sự phản ánh  lại  một  lần  nữa.  Con  vật  cũng có những khả năng nhận biết song chúng không nhận biết  được  rằng  chúng  đang  nhận  biết. Chúng không có ý thức.

Trong ý thức của con người có một bộ phận đóng vai trò quan trọng: tự ý thức.  Tự ý thức là năng lực hiểu được  chính  mình,  hiểu  được  những  mong  muốn,  những xu hướng của mình. Tự ý thức được xem  là  “bộ  máy  chỉ  huy”  cao  nhất trong toàn bộ ý thức của con người.

Cấu trúc: theo quan niệm chung, ý thức bao gồm 3 tầng bậc chính: nhận thức cảm tính, nhận thức lí tính và hoạt động.

Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình chính gắn bó mật thiết  với  nhau  là cảm giác và tri giác. Các  biểu  tượng  của  nhận  thức  cảm tính giúp chúng ta nhận biết được sự tồn tại của thế giới bên ngoài,  làm ranh giới giữa thức  và  ngủ,  giữa tỉnh và say.

Nhận thức lí tính cung cấp cho chúng ta những hiểu biết một cách khái quát, những mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.

Trong tầng bậc hoạt động, các hành động  có  ý  thức  đóng vai  trò  là những đơn vị cơ bản. Hành động có ý  thức  là  quá trình con người  sử dụng những hiểu  biết, kinh nghiệm của mình tác động  vào  thế  giới  hiện  thực  nhằm  thoả  mãn những nhu cầu của bản thân và xã hội.

Vô thức:

Vô thức là những hiện tượng tâm lí không được ý thức. Nó bao gồm:

Những hành động hoặc những cảm giác diễn ra nhưng  người  ta không  nhận biết được nguyên nhân.

Thành phần tự động hóa trong các kĩ năng, kĩ xảo.

Trạng thái mất ý thức do nguyên nhân  sinh lí  tự  nhiên [mơ  ngủ]  hoặc  do  bệnh lí [chấn thương sọ não, sốt cao] hay nhân tạo [gây mê].

Trực giác.

Mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu tập trung vào vô thức  song vẫn còn nhiều điều chưa được sáng tỏ trong lĩnh vực này.

Tâm lí bao gồm các quá trình, trạng thái và thuộc tính:

Đây là cách chia dựa vào thời gian tồn tại và vị trí  tương đối của chúng trong nhân cách.

Các quá trình tâm lý: là những hiện tượng tâm lí  diễn ra trong  một  khoảng thời gian ngắn, có mở đầu, diễn biến và kết  thúc  tương đối rõ ràng. Các  quá trình đều có sản phẩm của mình. Đó  có  thể  là các  biểu tượng của nhận  thức  cảm  tính, là khái niệm, nhận định của tư duy, là rung cảm của cảm xúc…

Các trạng thái tâm lí: là những hiện tượng tâm  lí  diễn ra trong khoảng  thời gian dài, mở đầu và kết thúc  không  rõ  ràng  và  luôn luôn đi  kèm  theo,  làm  nền cho các quá trình tâm lí. Ví dụ như chú ý, tâm trạng…

Các thuộc tính tâm lí: là những hiện tượng tâm lí tương đối ổn định,  hình  thành chậm song cũng khó mất đi,  tạo  thành  những  nét  riêng  của  nhân  cách. Thuộc tính tâm lí chính là sự khái quát phối hợp giữa một số  quá  trình tâm lí với trạng thái tâm lí. Nét nhân cách có thể  được  xem xét  một  cách riêng biệt, ví  dụ, tính cẩn thận, song chúng cũng có thể kết hợp tạo  thành  nhóm.  Ví  dụ  như  xu hướng, tính cách, năng lực, khí chất.

Tâm lí bao gồm ba mặt:

Nhận thức: là các quá  trình tâm  lí  giúp  cho  con người  nhận  biết được sự  vật, hiện tượng, các  mối  quan  hệ  của những  sự vật  hiện tượng đó. Nhận thức  gồm 2 nhóm chính là nhận thức cảm tính [cảm giác  và  tri  giác]  và  nhận  thức  lí  tính [chủ yếu là tư duy].

Đời sống tình cảm: nếu như các quá trình nhận thức đem lại cho con người  hiểu biết về  thế  giới khách quan thì đời sống tình cảm  lại  thể  hiện  mối quan hệ của chủ thể đối với  các  sự vật  hiện tượng.  Tuy  nhiên không phải  đối với  mọi  sự vật hiện tượng mà chỉ là đối với  những  sự  vật  hiện  tượng  có  liên quan  đến sự thoả mãn nhu cầu của chủ thể mà thôi. Gọi nó  là đời  sống hay lĩnh vực  bởi  nó mang tính tổng thể [một cách tương đối] và bởi vì  trong thành  phần  của nó  có nhiều các thành tố khác nhau, trải dài  từ  những  màu  sắc  cảm  xúc  của cảm  giác cho đến tình cảm. Ngay trong lĩnh vực này,  sự tách biệt  đâu là quá  trình, đâu là trạng thái, thuộc tính cũng chỉ mang tính tương đối.

Ý chí: là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng  lực  thực  hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực  khắc  phục  khó  khăn.  Ý chí  là hình thức tâm lí điều chỉnh hành vi tích cực nhất ở con người. Nhờ có ý chí, con người chuyển được từ nhận thức và rung  động  sang  hoạt  động  thực  tiễn.  Ý chí luôn đi kèm với hành động do vậy lĩnh vực này còn được gọi là hành động ý chí.

Thế giới các hiện tượng tâm lí của con  người  là  một  chỉnh  thể  trọn  vẹn, thống nhất, không thể chia cắt được. Sự phân chia thành  các  lớp,  loại,  lĩnh vực trước hết nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu  sâu  hơn  thế  giới  trừu  tượng  này. Mỗi cách phân loại đều có ưu điểm  và  nhược  điểm  nhất  định. Ngay trong từng cách phân loại cũng đã mang tính tương đối bởi lẽ không thể  xác  định được một cách chính xác ranh giới của các hiện tượng, ví dụ giữa ý thức và  vô  thức  hoặc  không thể tách biệt một cách máy móc  đâu là trạng thái  cảm  xúc  và  đâu là quá  trình cảm xúc.

Video liên quan

Chủ Đề