Trẻ em hay bị đi phân lỏng là bệnh gì

Tiêu chảy có thể kèm theo biếng ăn, nôn mửa, giảm cân cấp tính, đau bụng, sốt, hoặc đi ngoài phân máu. Nếu tiêu chảy nặng hoặc kéo dài, có thể có mất nước. Ngay cả khi không mất nước, tiêu chảy mãn tính thường dẫn đến sụt cân hoặc không tăng cân.

Tiêu chảy là một mối quan tâm rất phổ biến ở trẻ em, và tiêu chảy và mất nước gây ra khoảng 1,5 đến 2,5 triệu ca tử vong/năm trên toàn thế giới. Nó chiếm khoảng 9% số trường hợp nhập viện ở Mỹ ở trẻ em < 5 tuổi.

Cơ chế tiêu chảy có thể bao gồm:

  • Thẩm thấu
  • Tiết dịch
  • Viêm
  • Kém hấp thu

Tiêu chảy xuất tiết kết quả từ các chất [ví dụ, độc tố vi khuẩn] làm tăng tiết các ion clorua và nước vàolòng ruột. Tiêu chảy xuất tiết không ngừng khi nhịn ăn.

Tiêu chảy cấp thường có nguyên nhân

  • Sử dụng kháng sinh
  • Ngộ độc thực phẩm

Hầu hết viêm dạ dày ruột là do vi rút; tuy nhiên, bất kỳ các nguyên nhân nào tại đường ruột cũng có thể gây tiêu chảy cấp.

Tiêu chảy mãn tính thường có nguyên nhân

  • Các yếu tố dinh dưỡng
  • Nhiễm trùng

Tiêu chảy mạn tính cũng có thể do bất thường về giải phẫu và các bất thường này ảnh hưởng tới sự hấp thu hoặc tiêu hóa.

Lịch sử của các bệnh hiện tại chú ý vào tính chất, tần suất, và thời gian bất thường của phân, cũng như các dấu hiệu kèm theo như sốt, nôn, đau bụng, hoặc có máu trong phân. Hỏi cha mẹ về tình trạng đang sử dụng kháng sinh [trong vòng 2 tháng]. Các bác sĩ lâm sàng cần xây dựng chế độ ăn hợp lý [ví dụ, lượng nước trái cây, thức ăn giàu đường hoặc sorbitol]. Cần lưu ý tiền sử của phân cứng hoặc táo bón. Các bác sĩ lâm sàng cũng cần đánh giá các yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn [ví dụ như đi du lịch gần đây, tiếp xúc với nguồn thực phẩm đáng nghi ngờ, tiếp xúc gần đây với động vật ở vườn thú, bò sát, hoặc những người có các triệu chứng tương tự].

Rà soát hệ thống nên tìm các triệu chứng của cả biến chứng và nguyên nhân gây tiêu chảy. Các biểu hiện của biến chứng bao gồm giảm cân và giảm số lần đi tiểu và lượng nước uống vào [mất nước]. Các dấu hiệu của nguyên nhân bao gồm phát ban mày đay liên quan đến thức ăn [dị ứng thức ăn]; polyps mũi, viêm xoang, và chậm tăng trưởng [xơ nang]; và viêm khớp, tổn thương da và các vết nứt hậu môn [viêm đại tràng].

LTiền sử y khoa nên xác định các nguyên nhân [ví dụ, suy giảm miễn dịch bẩm sinh, xơ nang, bệnh celiac, viêm ruột] ở bệnh nhân và thành viên trong gia đình.

Các dấu hiệu sống cần được lưu ý để xác định tình trạng mất nước [ví dụ, nhịp tim nhanh, hạ huyết áp] và sốt.

Đánh giá toàn thể bao gồm kiểm tra các dấu hiệu li bì hoặc khó thở. Các thông số tăng trưởng cần được lưu ý.

Bởi vì kiểm tra bụng có thể gây nên sự khó chịu, nên bắt đầ việc thăm khám u khám bằng việc khám đầu. Việc khám xét nên tập trung vào niêm mạc để đánh giá xem chúng có ẩm hay bị khô. Polls mũi; viêm da vẩy nến quanh mắt, mũi và miệng; và loét miệng nên được lưu ý.

Việc kiểm tra các chi nên tập trung vào việc đánh giá độ đàn hồi của da, dấu hiệu làm đầy mao mạch refill, và sự xuất hiện của các ban đỏ, ban xuất huyết, và các tổn thương da khác [như hồng ban nốt, viêm mủ hoại tử sâu], phát ban và hồng ban, sưng khớp.

Kiểm tra bụng cần tập trung xem bụng có chướng không, có mềm và tiếng nhu động ruột [ví dụ, cao, bình thường, không có mặt]. Kiểm tra bộ phận sinh dục tập trung vào sự xuất hiện của các ban và dấu hiệu nứt kẽ hậu môn hoặc tổn thương loét.

Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:

  • Phân có máu
  • Nôn dịch mật
  • Đau bụng dữ dội và/hoặc bụng chướng căng
  • ban xuất huyết và/hoặc da xanh

Tiêu chảy liên quan đến kháng sinh, sau nhiễm khuẩn, và giải phẫu bất thường thường là nhóm nguyên nhân gây tiêu chảy rõ ràng. Xác định thời gian tiêu chảy để biết đây tiêu chảy là cấp tính hay mãn tính. Mức độ nặng của bệnh cũng rất quan trọng. Hầu hết các trường hợp tiêu chảy cấp tính có nguyên nhân do virut, bệnh thường không nặng, bệnh có sốt và phân không có máu. Tuy nhiên, tiêu chảy nhiễm khuẩn có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng; các triệu chứng bao gồm sốt, ỉa máu, và có thể có ban đỏ hoặc ban xuất huyết.

Xét nghiệm thường là không cần thiết trong hầu hết các trường hợp tiêu chảy cấp tự giới hạn. Tuy nhiên, nếu khám cho thấy một nguyên nhân khác với viêm dạ dày ruột do virus, cần phải kiểm tra các nguyên nhân nghi ngờ [ xem Bảng: ].

Cần điều trị nguyên nhân đặc hiệu gây tiêu chảy [ví dụ chế độ ăn không chứa gluten cho trẻ bị bệnh celiac].

Điều trị thồng thường tập trung vào vấn đề mất nước, chủ yếu bù nước qua đường uống. Hiếm khi có chỉ định truyền dịch qua đường tĩnh mạch. [THẬN TRỌNG: [ví dụ, loperamide] không được khuyến cáo cho trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ.]

ORS được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo và có sẵn trên thị trường một cách rộng rãi mà không cần kê đơn. Các dung dịch pha cũng sẵn có tại hầu hết các hiệu thuốc và siêu thị.

Nếu trẻ nôn, trẻ cần được sử dụng thường xuyên với một số lượng nhỏ, bắt đầu với 5 mL, 5 phút một lần và tăng dần theo khả năng dung nạp [ xem Bù dịch đường uống Bù dịch đường uống Liệu pháp dung dịch uống có hiệu quả, an toàn, tiện lợi và không tốn kém so với liệu pháp truyền tĩnh mạch. Liệu pháp uống nước được Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ và Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] khuyến... đọc thêm ]. Nếu trẻ không nôn, số lượng ban đầu không hạn chế. Trong cả hai trường hợp, thông thường 50 mL/kg trong 4 giờ đối với mất nước nhẹ, và 100 mL/kg trong 4 giờ đối với mất nước mức độ trung bình. Đối với mỗi lần tiêu chảy, bù 10 mL/kg [lên đến 240 mL]. Sau 4 giờ, bệnh nhân được đánh giá lại. Nếu dấu hiệu mất nước vẫn còn, việc bù nước tương tự được lặp lại.

Trẻ bị tiêu chảy cấp cần ăn một chế độ ăn phù hợp với lứa tuổi ngay khi trẻ được bù nước và không nôn. Trẻ nhũ nhi có thể tiếp tục sữa mẹ hoặc ăn sữa công thức.

Đối với tiêu chảy mạn tính không đặc hiệu ở trẻ em [tiêu chảy của trẻ mới biết đi], nên tăng chất béo và chất xơ trong khẩu phần, và lượng nước đưa vào [đặc biệt là nước ép trái cây] phải giảm.

Đối với các nguyên nhân tiêu chảy mạn tính khác, cần duy trì dinh dưỡng hợp lý, đặc biệt là vitamin tan trong dầu.

Chủ Đề