Truyền thuyết đã phản ánh lịch sử như thế nào

Câu hỏi: Truyền thuyết là gì?

Lời giải:

-Truyền thuyết lànhững câu chuyện kể dân gian, kể lại những câu chuyện trong lịch sử dựng nước, giữ nước của cha ông ta được khúc xạ qua lời kể của nhiều thế hệ để rồi kết tinh thành những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, nhuốm màu thần kì mà vẫn thấm đẫm cảm xúc đời thường.

- Đặc trưng thể loại:

+ Đề tài thường lấy từ lịch sử, những vấn đề có ý nghĩa trọng đại

+ Sử dụng các yếu tố tưởng tượng, hư cấu

+ Nhân vật thường được xây dựng đơn giản, có sự kết hợp kì lạ giữa những nét đời thường, thế tục với những nét phi thường, kì ảo.

+ Cốt truyện đơn giản, ít tình tiết

Cùng Top lời giải tìm hiểu chi tiết hơn cho câu hỏitruyền thuyết là gì? nhé:

1. Khái niệm

Truyền thuyết là thể loại có vị trí nổi bật trong hệ thống thể loại văn học dân gian Việt Nam không chỉ ở số lượng phong phú mà ở cả chất lượng phản ánh vô cùng đặc sắc của nó. Do những đặc thù lịch sử về vấn đề chữ viết và hàng ngàn nầm bị ngoại bang xâm lược [chính sử của nước ta xuất hiện muộn] nên truyền thuyết dân gian trở thành pho sử truyền miệng đặc biệt quý báu được nhân dân lưu truyền, gìn giữ trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.

2. Thể loại

Truyền thuyết là thể loại tự sự bằng văn xuôi, kể lại các sự kiện và nhân vật có quan hệ với lịch sử địa phương, dân tộc, thường dùng yếu tố tưởng tượng để lí tưởng hoá các sự kiện và nhân vật được kể, nhằm thể hiện ý thức lịch sử và thái độ, tình cảm của nhân dân.

Truyền thuyết và thần thoại :

-Nếu như truyện cổ tích kể về những điều không có thật, những truyện hư cấu, không thể xảy ra trong thưc tế thì truyền thuyết kể về những điều gắn với các sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ. Song, chức năng làm sứ của truyền thuyết dân gian cũng mang những đặc trưng riêng. Truyền thuyết không ghi chép lịch sử một cách khô cứng, máy móc, đơn giản mà đằng sau việc phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử là thái độ, tình cảm, cách đánh giá của nhân dân đối với các nhân vật và sự kiện lịch sử đó. Truyền thuyết dân gian phản ánh lịch sử nhưng đó là lịch sử được phản chiếu qua lăng kính nghệ thuật của nhân dân, có chức năng nhận thức và thẩm mĩ to lớn. cốt lõi lịch sử và yếu tố hư cấu, tưởng tượng là hai đặc trưng không thể thiếu của truyền thuyết dân gian. “Truyền thuyết dân gian thường có cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng hoá, gửi gắm vào đó tâm tình tha thiết của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của trí tưởng tượng và nghệ thuật dân gian, làm nên những tác phẩm mà đòi đời con người yêu thích” [Nhận định của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, báo Nhân dân, 29 – 4 – 1969].- Khi nghiên cứu và tìm hiểu truyền thuyết, cần có huớng tiếp cận tác phẩm theo hệ thống các yếu tố nghệ thuật nhu hình tuợng nhân vật, kết cấu, lời kể.

Truyền thuyết và cổ tích

+ Nhân vật cổ tích là nhân vật hư cấu, còn nhân vật truyền thuyết do chính lịch sử tạo ra. Tuy không phải nhân vật hư cấu, nhung nhân vật truyền thuyết cũng không phải là bản sao của nhân vật lịch sử. Nhân dân đã lựa chọn những nhân vật mang ý nghĩa biểu trung cho lịch sử khái quát của dân tộc [những nhân vật trong truyền thuyết thời vua Hùng nhu Thánh Gióng [Thánh Gióng], Son Tinh [Sơn Tinh, Thuý Tinh],…] hoặc nhũng nhân vật cụ thể, có thật trong lịch sử vừa phản ánh hiện thực vừa lí tuởng hoá nhân vật, qua đó gửi gắm thái độ, tình cảm của nhân dân.

+ Sử thi của các dân tộc thường được thể hiện duới hình thức thơ ca hoặc văn vần kết họp với văn xuôi, nên ngôn ngữ là yếu tố nghệ thuật cần đuợc chú ý khai thác kĩ. Truyền thuyết của nguời Việt thường tồn tại trong lời kể văn xuôi, do vậy mà ta phải chú ý vào kết cấu và các chi tiết nghệ thuật, còn lời kể lại là yếu tô thứ yếu.

-Khi khai thác, phân tích truyền thuyết phải chú ý đến vai trò của kết cấu. Kết cấu truyền thuyết có mô hình đơn giản hơn kết cấu truyện cổ tích.

Về nội dung:

-Truyền thuyết có kết cấu chuỗi, nghĩa là xung quanh một nhân vật lịch sử đuợc phản ánh, nhân dân chú ý tạo ra rất nhiều dị bản [những biến thể]. Đó là hệ thống các mẩu truyện có kết cấu đơn giản không quá nghiêm ngặt về trình tự sắp xếp theo thời gian như các chi tiết trong truyện cổ tích nhưng với điều kiện các mẩư truyện ấy đều xoay xung quanh nhân vật trung tâm.

-Tìm hiểu truyền thuyết cũng cần chú ý đến các môtíp truyền thống khi mô hình hoá kết cấu xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm.

-Hoàn cảnh xuất hiện nhân vật chính : môtíp sinh nở thần kì hoặc đặc điểm lạ trên cơ thể, hoặc tài nầng nhân vật,…

-Sự nghiệp của nhân vật chính : môtíp vũ khí thần kì, chiến công, sự nghiệp của nhân vật.

Về kết thúc truyện:

- Kết thúc của truyền thuyết, nhân vật thường hoá thân, được thờ phụng, gia phong, có trường họp nhân vật hiển linh, phù trợ cho các nhân vật anh hùng đời sau. Chủ Đồng Tử hiển linh phù trợ Triệu Quang Phục, Bà Triệu hiển linh phù trợ đoàn quân của Quang Trung trên đường hành quân ra Bắc,…

-Với thể loại truyền thuyết, ngoài việc tiếp cận tác phẩm theo hướng thi pháp văn học như khai thác hình tượng nhân vật, kết cấu, các thủ pháp nghệ thuật, cần chú ý đến phương pháp nghiên cứu liên ngành, đặc biệt là phương pháp phân tích theo chức năng thể loại: chức năng phản ánh lịch sử thông qua cách đánh giá của nhân dân, đồng thời chú ý phương pháp tiếp cận đối tượng theo bối cảnh diễn xướng [đặt truyền thuyết trong phong tục, tín ngưởng, lễ hội dân gian].

-Môi trường diễn xướng của truyền thuyết là lễ hội dân gian. Nếu những địa danh, đền đài, miếu mạo tồn tại dày đặc khắp noi ưên đất nước ta là vốn văn hoá vật thể vô cùng quý báu của dân tộc thì các truyền thuyết dân gian là linh hồn, là vốn văn hoá phi vật thể luôn lung linh toả sáng. Hai mặt này luôn luôn hoà quyện, không thể tách rời.

Truyền thuyết là tên gọi một thể loại văn học dân gian với nhiều quan niệm khác nhau về mặt phạm vi và đặc trưng thể loại. Nhóm tác giả Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên – Võ Quang Nhơn không xếp truyền thuyết vào hệ thống thể loại văn học dân gian, những truyền thuyết ở thời kì đầu thì xếp vào thần thoại, những truyền thuyết ở thời kì sau thì xếp vào cổ tích lịch sử.

Có quan niệm cho rằng các truyện kể dân gian có liên quan đến lịch sử, đồng thời có yếu tố hoang đường, tưởng tượng là truyền thuyết. Có cách hiểu hẹp hơn cho rằng truyền thuyết là những truyện dân gian có liên quan đến lịch sử, đồng thời có ảnh hưởng thế giới quan thần thoại. Theo quan điểm này, một số học giả đã xếp chung thần thoại và truyền thuyết trong nghiên cứu, không phân định đặc trưng nghệ thuật của thần thoại và truyền thuyết.

Có thể hiểu truyền thuyết là những truyện kể dân gian liên quan đến lịch sử được xây dựng bằng sắc màu huyền thoại. Đây là một thể loại tự sự dân gian manh nha từ cuối thời kì thần thoại và tiếp tục phát triển sau đó, với chức năng nhận thức, phản ánh, lí giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng với một thời kì, một địa phương hay một dân tộc bằng thế giới quan thần thoại.

Vào cuối thời kì thần thoại, truyền thuyết bắt đầu những thể nghiệm. Truyện kể dân gian ra đời trong giai đoạn này vì thế rất khó để phân loại một cách chính xác, rạch ròi. Truyện “Lạc Long Quân và Âu Cơ” có quan niệm xếp vào truyền thuyết giai đoạn đầu. Điều này có lí khi xét đến nội dung lịch sử ra đời của dân tộc. Tuy nhiên, bản thân sự hình thành dân tộc được thể hiện trong truyện vẫn chưa thực là một sự kiện lịch sử. Vì vậy, chúng tôi vẫn dành truyện kể này cho thể loại thần thoại.

Truyền thuyết sau giai đoạn manh nha, còn nhập nhằng với thời kì thần thoại, đã phát triển độc lập qua các thời kì Âu Lạc – Bắc thuộc, các thế kỉ phong kiến tự chủ và các thế kỉ phong kiến suy yếu, nội chiến và chống ngoại xâm. Đó là truyền thuyết lịch sử. Càng về sau, yếu tố thần kì, huyền ảo dần nhường chỗ cho yếu tố lịch sử, truyền thuyết tiệm cận cổ tích, truyện kể dân gian tiếp tục đời sống của mình. Bên cạnh bộ phận truyền thuyết lịch sử, hệ thống truyền thuyết Việt Nam còn có bộ phận truyền thuyết anh hùng và bộ phận truyền thuyết văn hóa.

1/ Đặc trưng nội dung

Bộ phận truyền thuyết lịch sử có thể khảo sát theo các thời kì lịch sử. Trước hết, phải kể đến bộ phận truyền thuyết thời kì Âu Lạc – Bắc thuộc. Nước Âu Lạc tồn tại khoảng nửa thế kỉ [229 – 179 TCN]. Từng có lúc thời kì này được gắn với thời Văn Lang thành thời kì Văn Lang – Âu Lạc. Đây xem như giai đoạn chuyển tiếp giữa thời  kì Văn Lang và thời kì Bắc thuộc.

Nước Âu Lạc được thành lập từ thế kỉ III TCN, khi kết thúc thời kì vua Hùng, đến khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng là mười hai thế kỉ, một giai đoạn phát triển mạnh mẽ phong trào chống ngoại xâm. Truyền thuyết “An Dương Vương” đã xuất hiện trong thời kì này, mà một trong những cơ sở đầu tiên là cuộc xung đột Hùng – Thục.

Sau khi nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà, truyền thuyết này đã được nhào nặn, bổ sung tình tiết Mị Châu – Trọng Thủy nhằm giải thích nguyên nhân họa mất nước lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc.

Sau đó, cốt truyện được ổn định trong bản ghi Thiên nam ngữ lục. Xung đột trong những mối quan hệ gia đình, quan hệ xã hội thể hiện xu hướng cổ tích hóa của truyền thuyết này, và tên gọi Mị Châu – Trọng Thủy bắt nguồn từ đó.

Sự cường điệu hóa yếu tố cổ tích làm lu mờ bản chất truyền thuyết của truyện, làm sai lệch ý nghĩa thực sự của truyền thuyết này. Nàng Mị Châu chết với lời khấn nguyện tẩy sạch mối nhục thù, thể hiện khát vọng được minh oan, không phải mong ước kiếp sau được sum họp với kẻ thù đã lừa dối nàng. Nàng là nạn nhân trong vở kịch mà kẻ thù dựng lên để lừa dối vua cha và nàng, dẫn đến họa mất nước. Nàng chết đi, máu hóa thành châu ngọc, chứng minh cho lòng trong trắng của nàng, một nạn nhân, không phải một tên phản nghịch bán nước.

Sự nảy sinh và phát triển, sự lan truyền tương đối rộng rãi và sức sống lâu bền của truyền thuyết trong một giai đoạn đấu tranh gian khổ trong lịch sử dân tộc là một hiện tượng thú vị.

Từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng [40 – 43] đến chiến thắng Bạch Đằng năm 938, không cuộc khởi nghĩa nào không được nhân dân dựng tượng đài tưởng niệm bằng truyền thuyết lịch sử. Hình thức lễ nghi cúng bái, thờ tự gắn liền với truyền thuyết lịch sử, nhằm thuyết giải, chứng minh, củng cố niềm tin cho nhân dân. Suốt thời kì Bắc thuộc, làng nước vẫn mãi của người Việt; vì thế, sự thờ cúng các anh hùng dân tộc, sự truyền tụng các truyền thuyết ca ngợi các vị anh hùng ấy đã thể hiện khí phách dân tộc trong cuộc chiến đấu bài trừ Hán tộc và văn hóa Hán.

Thứ hai là bộ phận truyền thuyết thời kì quốc gia phong kiến tự chủ, thời kì của chế độ phong kiến biết lấy dân làm gốc. Chính chủ trương sáng suốt đó đã tạo nên sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc chống lại những âm mưu xâm lược.

Đặc điểm ấy của giai đoạn lịch sử này đã in dấu ấn đậm nét vào nội dung và cơ cấu của truyền thuyết lịch sử. Truyền thuyết xưa kia ca ngợi các bậc anh hùng dân tộc như Lí Bí, Ngô Quyền… thì những truyền thuyết thời Đại Việt ca ngợi những triều đại với những cuộc chiến tranh vệ quốc ác liệt hào hùng. Chân dung các vị thống soái kết tinh cho ý chí, trí tuệ của dân tộc và nhân dân trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa có thể kể ra như: Đinh Bộ Lĩnh, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Toản, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Tuệ Tĩnh, Chu Văn An… Truyền thuyết giai đoạn này giàu tính hiện thực hơn so với giai đoạn trước.

Giai đoạn này có chính sử và văn học nghệ thuật với tư cách hình thức sản sinh tư tưởng chuyên môn hóa, nằm trong sự kiểm soát chặt chẽ của giai cấp thống trị phong kiến dân tộc. Thuyền thuyết dân gian góp phần cung cấp dữ liệu phục hồi những cứ liệu bị giặc xuyên tạc trong thời kì nước ta chịu họa xâm lăng.

Trong xã hội Việt Nam xuất hiện hai bức tranh về lịch sử: chính sử và tự sự lịch sử dân gian. Truyền thuyết lịch sử dân gian đề cao những người xuất thân bình dân, như anh chăn trâu cắt cỏ, đan sọt đánh cá… [Đinh Bộ Lĩnh, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu…]. Ngoài ra, sử dân gian còn hư cấu, thần thánh hóa sự ra đời, xuất thân của những vị vua có xuất thân không rõ ràng như Lí Công Uẩn, Lê Thánh Tôn… Nhân dân không phiền hà gì về điều này, vì họ không quan tâm xuất thân vị vua bằng mối quan hệ của ông đối với dân và với triều thần. Và sử sách theo vậy mà ca ngợi công lao của họ đối với vương triều, đối với giang sơn. Còn tiểu sử ấu thơ của họ cũng không phải chủ đề chính được xem xét trong chính sử.

Nhìn chung, truyền thuyết dân gian vẫn lấy cảm hứng từ tình yêu nước thương dân, của lòng ngưỡng mộ các bậc tài đức của dân của nước, không chú ý đề cao vương quyền và thần quyền.

Thứ ba là bộ phận truyền thuyết thời kì quốc gia phong kiến suy yếu, nội chiến và chống ngoại xâm. Từ thế kỉ thứ XVI – XVII, chế độ phong kiến suy yếu dần dưới thời Lê, Lê – Trịnh và triều Nguyễn. Các sinh hoạt văn hóa dân gian đến đây gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của phong trào nông dân, văn học dân tộc bước vào thời kì hoàng kim của nó.

Truyền thuyết vẫn tiếp tục sứ mạng lịch sử của nó. Cảm hứng chủ đạo của truyền thuyết là: nhân dân đấu tranh chống phong kiến, nêu cao tinh thần yêu nước. Truyền thuyết còn tô đậm tính chất nhân dân, vai trò của nhân dân trong việc quyết định thành bại của các cuộc khởi nghĩa của các lãnh tụ, trong khi đó chính sử thản nhiên biến tấu công lao trăm họ thành hồng phúc của một nhà.

Tiêu biểu trong giai đoạn này là truyện kể về những người anh hùng nông dân, tiêu biểu như: chàng Lía, Cố Bu, vợ Ba Cai Vàng. Truyện không có kết thúc mang tính hiển linh khi người anh hùng tựu nghĩa. Sự xuất hiện nhóm truyền thuyết lịch sử về anh hùng nông dân đánh dấu chuyển biến quan trọng trong cảm quan sáng tác của nhân dân. Khi xây dựng nhân vật người anh hùng nông dân, dân gian đã gửi gắm vào đó quan điểm của người lao động. Những người anh hùng này mang đầy đủ ưu nhược điểm của một nông dân bình thường, đồng thời chứa thêm sự phi thường mà nhân dân mơ ước.

Bên cạnh chủ đề chính là sự tự khẳng định, tự nhận thức về mình, truyền thuyết lịch sử chú ý đến kẻ thù xâm lược, phản ánh và nhận thức về chúng nhằm tìm phương án đối phó.

Trong truyền thuyết, bên cạnh những nhân vật chính diện, còn có những nhân vật phản diện, những tên xâm lược phương Bắc như Triệu Đà, Trọng Thủy, Tô Định, Mã Viện, Sĩ Nhiếp, Cao Biền… Truyền thuyết còn nhiều mẫu truyện về Cao Biền [một tên võ quan đô hộ nhà Đường, kiêm thầy địa lí, thầy phù thủy thời Bắc thuộc] như “Cao Biền yểm long mạch”, “Cao Biền dậy non”, truyện kể Cao Biền bị thần Tản Viên nhổ nước bọt vào mặt hay bị thần sông Tô Lịch phá phép thuật… Câu thành ngữ “lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” thể hiện sự chế giễu dành cho tên phù thủy này, xuất phát từ việc y “ủ quân” thất bại.

Bộ phận truyền thuyết kể về nhân vật anh hùng không tách rời khỏi bộ phận truyền thuyết lịch sử. Bởi vì, chỉ trong hoàn cảnh lịch sử thì nhân vật anh hùng mới xuất hiện, hành động và trưởng thành. Chỉ khác là, truyền thuyết kể về nhân vật anh hùng xây dựng cốt truyện xung quanh cuộc đời và tài năng, tính cách nhân vật, trong khi truyền thuyết lịch sử được xây dựng theo bối cảnh, tình huống và sự chuyển biến của các sự kiện.

Sau khi Cổ Loa thất thủ, nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà mười thế kỉ dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc. Nhân dân ta không ngừng chiến đấu giành lại tự do. Sự phản kháng của nhân dân đối với bọn xâm lược phương Bắc thể hiện sớm nhất ở các truyền thuyết về thần núi Tản Viên, thần sông Tô Lịch, thần chính khí Long Đỗ.

Qua các thời kì lịch sử, nhiều anh hùng dân tộc lãnh đạo nhân dân chống ngoại bang. Nhân dân đã kể chuyện về các nhân vật và sự kiện lịch sử đó như: Hai Bà  Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi… Nhân vật anh hùng trong truyền thuyết giống nhau ở lòng yêu nước, thương dân, chí căm thù giặc và quyết tâm chiến đấu giành lại độc lập dân tộc. Họ được mến mộ, hưởng ứng, suy tôn. Các câu chuyện đều kết thúc bằng chiến thắng; nếu mất mát, nhân dân giải thích bằng nguyên nhân khách quan và tiễn đưa họ về cõi bất tử.

Bộ phận truyền thuyết văn hóa phản ánh phong tục, tập quán, các loại cây trái, món ăn. Đồng thời đó còn là những câu chuyện kể về các danh nhân văn hóa dân tộc như “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, “Đầm Mực” [về Chu Văn An], “Trạng Bùng” [về Phùng Khắc Khoan]…

2/ Đặc trưng nghệ thuật

Về nhân vật, khác với thần thoại, nhân vật truyền thuyết chủ yếu là người và nhân vật bán thần. Nhân vật bán thần chỉ tồn tại ở những truyền thuyết thời kì đầu, còn bị che phủ bởi màng sương thần thoại dày đặc như “Sơn Tinh, Thủy Tinh” hay “Thánh Gióng”. Về sau, hầu hết nhân vật truyền thuyết đều là người, đều là nhân vật lịch sử, có thời điểm sinh thành và kết thúc, có lai lịch, có diễn biến cuộc đời gắn với các sự kiện lịch sử.

3/ Về không – thời gian truyền thuyết

Thời gian truyền thuyết là thời gian lịch sử, diễn ra theo thời đại, triều đại, được xác định cụ thể hơn so với thời gian thần thoại. Câu chuyện có thể diễn ra trong nhiều triều đại, có thể trong một triều đại. Truyện “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy” diễn ra từ lúc nhà vua xây thành cho đến khi thất bại; truyện “Thánh Gióng” kể từ lúc đất nước có giặc ngoại xâm cho đến lúc giặc tan. Tuy nhiên, thời gian truyền thuyết không cụ thể đến từng thời điểm, bởi vì dù sao thì truyền thuyết cũng là truyện kể, hơn nữa, lại là truyện kể dân gian. Yếu tố hư cấu và bất biến đã chi phối đến thời gian nghệ thuật. Một phương diện khác có thể góp phần minh định thời gian nghệ thuật trong truyền thuyết là cuộc đời nhân vật. Nhân vật truyền thuyết là cuộc đời có lai lịch, có bắt đầu, có kết thúc, mặc dù, cũng như hệ quy chiếu thời gian chung, thời điểm là không xác định.

Không gian truyền thuyết là không gian đời thường, không gian chiến trường, không gian xã hội. Không gian truyền thuyết gắn liền với các địa danh cụ thể như làng Phù Đổng, làng Quế Võ, núi Sóc, Phong Khê, núi Thất Diệu, Dạ Sơn, Lam Sơn, hồ Tả Vọng… Những địa danh, di tích xuất hiện trong truyền thuyết thường gắn với các sự kiện lịch sử và cuộc đời của nhân vật.

4/ Một vài đặc điểm nghệ thuật nổi bật của truyền thuyết:

Tính cụ thể xác thực: một đặc điểm nghệ thuật nổi bật của truyền thuyết nhằm phản ánh sự thật lịch sử. Trong truyền thuyết, những danh từ riêng chỉ tên người, tên đất, tên thời kì lịch sử rất được coi trọng, như An Dương Vương, Mị Châu… vì những tên này gắn liền với những con người thật, vùng đất thật. Đặc điểm này góp phần vào việc dựng lại không khí lịch sử của truyện, thực hiện chức năng cơ bản của thể loại.

Tính văn – sử: Sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này góp phần tạo nên tính xác thực về thời gian – không gian lịch sử cụ thể xảy ra sự kiện lịch sử, đồng thời đảm bảo thông tin được truyền tải một cách hiệu quả, nghệ thuật đến công chúng.

Yếu tố huyền thoại trong truyền thuyết là cách thần thánh hóa hình tượng, bất tử hóa cái chết của những bậc anh hùng mà nhân yêu mến, ngưỡng vọng. Theo truyền thuyết, An Dương Vương nhảy xuống biển tự tử, nhưng nhân dân muốn tưởng nhớ công lao của ông, đã để ông cầm sừng tê rẽ nước về sống tại thủy cung, trường sinh bất tử cùng các vị thần. Bà Triệu lên núi Tùng Sơn chết thì hồn bà hòa quyện cùng thanh gươm quý thành ánh hào quang sáng chói bay về trời.

Việc thờ tự, lập miếu thờ, lễ nghi cúng kính thường niên các bậc anh hùng dân tộc cũng không nằm ngoài mục đích tưởng nhớ, ghi công ân đức của các vị ấy đối với con cháu ngàn đời. Nhân dân tin rằng các bậc thánh nhân, các bậc anh hùng thỉnh thoảng vẫn trở về giúp đỡ cháu con vượt qua những lúc khó khăn ngặt nghèo nhất.

Nhân dân gởi gắm một thông điệp có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về trách nhiệm, nghĩa vụ đối với quốc gia của tất thảy con cháu mọi đời, phải cùng đoàn kết bảo vệ sơn hà mà máu xương ngàn đời cha ông tô thấm. Và cũng từ đó, ý nghĩa hình tượng nhân vật trong truyền thuyết trở nên thiêng liêng, vĩnh hằng.

Truyền thuyết là một thể loại có sự gắn kết gần gũi với các sự kiện và nhân vật lịch sử. Đó là pho sử dân gian. Nó được kể lại bằng cảm quan dân gian, được phán xét bằng triết lí dân gian. Truyền thuyết được xác định là đời sau thần thoại, song, vẫn tồn tại song hành cùng nhau và có những điểm giao mờ nhòe giữa hai thể loại là chứng hiện cho con đường tư duy của con người.

TS: Đàm Hiếu Nghĩa 

XEM THÊM: Thần Thoại Trong Văn Học Dân Gian

Video liên quan

Chủ Đề