-Ta mở chiến dịch Điện Biên Phủ là vì:
– Kế hoach NaVa đã bị phá sản, Pháp quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh ở Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành một pháo đài “ Bất khả xâm phạm” ở vừng núi Tây Bắc. Và biến ĐBP thành trung tâm điểm của kế hoach NaVa. Do đó muốn kết thúc chiến tranh ta phải tiêu diệt tập đoàn cứ điếm Điện Biên Phủ.
– Ngày 6/12/1953 TW Đảng họp nà nhận định: Điện Biên Phủ Là tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng thế yếu của địch ở Điện Biên Phủ là dễ bị cô lập, chỉ tiếp tế bằng đường không.
– Quân ta đã trưởng thành và có kinh nghiệm có thể đánh địch ở tập đoàn cứ điểm
– Hậu phương của ta đã vững mạnh, có thể khắc phục những khó khăn đảm bảo chi viện cho chiến trường.
Trên cơ sở phân tích tình hình TW Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành điểm quyết định chiến lược giữa ta và địch.
Diễn biến:
– Tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm tiêu diệt lực lượng của địch ở đây, giải phóng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.
– Tháng 3/1954, quân ta đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc Tổng tiến công tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ.
– Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia làm 3 đợt:
+ Đợt 1 [từ ngày 13 đến 17/3/1954]: tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Việt Bắc.
+ Đợt 2 [từ ngày 30/3 đến 26/4/1954]: đồng loạt tiến công các phân khu Trung tâm, chiếm hầu hết các cứ điểm của Pháp, tạo điều kiện không chế, chia cắt lực lượng của Pháp.
+ Đợt 3 [từ ngày 1/5 đến 7/5/1954]: đồng loạt tiến công phân khu Trung tâm và phân khu Nam, tiêu diệt các cứ điểm còn lại của Pháp.
– Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phân tán, tiêu hao, kìm chân địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi.
*Cho tớ xin ctlhn và 5 sao nha!!
Chúc cậu học tốt!!
Trong chiến tranh thường xảy ra những yếu tố bất ngờ. Ðiện Biên Phủ từ chỗ không có trong Kế hoạch Navarre của Bộ chỉ huy quân Pháp, cũng như không có trong Kế hoạch tác chiến Ðông - Xuân 1953 - 1954 của Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam [QÐNDVN] lại trở thành điểm hẹn lịch sử cho một trận quyết chiến chiến lược. Tại sao cả đôi bên tham chiến bỗng dưng đưa những đơn vị tinh nhuệ nhất của mình đến một lòng chảo nằm heo hút giữa núi rừng Tây Bắc tiến hành trận quyết đấu mà trước đó họ chưa hề nghĩ tới?
Tháng 9-1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng họp bàn định về hoạt động quân sự đông - xuân 1953 - 1954. Mục đích của đợt hoạt động này là nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, làm thất bại Kế hoạch Navarre của Pháp; tạo nên bước chuyển biến mới cho cuộc kháng chiến. Về nguyên tắc chỉ đạo chiến lược, chỉ đạo tác chiến, Bộ Chính trị xác định: Chọn nơi địch sơ hở, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh; giữ vững quyền chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.
Bạn đang xem: Vì sao đảng và chính phủ quyết định mở chiến dịch điện biên phủ
Thấu triệt tinh thần trên, dưới sự chỉ đạo của Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tham mưu QÐNDVN đã khẩn trương triển khai xây dựng đề án tác chiến trên các hướng: tây bắc và Thượng Lào; đồng bằng Bắc Bộ; Trung - Hạ Lào và phát triển sang Cam-pu-chia; bắc Tây Nguyên của Liên khu 5. Ðiều đáng lưu ý là trong Ðề án hoạt động quân sự đông - xuân 1953 - 1954 của ta không nhắc tới Ðiện Biên Phủ.
Về phía Pháp, đúng là trong kế hoạch tổng thể nhằm giải quyết cuộc chiến tranh Ðông Dương do Navarre soạn thảo cũng không đề cập đến cụm từ "Ðiện Biên Phủ". Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là các nhà quân sự Pháp không quan tâm đến Ðiện Biên Phủ. Trái lại, các đời Tổng chỉ huy tiền nhiệm cũng như bản thân Navarre đánh giá rất cao vị trí chiến lược của Ðiện Biên Phủ. Trước đó, tướng René Cogny đã có ý định "xây dựng một căn cứ bộ ở Ðiện Biên Phủ". Trước khi về nước, người tiền nhiệm của Navarre là tướng Raoul Salan cũng đã chỉ rõ sự cần thiết phải thiết lập ngay một trung tâm đề kháng tại Ðiện Biên Phủ để bảo vệ cho Luang Prabang và Thượng Lào. Là người kế nhiệm Salan, khi xây dựng bản kế hoạch đầy tham vọng, về chủ quan, bản thân Navarre không phải không quan tâm đến Ðiện Biên Phủ mà cái chính là trong đông - xuân 1953 - 1954, ông ta tập trung ưu tiên "tiến công ở phía nam vĩ tuyến 18 và miền trung Ðông Dương; đặc biệt là tìm cách giải quyết Liên khu 5, giữ thái độ phòng ngự chiến lược ở phía bắc vĩ tuyến 18 và cố tránh tổng giao chiến ở đó". Chính vì vậy mà trong bản Kế hoạch mang tên Navarre chưa đề cập đến Ðiện Biên Phủ.
Xem thêm: Vì Sao Ta Phải Kháng Chiến Lâu Dài Với Thực Dân Pháp? Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Chiến Tranh Nhân Dân
Trong khi Navarre và BCH quân Pháp chọn Ðiện Biên Phủ làm điểm quyết chiến mang tính quyết định với chủ lực Việt Minh, thì Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng và Tổng Quân ủy cũng quyết định chọn Ðiện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược với quân Pháp. Như vậy, từ chỗ không được để ý tới, Ðiện Biên Phủ trở thành điểm hẹn lịch sử mang tính chất một mất, một còn đối với cả hai phía. Ðiều đáng nói là cả BCH quân Pháp cũng như BCH Chiến dịch của ta đều luôn sợ rằng bên này [hoặc bên kia] bỏ cuộc?
Lực lượng dân công bảo đảm hậu cần cho chiến dịch góp phần làm nên chiến thắng. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Theo hồi ức của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp và một số nhân chứng lịch sử thì tại Hội nghị Thẩm Púa, bản thân ông và một số cán bộ đã hoài nghi kết quả của phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh". Song, do mọi công tác chuẩn bị đang vận hành suôn sẻ, bộ đội đang hừng hực khí thế, vả lại bản thân Chỉ huy trưởng lại là người lên sau, chưa nắm hết tình hình thực tế chiến trường nên không đủ can đảm nêu vấn đề đó ra giữa cuộc họp. Ba mươi năm sau, nguyên Tham mưu trưởng chiến dịch, Ðại tướng Hoàng Văn Thái cho biết "những băn khoăn trong Hội nghị Thẩm Púa đã được thực tế chứng minh là có cơ sở". Chính vì chưa đánh giá chính xác tình hình địch cũng như công tác chuẩn bị chiến đấu của ta để kịp thời thay đổi phương châm tác chiến sớm hơn nên mãi đến ngày 26, tức là khi đã cận kề giờ nổ súng mới có quyết định ngừng tiến công, kéo pháo ra và chuẩn bị lại theo phương châm "đánh chắc, tiến chắc" - một quyết định đã làm thay đổi cục diện cuộc chiến.
Điện Biên Phủ, một địa danh không hề được nhắc tới trong Kế hoạch Navarre của BCH quân Pháp lại trở thành nơi kéo hồi chuông báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ.
Vì sao bộ chính trị quyết định mở chiến dịch điện biên phủ?
Trả lời: bộ chính trị quyết định mở chiến dịch điện biên phủ vì:
- Kế hoạch Na-va đã bị phá sản, Pháp quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh ở Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành một pháo đài "bất khả xâm phạm" ở vùng núi Tây Bắc. Và biến Điện Biên Phủ thành trung tâm điểm của kế hoạch Na-va. Do đó muốn kết thúc chiến tranh nhân dân ta phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
- Ngày 6/12/1953: Trung ương Đảng họp mà nhận định: Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng thế yếu của địch ở Điện Biên Phủ là d
Quyết định lịch sử mở chiến dịch Điện Biên Phủ là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố: Sự lãnh đạo chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, quyết đoán, kịp thời của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh; sự đồng tâm nhất trí, đoàn kết một lòng, dồn toàn lực cho chiến thắng ở giai đoạn cuối cuộc kháng chiến. PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng [Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh] đã phân tích, làm rõ vấn đề này trong bài viết "Mở chiến dịch Điện Biên Phủ - Quyết định lịch sử của Đảng ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược". TTXVN trân trọng giới thiệu bài viết:
* Con đường đến Điện Biên Phủ
Đến Thu - Đông năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ đã trải qua 8 năm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đưa cuộc kháng chiến từ thế phòng ngự chuyển sang thế giằng co và phát triển sang thế tiến công, phản công.Đường vào Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa, xã Mường Phăng, huyện Điện Biên [tỉnh Điện Biên]. Ảnh: Thanh Tùng - TTXVN |
* Chọn Điện Biên Phủ - Một quyết định lịch sử
Ngày 20 tháng 11 năm 1953, trong khi cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên, được Bộ Tổng tư lệnh triệu tập, đang dự cuộc họp phổ biến kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954, thì Nava vội vã tung 6 tiểu đoàn lên chiếm đóng Điện Biên Phủ. Sự bị động đối phó của Pháp bắt đầu bộc lộ. Mặc dù Bộ chỉ huy Pháp lúc đó vừa kết thúc chiến dịch Hải Âu với 32 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, thiết giáp tham chiến, có cả hải quân và không quân yểm trợ, đánh vào khu vực Rịa, Nho Quan và phía Bắc Thanh Hóa, đang tỏ ra chủ quan về cái gọi là giành lại được "sự chủ động" trên chiến trường, nhưng chỉ cần một hoạt động tác chiến của ta đang triển khai một cách bình thường như vậy đã khiến kế hoạch của Bộ chỉ huy Pháp bị đảo lộn hoàn toàn, buộc phải quay sang đối phó với hoạt động của ta. Động thái này của quân Pháp, với việc bị động chấp nhận cuộc quyết đấu ở Điện Biên Phủ, càng minh chứng cho chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt, nhạy bén khi đề ra kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954, lại càng tỏ rõ sự đúng đắn, quyết đoán kịp thời khi quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, dồn toàn lực cho trận đánh quyết định này. Quyết định chọn Điện Biên Phủ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thông qua báo cáo và sự chuẩn bị, xây dựng kế hoạch chiến dịch của Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu, dựa trên các căn cứ sau: Một là, cuộc kháng chiến đã lớn mạnh, đang ở giai đoạn liên tiếp mở ra các chiến dịch chủ động tiến công quân Pháp. Thế và lực của cuộc kháng chiến đến thời điểm đó cho phép mở trận quyết chiến chiến lược để giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh. Hai là, mặc dù so sánh lực lượng về quân sự còn thua kém địch cả về quân số [ta 290.000/địch 449.000], vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh, nhưng trình độ và kinh nghiệm tác chiến của bộ đội đã được nâng lên rất nhiều. Hình thức phòng ngự kiểu tập đoàn cứ điểm tuy bộ đội ta chưa đánh thắng được nhưng không phải là hoàn toàn mới mẻ và không thể đánh thắng được, một khi có cách đánh phù hợp, có pháo binh hạng nặng và tập trung ưu thế binh lực áp đảo địch trong phạm vi một chiến dịch. Ba là, Bộ chỉ huy quân Pháp đã tỏ rõ sự bị động về chiến lược và chiến dịch khi đem một lực lượng lớn quân cơ động tinh nhuệ lên địa bàn Điện Biên Phủ xa xôi, chỉ có thể tiếp tế bằng đường không, tổ chức phòng ngự, chờ bộ đội ta tiến công để đối phó lại. Đây là một tính toán sai lầm của Tổng chỉ huy Nava dựa trên sự đánh giá sai lầm và chủ quan về khả năng tiến công của đối phương, mà ta có thể lợi dụng để đánh bại kẻ thù bằng ý chí quyết tâm, tinh thần dũng cảm của toàn quân, toàn dân. Bốn là, chủ trương của Đảng, căn cứ vào thực tiễn chiến trường, không phải và không thể đánh tiêu diệt hoàn toàn đạo quân Pháp xâm lược, mà tập trung lực lượng vào một đòn quyết định nhằm đánh sụp ý chí tiếp tục chiến tranh, buộc Bộ chỉ huy Pháp phải thừa nhận một thực tế là không thể thắng Việt Nam bằng sức mạnh quân sự. Thực tế là, sau thất bại to lớn ở Điện Biên Phủ, toàn bộ hơn 16.000 quân địch phòng thủ trong tập đoàn cứ điểm này bị tiêu diệt, bị thương, bị bắt sống tuy chỉ chiếm 4% tổng binh lực của đội quân viễn chinh Pháp và quân đội các quốc gia liên kết [thân Pháp hoặc do Pháp chỉ huy] ở Đông Dương, nhưng ý chí xâm lược đã hoàn toàn bị tiêu tan bởi hình thức phòng ngự cao nhất của Pháp cuối cùng cũng đã bị đánh bại. Năm là, Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn quân, toàn dân đều thể hiện sự quyết tâm chiến đấu cao, lòng tin vào thắng lợi. Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh đã dự kiến các tình huống, những hạn chế, khó khăn có thể xảy ra cũng như những yêu cầu thực tế đặt ra phải giải quyết cả về cách đánh tập đoàn cứ điểm, huy động tập trung lực lượng, đảm bảo hậu cần kỹ thuật cho tác chiến dài ngày, đường sá, cũng như việc kéo pháo vào trận địa… Đây là kết quả của những cố gắng nằm ngoài sức tưởng tượng của Bộ chỉ huy Pháp nhưng lại nằm trong khả năng thực hiện của quân và dân ta. Sáu là, quyết định thay đổi phương châm tác chiến chiến dịch từ "đánh nhanh giải quyết nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc", khi tình hình mặt trận đã thay đổi, địch đã tăng cường lực lượng và bố phòng kiên cố, khi khả năng đánh bại tập đoàn cứ điểm chưa đám bảo chắc chắn, cũng là một quyết định lịch sử, góp phần to lớn vào thắng lợi cuối cùng. Bảy là, quyết định chọn Điện Biên Phủ là trận quyết chiến chiến lược còn mang ý nghĩa lịch sử ở chỗ: Đây là đòn phối hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao rất nhịp nhàng, đúng lúc và hiệu quả. Tháng 11 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn báo Thụy Điển "Expressen", đưa ra khả năng đàm phán ngoại giao để giải quyết cuộc chiến tranh. Tháng 1 năm 1954, hội nghị bốn nước lớn họp tại Berlin quyết định triệu một hội nghị quốc tế tại Geneva vào ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn việc giải quyết vấn đề Triều Tiên và cuộc chiến tranh Đông Dương. Một sự tình cờ thú vị, theo lịch trình, hội nghị Geneva bàn về chiến tranh Đông Dương sẽ họp vào ngày 8 tháng 5 năm 1954, thì chiều ngày 7 tháng 5, quân và dân ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo điều kiện rất thuận lợi cho cuộc đàm phán. Quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và giành được thắng lợi vang dội trong chiến dịch đó sau 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh, còn là một đòn đánh mang tính quyết định vào ý đồ của Chính phủ Pháp ở Paris và Bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương hòng giành một thắng lợi quân sự để bước vào đàm phán trên thế mạnh, rút ra khỏi cuộc chiến tranh hao người, tốn của "trong danh dự". Quyết định lịch sử mở chiến dịch Điện Biên Phủ là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố: Sự lãnh đạo chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, quyết đoán, kịp thời của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh; sự đồng tâm nhất trí, đoàn kết một lòng, dồn toàn lực cho chiến thắng ở giai đoạn cuối cuộc kháng chiến. Đường lối kháng chiến: toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình và lâu dài của Đảng đã được thể hiện rõ ràng nhất, có sức thuyết phục nhất bằng quyết định lịch sử này.TTXVN/Tin tức
Chiến thắng Điện Biên Phủ - biểu tượng của chiến tranh nhân dân
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Thượng tướng Nguyễn Thành Cung, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã có bài viết "Chiến thắng Điện Biên Phủ biểu tượng của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh". Báo Tin Tức trân trọng giới thiệu bài viết.
Chia sẻ:
Từ khóa:
- Điện Biên Phủ,
- chiến dịch,
- quyết định lịch sử,