Vì sao hồ quy ly cho phát hành tiền giấy mà không ghi tên niên hiệu vua?

NHÀ HỒ tồn tại từ năm 1400 đến năm 1407 truyền được 2 đời vua : Quốc hiệu : ĐẠI NGU.

Kinh đô : Tây đô.

1. Hồ Quí Ly – Lê Quý Ly [1400-1401]
Niên hiệu : Thánh Nguyên.

Lê Quý Ly soán ngôi nhà Trần, tự xưng làm vua, đổi lại họ Hồ, đặt tên nước là Đại Ngu. Hồ Quý Ly làm vua chưa được 1 năm thì nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương để làm Thái Thượng Hoàng cùng coi việc nước.

Biết Trung Hoa lúc nào cũng dòm ngó nước ta nên Hồ Quý Ly chỉnh đốn việc võ bị, lập sổ hộ để thêm quân số tại ngũ, chế tạo khí giới, đóng thêm thuyền chiến có sàn, lính chiến ở trên, dưới sàn có người chèo, ra luật giới hạn điền sản, giới hạn nô tì, phát hành tiền giấy, thu gom tiền đồng để đúc vũ khí, định lại thuế má và việc học hành thi cử…

Dù đối với lịch sử, Hồ Quí Ly mang tiếng người tham vọng nhiều mưu mô thâm độc, đã cướp đoạt ngôi vua nhà Trần, nhưng dưới chế độ yếu hèn và đói khổ, dân chúng khao khát sự cải cách và Hồ Quý Ly đã làm được việc đó, chỉ tiếc ông ta là người có tài nhưng thiếu thủy chung.

2. Hồ Hán Thương [1401-1407]

Niên hiệu : Thiệu Thành và Khai Đại. Thời Hồ Hán Thương mọi việc vẫn do Hồ Quý Ly định đoạt. Năm 1402, Quý Ly sai quân đánh Chiêm Thành, Chiêm thua nên phải nhượng đất Chiêm Động và Cổ Lũy thuộc địa phận Quảng Nam, Quảng Ngãi bây giờ. Quý Ly cho dân vào đó lập nghiệp, Hồ Quý Ly có nhiều sáng kiến nhưng với thời buổi mà người dân còn trung thành với sự Hiếu Nghĩa, Trung Quân thì những sự cải cách táo bạo đó gặp nhiều phản ứng : – Luật giới hạn điền sản, nô tì gây bất mãn không riêng gì các chủ điền trang họ Trần mất đất, mất nô tì mà cả nô tì đang sống đời phục vụ cho lãnh chúa trong trang trại này bị ngỡ ngàng với cuộc sống mới, mất vị thế quen thuộc. – Cho di dân vào đất Quảng để lập nghiệp bị người còn hướng về nhà Trần oán thán vì cho là bị bắt buộc rời bỏ quê hương. – Cải cách việc phát hành tiền giấy, thu hồi tiền đồng … coi như một cuộc cách mạng kinh tế, tài chánh … – Lập kho Thường Bình ở các phủ, lộ để điều hòa giá cả thóc lúa.

Nhà Hồ làm vua không được dân chúng tích cực ủng hộ nên năm 1407, có Trần Thiêm Bình xưng là con Trần Nghệ Tông sang Trung Quốc cầu cứu được cho 5.000 quân đưa về đến địa phận Chi Lăng, Trần Thiêm Bình bị Hồ Quý Ly cho quân chặn giết.

Vua nhà Minh bên Trung Hoa muốn chiếm nước ta bèn giả vờ sang phò Trần, diệt Hồ. Năm 1407, Hồ Quý Ly bị quân Minh đánh tan ở Hàm Tử Quan phải chạy vào Thanh Hóa. Quân Minh đuổi theo đến huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh thì bắt được Hồ Quý Ly cùng Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng là con lớn của Quý Ly.

ĐỒNG TIỀN THỜI NHÀ HỒ

Thật ra việc phát hành THÔNG BỬU HỘI SAO [tiền giấy] do Hồ Quý Ly đề xướng từ trước không phải đợi đến lúc soán ngôi lập ra nhà Hồ mà đã có từ năm 1379, dưới thời Trần Nghệ Tông, vì lúc đó Hồ Quý Ly đã điều khiển mọi việc trong triều. Vì sợ Chiêm Thành cướp phá kinh đô, tháng 9 năm 1379, vua Trần Nghệ Tông sai quân lính tải tiền đồng giấu trong núi Thiên Kiện gần kinh thành rồi vẫn chưa an tâm lại sai đem giấu tận Lạng Sơn. Chẳng may, khi thắng được quân Chiêm, vua Trần sai đến chỗ giấu tiền để đào thì núi đá bị sập kín lấp cửa động và không còn thể nào tìm được địa điểm. Tiền chôn hẳn là khá nhiều mà không tìm ra tất nhiên triều đình phải lâm vào thế quẫn bách phải nghe theo lời Hồ Quý Ly phát hành TIỀN GIẤY để thay thế.

Việc phát hành THÔNG BỬU HỘI SAO thực hiện vào năm 1396, có ghi trong chính sử : “Mùa Hạ, tháng 4 năm Bính Tí, niên hiệu Quang Thái thứ 9 [1396] bắt đầu phát hành tiền giấy Thông Bửu Hội Sao. Ai làm tiền giả phải tội tử hình và bị tịch thu tài sản. Ai có một quan tiền đồng được đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy. Tiền đồng phải đem nộp kho để đổi, ai giấu giếm và mang ra tiêu dùng sẽ bị tội như làm tiền giả”. Theo đó có 7 hạng tiền giấy :

– Giấy vẽ rêu bể : ăn 10 đồng. – Giấy vẽ sóng nước : 30 đồng – Giấy vẽ đám mây : 1 tiền [69 đồng] – Giấy vẽ con qui : 2 tiền – Giấy vẽ con lân : 3 tiền – Giấy vẽ con phượng : 5 tiền

– Giấy vẽ con rồng : 1 quan

Vì sử ghi chép quá sơ lược nên ta không rõ tờ giấy có cỡ lớn nhỏ thế nào và hình vẽ là nền cho cả tờ bạc hay chỉ vẽ trang trí một phần thôi. Hồ Quý Ly còn tung tiền giấy cho các phủ, lộ để thu mua thóc lúa theo thời giá. Có thể hình thức như thế này :

Đời nhà Tống – Trung Hoa, năm 965 đã dùng GIAO TỬ [một loại giấy chứng chỉ] thay tiền. Tiền giấy coi như xuất hiện nhưng vẫn hạn chế trong phạm vi giữa các tư nhân. Đến năm 1023, triều đình Trung Hoa dành quyền phát hành tiền giấy gọi là QUAN GIAO TỬ. Đến triều Minh, tiền giấy phát hành càng nhiều nhưng tiền Trung Hoa đều có quý kim hay quý vật để làm chuẩn. Trong khi ở nước ta, từ trước các tiền đồng đúc trong xứ mang niên hiệu vua nước Đại Việt để xác nhận chủ quyền chứ không đủ tiêu dùng nên người trong nước vẫn còn tiêu dùng một số lớn tiền mang niên hiệu các nước đồng văn để trao đổi mua bán.

Khi Hồ Quý Ly thay thế tiền đồng bắt dân chúng dùng tiền giấy không có một quý kim hay quý vật nào bảo đảm cho tiền giấy. Sự đổi 1 quan 2 tiền giấy lấy 1 quan tiền đồng chỉ là dụ cho dân thấy lợi chứ không phải là giá trị căn bản. Dân chúng đã quen với giá trị thực tế của tiền đồng do bản thân kim loại và tiền đồng có tính chất bền vững, dễ chôn giấu không hư nát. Dân chúng không ủng hộ nhưng luật lệ bắt buộc phải theo nên ta thán, vì thế khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly vẫn có đúc loại tiền mang niên hiệu của mình.

Có thuyết cho rằng Hồ Quý Ly cho đúc loại tiền THÁNH NGUYÊN THÔNG BỬU, chữ khắc theo lối cổ triện rất đẹp. Khi Hồ Hán Thương lên ngôi cho đúc loại tiền THIỆU NGUYÊN THÔNG BỬU.

Thánh Nguyên thông bửu*

Thiệu Nguyên thông bửu*

Tuy nhiên, về hai đồng tiền này cần có thời gian nghiên cứu thêm. Sau khi đánh bại nhà Hồ, nhà Minh liền đổi nước ta thành quận Giao Chỉ và vơ vét hết các tiền đồng của nước ta do nhà Hồ tịch thu trước đây. Hiện nay hiện vật rất hiếm hoi nên điều kiện để kiểm chứng và kết luận rất hạn chế.

Tác giả: Dung Dang

Nguồn : giadinh-numis.com
Những đồng đánh dấu * là hình mượn từ sách của D. Allan Baker


Khi nhắc tới nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly, chúng ta dễ hình dung tới hình tượng vị vua của cải cách, người đã ban hành nhiều thay đổi sâu rộng hòng cố gắng cứu đất nước trước họa xâm lăng phương Bắc. Ông và người con trai Hồ Nguyên Trừng có rất nhiều thành tựu lớn về kỹ thuật như đắp thành nhà Hồ ở Thanh Hóa, đúc súng thần cơ, cải cách y tế, giáo dục…. Nhưng có một thành tựu mà ngày nay nhiều người ca ngợi và lấy đó làm tự hào, coi ông là “nhà cách mạng lỗi lạc với tầm nhìn viễn siêu đi trước thời đại nhiều thế kỷ”, đó là khi ông phát hành tiền giấy vào năm 1396 thay thế tiền kim loại được lưu hành trong nước. Nhưng có thực là hành động phát hành tiền giấy của Hồ Quý Ly là một bước tiến vĩ đại của một tầm nhìn thế kỷ?

Muốn hiểu rõ và đánh giá cải cách của Hồ Quý Ly, chúng ta phải biết được lịch sử hình thành và phát triển của tiền giấy.

Vào thời kỳ đầu tiên khi con người bắt đầu biết giao thương với nhau, thì hình thức trao đổi rất đơn giản: vật đổi vật. Anh có cá, tôi có heo, tôi thích cá kho, anh thèm thịt nướng, vậy thì ta đổi cho nhau

Hình thức giao thương đơn giản nhất: vật đổi vật

Nhưng mà, hệ thống này có nhiều vấn đề và chỉ thích hợp cho xã hội đơn giản. Ví dụ, nhà chúng ta có thịt heo, chúng ta mang đổi cho người hàng xóm khác có vải, nhưng khổ nỗi người này không muốn ăn thịt, mà lại muốn ăn cá. Thế là ta phải đi qua nhà người có cá, đổi lấy cá, rồi đem qua đổi lấy vải. Hãy tưởng tượng việc này thiếu hiệu quả và phiền phức như thế nào, đặc biệt là khi sức lao động của bạn tạo ra những thứ…chẳng ai muốn, như việc dạy học chẳng hạn. Nếu bạn là một thầy đồ thời cổ thì chả lẽ bạn dạy bà bán cá chữ Tàu để mua cá?


Vì thế nên con người phải sáng tạo ra một hệ thống trung gian để trao đổi, và từ đó, tiền ra đời. Tiền có thể là bất cứ thứ gì, miễn sao mọi người chấp nhận nó là vật trung gian và tin vào giá trị của nó. Tiền có thể là lúa gạo, là ngũ cốc, thậm chí là cả vỏ sò. Nhưng phổ biến nhất trong lịch sử có lẽ chính là kim loại quý: vàng, bạc, đồng… Vàng khó làm giả, ít hư hao qua thời gian, có thể chia nhỏ dễ dàng, và được chấp nhận là thứ quý giá ở nhiều nơi. Từ đó, người nuôi heo có thể bán heo của họ cho người cần thịt, đổi lấy tiền [vàng, bạc, đồng] rồi dùng tiền đó để mua thứ người đó cần.

Thế thì từ khi nào người ta lại tin tưởng tờ giấy lộn đáng giá chỉ có mấy đồng xu?

Các thương gia nhà Đường là những người đầu tiên sử dụng "tiền giấy"

Nhiều nhà sử học cho rằng hình thức tiền giấy đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc dưới vương triều nhà Đường. Khi đó, các thương gia Trung Hoa cảm thấy việc vận chuyển tiền đồng trên đường buôn bán vừa bất tiện vừa gặp nguy cơ bị cướp, nên họ đã sáng tạo ra một hệ thống ký gửi tiền tệ. Thương nhân A ở Quảng Châu sẽ gửi tiền đồng cho một người đại diện hệ thống ở Quảng Châu, nhận lại một tờ giấy ký gửi ghi rõ thông tin và số tiền, sau đó ra Bắc Kinh shopping. Khi mua hàng, thương nhân A đó sẽ đưa tờ phiếu đó cho thương nhân B, và thương nhân B có thể rút lượng tiền đồng đó từ hệ thống tương tự. Dần dần, hệ thống này được nhân rộng ra trong giới thương gia, quý tộc, và quan lại, và lần đầu tiên một tờ giấy lộn có thể có giá trị bằng một lượng lớn tiền vàng, bạc và đồng. Marco Polo, một thương nhân và nhà thám hiểm người Ý, đã rất kinh ngạc khi chứng kiến hệ thống này dưới thời nhà Nguyên:

…bất kì ai cũng có thể đi khắp các xứ chư hầu của Đại Hãn và biết chắc rằng ngân phiếu của mình được chấp nhận, và có thể dùng để giao thương mua bán mọi loại hàng hóa như thể tờ giấy ấy chính là tiền vàng. [Marco Polo]

Xuôi theo bước chân của Marco Polo trên con đường tơ lụa, hệ thống tương tự dần xuất hiện ở các ngân hàng Âu châu. Một thương gia người Anh có thể bỏ vàng vào Ngân hàng Luân Đôn, lấy một tấm ngân phiếu do ngân hàng này phát hành, rồi qua Pháp giao dịch. Thay vì trả bằng tiền, anh ta đưa tờ ngân phiếu này cho thương gia Pháp. Và chính thương gia người Pháp này, vì lười phải tới Ngân hàng Luân Đôn để đổi, nên khi sang Đức mua hàng cũng đưa tờ ngân phiếu này cho bên Đức. Dần dần, các ngân hàng tư nhân nhận ra chuyện này, và họ tự phát hành “tiền” của họ, những tờ giấy lộn được bảo đảm giá trị bằng vàng trong két sắt của các ngân hàng. Đây được gọi là chế độ “bản vị vàng” – tiền đại diện cho một giá trị vàng nhất định, và bạn mang tờ tiền tới ngân hàng có thể đổi ra lượng vàng tương ứng. Sau này, chính phủ, thông qua các ngân hàng trung ương, phát hành tiền tệ quốc gia và đảm bảo cho giá trị của tiền thông qua cả vàng lẫn lòng tin vào các chính sách điều tiết của chính phủ.

Tiền của nhiều ngân hàng khác nhau phát hành ở Canada trước khi có Ngân hàng trung ương Canada. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở các nước phương Tây khác

Dựa theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, thì cải cách phát hành tiền giấy “Thông Bảo Hội Sao” của Hồ Quý Ly diễn ra vào năm 1396 như sau:

…tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng…..Cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ…. Khi tiền giấy đã in xong, hạ lệnh cho dân được đem tiền thực đổi lấy tiền giấy: cứ một quan tiền thực chất đổi lấy tiền giấy một quan hai tiền. [Đại Việt Sử ký Toàn thư]

Tờ tiền giấy "Thông Bảo Hội Sao"

Nhưng, kết quả mang lại là sự phản đối mạnh mẽ của người dân trong nước, nạn làm tiền giả tràn lan, dân chúng mất niềm tin vào nhà Hồ.

Bấy giờ, người buôn bán phần nhiều chê tiền giấy. Lại lập điều luật để xử tội không tiêu tiền giấy, bán giá cao, đóng cửa hàng, bao che giúp nhau. [Đại Việt Sử ký Toàn thư]

Một bộ phận học giả sử học và người đọc lịch sử, khi nhìn về quyết định phát hành tiền giấy của Hồ Quý Ly, thì cho rằng đây là một hành động mang tính “cách mạng”, mang lại sự tiện lợi cho người dân, không phải mang tiền đồng phiền phức, dồn đồng đúc súng để bảo vệ đất nước. Còn người dân, do không chấp nhận sự thay đổi quá mau lẹ này, và chưa nhận ra tiện lợi do tiền giấy mang lại, nên mới phản đối.

Nhưng chỉ cần nhìn lại lịch sử tiền giấy thế giới, ta nhận ra một điều: hành động của Hồ Quý Ly mang tính chất khá cực đoan, cưỡng ép, dùng chất liệu giấy để tạo ra tiền tệ mới trong khi chưa được sự tín nhiệm của người dân. Trong khi đó, Âu châu và Trung Quốc lại phải trải qua quá trình mấy trăm năm, phổ biến dần từ tầng lớp thương gia, quý tộc xuống tới quần chúng, và được đảm bảo niềm tin bằng tiền kim loại. Không phải chỉ vẽ ra mất tờ giấy in rồng in phượng rồi nói rằng đó là tiền thì đại chúng sẽ chấp nhận đó là tiền. Giấy so với kim loại là một chất liệu rất kém bền, người dân bỗng nhiên thấy tiền kim loại của họ bị đổi ra một mớ giấy dễ mục ướt, làm sao họ có thể chấp nhận. Có thể nói ở thời nhà Hồ thì chưa chắc sử dụng tiền giấy sẽ thuận lợi hơn sử dụng tiền đồng.

Ngoài ra, vấn đề nghiêm trọng nhất là người dân không hề tin vào GIÁ TRỊ của tờ tiền “Thông Bảo Hội Sao”. Vàng, bạc, đồng là kim loại quý hiếm, hữu hạn, được công nhận rộng rãi, nên dù có đem chôn dưới đất cả chục năm thì vẫn có giá trị, và không phải lúc nào muốn cũng có thể đúc tiền mới. Hay như tiền giấy ngày nay có vàng làm cơ chế đảm bảo, cùng với niềm tin vào chính phủ và các cơ chế kiểm soát việc in tiền, nên người dân có niềm tin vào đồng tiền. Còn tiền “Thông Bảo Hội Sao” của nhà Hồ thì không hề có cơ chế tương tự, không có một ai đảm bảo triều đình sẽ không in tiền hàng loạt, cũng như việc kiểm soát việc làm giả là rất khó khăn ở thế kỷ 14. Chưa kể, Hồ Quý Ly lại ra lệnh 1 quan tiền đồng đổi 1 quan 2 tiền giấy, dù đặt trường hợp triều đình “trung thực” không in dư tiền, thì tương đương với việc bơm một lượng 20% tiền dư vào nền kinh tế, dễ dàng gây nên tình trạng lạm phát và rối loạn trong giao thương.

Các nhà sử học hiện đại có một số phán đoán về hành động của Hồ Quý Ly. Ông phải lãnh đạo nước Việt trong một giai đoạn khó khăn sau khi nhà Trần đã suy sụp, đất nước rối loạn, giặc giã triền miên, các thế lực trung thành với tiền triều liên tục chống đối, trong khi nhà Minh đang dòm ngó từ phương Bắc. Giả thiết phổ biến chính là ông cần phải gom đồng đúc súng thần công để phục vụ cho công việc phòng thủ đất nước, nên cần phải tận dụng mọi nguồn đồng trong nước. Nhưng giả thiết này cũng bị một số học giả phản bác vì có nhiều bằng chứng cho thấy Hồ Quý Ly sau khi phát hành tiền giấy có phát hành hạn chế tiền đồng “Thánh Nguyên Thông Bảo”.

Đồng tiền "Thánh Nguyên Thông Bảo"

Giả thiết thứ hai chính là Hồ Quý Ly muốn phát hành tiền giấy để có nguồn lực tài chính ngay lập tức để tập trung quyền lực và tăng cường khả năng quốc phòng cho đất nước. Việc đúc thêm tiền kim loại là rất khó khăn, chưa kể là trước đó một lượng lớn tiền đồng đã bị nhà Trần vơ vét, giấu trong núi nhưng bị thất lạc do lở núi và loạn giặc Chiêm Thành. Phát hành tiền giấy có thể ngay lập tức tạo ra một lượng tiền khổng lồ, dù hậu quả là lạm phát nghiêm trọng và rối loạn giao thương.

Hồ Quý Ly là một ông vua yêu nước, có nhiều cải cách và hoài bão, dù lịch sử đã không chọn ông. Tuy nhiên, chúng ta cần phải có một cái nhìn nhiều phía về cải cách tiền giấy của ông, chứ không phải tự huyễn hoặc cho rằng đó là một bước tiến trước thế giới nhiều thế kỷ. Đúng sai của cải cách Hồ Quý Ly, chỉ khi tìm hiểu thấu đáo, ta mới có thể tự rút ra được một đánh giá khách quan.

Tìm hiểu về kinh tế học - Phần I: Niềm tin và nợ công - Huskywannafly

Tiền thật, tiền giấy, và chuyện về Hồ Quý Ly - Phạm Hải Vũ

Video liên quan

Chủ Đề