Vì sao văn tiến dũng không được đặt tên đường năm 2024

Văn Tiến Dũng (2 tháng 5 năm 1917 – 17 tháng 3 năm 2002), bí danh Lê Hoài, là một vị Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1953 – 1978), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1980 – 1986), Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (1984 – 1986), một trong những tướng lĩnh danh tiếng của Việt Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, ông trực tiếp tham gia chỉ đạo các chiến dịch Đường 9 – Nam Lào (năm 1971), chiến dịch Trị – Thiên ( năm 1972), Chiến dịch Tây Nguyên (năm 1975). Tháng 4 năm 1975, ông giữ chức Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định (sau đổi tên thành Chiến dịch Hồ Chí Minh).

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Đại tướng Văn Tiến Dũng còn có bí danh là Lê Hoài, sinh ngày 2 tháng 5 năm 1917 tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm (nay là các phường Cổ Nhuế 1 và Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm), Hà Nội. Nhà nghèo, không ruộng đất, mẹ mất sớm, cậu bé họ Văn theo cha ra Hà Nội. Sau khi cha đột ngột qua đời vào năm cậu được 15 tuổi, Văn Tiến Dũng đành phải bỏ học, ở nhà trợ giúp cho anh làm nghề thợ may. 17 tuổi, Văn Tiến Dũng lại ra Hà Nội làm công cho các xưởng dệt Thanh Văn (Hàng Đào), sau chuyển sang xưởng Đức Xương Long, Cự Chung (Hàng Bông).

Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 năm 1937. Từ 1939 đến 1944, ông bị thực dân Pháp bắt giam 3 lần, vượt ngục 2 lần. Tháng 11 năm 1939, ông bị Pháp đày đi nhà tù Sơn La. Hai năm sau, trên đường bị địch áp giải từ Sơn La về Hà Nội, ông đã trốn thoát.

Từ tháng 12 năm 1942 đến tháng 3 năm 1943, ông đã hoạt động dưới danh nghĩa nhà sư tại Chùa Bột Xuyên (nay thuộc huyện Mỹ Đức, Hà Nội). Ông từng đảm nhiệm chức vụ Bí thư Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ năm 1944.

Chính trong thời kỳ này, ông đã làm quen với Nguyễn Thị Kỳ (tên khai sinh là Cái Thị Tám) cùng hoạt động cách mạng và sau đó họ đã trở thành vợ chồng.

Tháng 1 năm 1945, ông bị chính quyền thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt.

Tháng 4 năm 1945, ông được cử làm Ủy viên Thường vụ Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ (Bộ Tư lệnh Quân sự miền Bắc Đông Dương), được phân công phụ trách tổ chức Chiến khu Quang Trung, kiêm Bí thư Khu uỷ Chiến khu Quang Trung. Tháng 8 năm 1945, ông chỉ đạo vũ trang giành chính quyền ở các tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình và Thanh Hoá.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được giao nhiệm vụ lập chiến khu II (gồm 8 tỉnh phía tây bắc và tây nam Bắc Bộ), làm Chính uỷ Chiến khu, tham gia Quân ủy Trung ương. Ngày 20/11/1946 ông làm Phó Cục trưởng Cục Chính trị. Tháng 12 năm 1946, ông là Cục trưởng Cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam (nay là Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam), Phó bí thư Quân uỷ Trung ương. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông từng là Đại đoàn trưởng kiêm Chính uỷ Đại đoàn 320.

Từ tháng 11 năm 1953 đến tháng 5 năm 1978, ông giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, chỉ gián đoạn một thời gian ngắn vào năm 1954, khi ông làm Trưởng đoàn đại biểu của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ủy ban Liên hiệp đình chiến thi hành Hiệp định Genève về Đông Dương.

Ông được giao trọng trách chỉ đạo trực tiếp nhiều chiến dịch lớn: từ chiến dịch Đường 9 – Nam Lào (1971), Trị – Thiên (1972), Chiến dịch Tây Nguyên (1975). Tháng 4 năm 1975, ông giữ chức Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định (sau đổi tên thành Chiến dịch Hồ Chí Minh).

Từ tháng 5 năm 1978 đến năm 1986, ông được giao nhiệm vụ làm Phó Bí thư thứ nhất, rồi Bí thư Quân ủy Trung ương. Từ tháng 2 năm 1980 đến 1986, ông giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng.

Năm 1986, do không được bầu vào Bộ Chính trị nên phải rời cương vị Bộ trưởng Quốc phòng.

Ông lâm bệnh nặng và từ trần hồi 17h30' ngày 17/3/2002 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 ở Hà Nội, hưởng thọ 85 tuổi, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.

Khen thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Ông đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam trao tặng nhiều phần thưởng cao quý:

Lịch sử thụ phong quân hàm[sửa | sửa mã nguồn]

Năm thụ phong 1948 1959 1974 Cấp bậc Thiếu tướng Thượng tướng (thăng vượt cấp) Đại tướng

Tưởng nhớ[sửa | sửa mã nguồn]

Hà Nội có đường mang tên ông đoạn nối quốc lộ 32 và Liên Xã. Ngoài ra, tên ông còn được đặt cho một con đường ở Đà Nẵng (trên địa bàn phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ), ở thành phố Sơn La, ở Huế và ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM vừa có báo cáo gửi UBND TP.HCM, về việc đặt tên đường mang tên các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Theo đó, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM đã rà soát tên các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã từ trần và dự kiến đề xuất đặt tên trong thời gian tới.

Trong đó, Sở có đề xuất đặt tên đường theo tên của cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh và cố Đại tướng Văn Tiến Dũng trong thời gian tới. Tên của cố Đại tướng Văn Tiến Dũng đã được bổ sung vào ngân hàng tên của thành phố. Còn tên cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh đang thực hiện quy trình đề xuất bổ sung vào ngân hàng tên của thành phố.

Vì sao văn tiến dũng không được đặt tên đường năm 2024

TP.HCM đang xây dựng phương án đặt tên đường theo tên cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh và cố Đại tướng Văn Tiến Dũng. Ảnh: Quang Sung

Thời gian tới, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM cũng rà soát và đề xuất thêm tên các vị lãnh đạo đã từ trần và có cống hiến cho đất nước để đặt tên các tuyến đường. Hiện nay, tại TP.HCM đã có tên đường Lê Trọng Tấn và đường Trần Văn Trà, được đặt theo tên của hai vị tướng có công lớn với đất nước.

Đường Lê Trọng Tấn được đặt từ năm 1999. Tuyến đường này nằm tại quận Tân Bình, có chiều dài 4,3km, lộ giới 30m. Đường Trần Văn Trà được đặt tên từ năm 2002. Tuyến đường nằm tại Khu A Nam Sài Gòn, có chiều dài hơn 1,9km.

Trước đó, ngày 8/3/2023, Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi tên đường và công trình công cộng trên địa bàn TP.HCM đã họp cho ý kiến về việc đổi Xa lộ Hà Nội đoạn từ cầu Sài Gòn đến ngã tư Thủ Đức, trên địa bàn TP.Thủ Đức, thành đường Võ Nguyên Giáp, với sự có mặt của 12/18 thành viên.

Kết quả có 12/12 (100%) thành viên Hội đồng tham dự đồng ý với đề xuất trên.

Đoạn đường dự kiến đổi tên thành đường Võ Nguyên Giáp có chiều dài gần 7,8km. Trong đó, đoạn từ cầu Sài Gòn đến ngã tư Bình Thái có chiều dài 5,9km, đoạn từ ngã tư Bình Thái đến ngã tư Thủ Đức có chiều dài gần 1,9km.