Bao nhiêu người đã đi lưu đầy trong kinh thánh
VietChristian tinhuu.com
Tìm thêm Bài Học Kinh Thánh trong Giô-ên 3, Giê-rê-mi 23. Tìm thêm các tài liệu khác trong Giô-ên 3, Giê-rê-mi 23. Website, Sống Với Thánh Kinh. Trang Chủ | Bài Học Kinh Thánh @ svtk.net VietChristian | YouTube Ở Phương Đông Cổ Đại, việc lưu đày rất thường được sử dụng để chống lại các dân tộc bị đánh bại (x. Am 1). Từ năm 734, một số thành thị của vương quốc Israel đã trải qua kinh nghiệm lưu đày gian khổ (2 V 15,29), sau đó, năm 721, thì cả vương quốc này (2 V 17,6). Nhưng những cuộc đi đày ghi dấu ấn lịch sử nhất lên dân tộc của Giao Ước là những cuộc đi đày do Na-bu-cô-đô-nô-xo gây ra, chúng nảy sinh từ những chiến dịch của ông chống lại Giuđa và Giêrusalem vào các năm 597, 587, 582 (2 V 24,14; 25,11; Gr 52,28…). Chính những cuộc đi đày này ở Babylon mà cái tên Lưu Đày được lưu truyền. Hoàn cảnh sống của những người bị đày không phải lúc nào cũng cơ cực, nó giảm bớt dần với thời gian (2 V 25,27-30), nhưng con đường trở về thì luôn bị khóa chặt. Để mở con đường này thì phải đợi Babylon sụp đổ và chiếu chỉ của vua Ky-rô (2 Sb 36,22). Cả thời kỳ dài thử thách này có một tầm ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống tôn giáo của Israel. Thiên Chúa đã tự tỏ bày cho Israel qua sự thánh thiện và sự trung thành luôn mãi của Ngài.
Vườn nho của Giavê bị biến thành một bãi khô héo nên đã bị phá phách và bứng gốc (Is 5); người đàn bà ngoại tình bị lột bỏ các trang sức và bị trừng phạt nặng nề (Hs 2; Ed 16,38); dân chúng cứng đầu và bất trị thì bị đuổi khỏi đất của họ và bị phân tán vào giữa các dân (Đnl 28,63-68). Hình phạt nghiêm khắc cho thấy tội lỗi nặng nề; dân chúng không còn thể nào giữ lấy ảo tưởng, cũng không tạo hình ảnh tốt đẹp trước mặt dân ngoại nữa: “Đối với chúng tôi, hôm nay thật là hổ ngươi bẽ mặt” (Ba 1,15).
II. LƯU ĐÀY, THỬ THÁCH NHIỀU Bị rời khỏi Đất Thánh, bị lấy đi Đền Thờ và mất tín ngưỡng, những người bị lưu đày đã có thể hoàn toàn tin rằng Thiên Chúa bỏ rơi họ và họ dần lún sâu vào sự tuyệt vọng chết người (Ed 11,15; 37,11; Is 49,14). Thực tế thì ngay chính lúc thử thách, Thiên Chúa vẫn hiện diện đó và sự trung thành tuyệt vời của Ngài đã cố vực dậy dân Ngài.
Trong số những người bị lưu đày, Thiên Chúa đã chọn lấy những người nối nghiệp họ sẽ dẫn dắt và nâng đỡ dân giữa muôn vàn thử thách. Chiến thắng các đạo binh ngoại bang dường như là chiến thắng các thần của chúng; cám dỗ lớn nhất là để bị tín ngưỡng của người Babylon quyến rũ. Nhưng truyền thống các tiên tri đã dạy cho những người bị lưu đày coi thường các tượng thần (Gr 10; Is 44,9…; x. Ba 6). Còn hơn thế nữa: Êdêkien, một tư tế bị đày, đã lãnh nhận những thị kiến lớn lao nơi mặc khải về “tính năng động” của Giavê, đó là vinh quang của Ngài không bị khép kín trong Đền Thờ (Ed 1) và sự hiện diện của Ngài là ngôi thánh điện vô hình dành cho những người bị lưu đày (Ed 11,16).
Tránh xa không để bị tiêm nhiễm bởi các tượng thần, Israel mới này đã trở thành vị thẩm phán của Thiên Chúa thật nơi vùng đất dân ngoại. Khi bắt đầu ơn gọi là “ánh sáng muôn dân” (Is 42,6; 49,6), Israel cũng hướng tới hy vọng về một vương quốc phổ quát của Giavê thời cánh chung (Is 45,14).
Thật vậy, năm 538, sắc chỉ của vua Ky-rô được ban bố. Lòng hăm hở phấn khởi trỗi dậy nơi những người Do thái nhiệt thành; nhóm những người tình nguyện quan trọng, “những người thoát khỏi giam cầm” (Et-ra, 1-4) quay trở về Giêrusalem; họ có ảnh hưởng quyết định đến việc tổ chức cộng đoàn Do thái và định hướng thiêng liêng cho cộng đoàn. Giữa rất nhiều những khó khăn thì đây là một sự hồi sinh của dân tộc (x. Ed 37,1-14), là lời chứng tuyệt vời về lòng trung thành của Thiên Chúa được ca vang vui tươi trước sự ngỡ ngàng của muôn dân (Tv 126).
|