Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh Tiếng Anh

Là một trong những quốc gia suốt chiều dài lịch sử trải qua nhiều cuộc chiến tranh giữ nước và giải phóng dân tộc, nên Việt Nam luôn đặc biệt thấu hiểu hai tiếng “nhân quyền” và luôn luôn quan tâm đến vấn đề nhân quyền gắn với công bằng và an sinh xã hội.

Hiến pháp nước ta quy định: "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân"

Ngay sau khi giành độc lập, trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm vấn đề nhân quyền gắn với công bằng và tiến bộ xã hội bằng những chủ trương, chính sách, nghị quyết và được Nhà nước cụ thể hóa bằng các quy định trong Hiến pháp cũng như các văn bản pháp quy.

Cụ thể, trong các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước từ trước đến nay, quyền con người và pháp luật về quyền con người là nội dung rất quan trọng, được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực quốc tế.

Hiến pháp năm 2013 bao gồm 11 chương, 120 điều, trong đó riêng Chương II có 36 điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đồng thời, các nội dung liên quan đến quyền con người không chỉ được quy định trong Chương II mà còn được đưa vào các chương khác của Hiến pháp, tạo cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người được thụ hưởng, thực hiện và bảo vệ quyền con người của mình.

Hiến pháp năm 2013 quy định bản chất quyền lực của Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân"; Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Điểm đáng chú ý là khi quy định quyền con người, quyền công dân, các điều của Hiến pháp xác định rõ “mọi người có quyền”, “công dân có quyền” để khẳng định tính pháp lý của các quyền được Hiến pháp thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Và để bảo đảm quyền con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống pháp luật về quyền của con người cũng đã được bổ sung, hoàn thiện như việc ban hành Luật Báo chí; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An ninh mạng…

Mọi công dân đủ 18 tuổi đều có quyền, nghĩa vụ đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp.

Chính về đề cao vấn đề nhân quyền và quyền con người, mà suốt những thập kỷ qua, Việt Nam đã tham gia hầu hết các Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, ký ngày 24/9/1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, ký ngày 18/12/1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, ký ngày 19/3/1982; Công ước về quyền trẻ em, ký ngày 20/2/1990; Công ước về quyền của người khuyết tật, ký ngày 22/10/2007; tham gia trong việc thành lập Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền, ký ngày 23/10/2009, Ủy ban thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em ASEAN [ACWC], ngày 7/4/2010...

Nhờ thực thi hiệu quả và luôn chú trọng vấn đề nhân quyền gắn sự công bằng và tiến bộ xã hội mà Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng về mọi lĩnh vực của đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội. Nhìn lại những gì đang diễn ra, dù vẫn còn phải hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật để làm tốt hơn vấn đề nhân quyền, nhưng chúng ta có thể khẳng định Việt Nam là quốc gia đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng bao trùm mọi vấn đề của nhân quyền..

Đến nay Việt Nam là thành viên có trách nhiệm của đa số tổ chức lớn trên thế giới. Và nhờ thực thi tốt vấn đề nhân quyền, Việt Nam được tín nhiệm là thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ [nhiệm kỳ 2014 - 2016].

Tại khóa họp lần thứ 73, tại trụ sở LHQ vào ngày 7/6/2019, Đại hội đồng LHQ đã bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần tuyệt đối [192/193 phiếu]. Mới đây, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an LHQ trong tháng 1 và tháng 4 năm 2021 với nhiều dấu ấn, đóng góp, trong đó có vấn đề bảo đảm quyền con người trước đại dịch Covid-19 được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao và thể hiện uy tín, vị thế quốc tế ngày càng tăng của Việt Nam.

Để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, pháp luật Việt Nam quy định mọi cá nhân đều có quyền tham gia tôn giáo của mình; mọi tổ chức tôn giáo đều có quyền hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đúng với quy định pháp luật. Chính vì thế, ở Việt Nam mọi tôn giáo đều bình đẳng như nhau. Cạnh đó, về quyền công dân, công dân đủ 18 tuổi đều có quyền và nghĩa vụ về chính trị đó là bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

Ở góc độ bình đẳng giới, Việt Nam luôn nêu cao vai trò của phụ nữ. Và thực sự trong tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xac hội ở đâu cũng có phụ nữ. Từ cơ quan Đảng, đến cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức, chính trị xã hội tỷ lệ bao giờ cũng tương đương tỷ lệ nam. Việt Nam là nước có tỷ lệ lãnh đạo nữ nhiều nhất thế giới. Đồng thời, phụ nữ cũng là lực lượng chính tong vận hành và quản lý doanh nghiệp.

Đặc biệt, đến nay, Việt Nam không chỉ là một trong sáu quốc gia thành viên LHQ đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ trước thời hạn năm 2015 mà còn được xem là tấm gương điển hình của cộng đồng quốc tế trong thực hiện mục tiêu phát triển bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau của LHQ.

Cụ thể, với phương châm “không ai bị bỏ lại phía sau”, Đảng, Nhà nước đã đề ra các chủ trương, chính sách để tạo công bằng và thụ hưởng trong xã hội giữa các đối tượng trong xã hội và các vùng miền gắn với công tác an sinh xã hội.

Tổ chức Công đoàn Thủ đô ngoài thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi, chính đáng, hợp pháp của người lao động còn góp phần làm tốt công tác an sinh xã hội.

Trên bình diện y tế, giáo dục và an sinh xã hội, đến thời điểm hiện tại, Việt Nam là quốc gia có độ “phủ” bảo hiểm y tế cao nhất khu vực. Ngoài bảo hiểm đối với người đang đi làm, Nhà nước còn có chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện để những người nông dân nông thôn, buôn bán nhỏ về già cũng có trụ cột lương hưu, đi khám, chữa bệnh có bảo hiểm thanh toán 80%, người già thanh toán 100% [trừ các bệnh không có trong danh mục bảo hiểm].

Ngay trong đợt dịch lần này, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách an sinh với số tiền lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng, góp phần giúp người dân và cộng đồng doanh nghiệp vượt qua khó khăn để ổn định cuộc sống; sản xuất - kinh doanh. Hệ thống giáo dục từ thôn bản đến vùng hải đảo xa xôi đều có bước phát triển vượt bậc. Từ hệ thống trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông phân bổ đều mọi nơi, giúp các cháu có điều kiện học tập, Nhà nước miễn học phí cho học sinh tiểu học.

Trên góc độ công nghệ và thụ hưởng internet, Việt Nam là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về số người sử dụng mạng internet và điện thoại thông minh với những loại hình trên không giạng mạng. Có thể khẳng định, dù một số tổ chức hay “rêu rao” vấn đề nhân quyền, nhưng Việt Nam là một trong những quốc gia mà người dân có quyền tự do lớn nhất trên không gian mạng. Điều này cho thấy, Việt Nam không có cái gọi là “tự do ngôn luận” như các thế lực thù địch rêu rao.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với phương châm “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Nhà nước của dân, do dân và vì dân”, vì mục tiêu: “Dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Việt Nam đã, đang và sẽ làm tốt hơn nội hàm “Bình đẳng - giảm bất bình đẳng, thúc đẩy nhân quyền” như chủ đề về nhân quyền mà LHQ đưa ra trong năm nay.

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐIỆN BIÊN
--------------------------------------------------------------------------------------
Chịu trách nhiệm nội dung: Ông Nguyễn Văn Đoạt- Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
Địa chỉ: 
Số 867, đường Võ Nguyên Giáp, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
Điện thoại: 02153 824 980 - 02153 831 439
Email: 

Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã phân tích, dẫn chứng làm rõ nhiều vấn đề về CNXH và con đường đi lên CNXH của nước ta rất khoa học, đầy đủ, toàn diện và thuyết phục; củng cố niềm tin sắt son cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về con đường đi tới tương lai của dân tộc ta; tiếp tục khẳng định “Đi lên CNXH là khát vọng của Nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Xã hội XHCN mà Nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Giảng viên Nguyễn Thị Duyên trình bày tham luận tại buổi tọa đàm bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” do Trường Chính trị tỉnh tổ chức. [Ảnh: Phan Nga]

Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh đến xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là một đặc trưng tổng quát của CNXH, là mục tiêu cụ thể trong từng bước đi và cũng là đích đến cuối cùng của công cuộc xây dựng CNXH nước ta.

“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là một chỉnh thể được cấu thành bởi 5 mục tiêu tồn tại trong mối quan hệ thống nhất. Đây là kết quả của quá trình kế thừa, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào tổng kết thực tiễn cách mạng, vào công cuộc đổi mới của Việt Nam.

Về mục tiêu “Dân giàu”

CNXH chỉ trở thành hiện thực khi chủ thể xã hội là người dân giàu có, sung túc về vật chất, là cơ sở để thỏa mãn nhu cầu tinh thần ngày càng đa dạng, phong phú. Thành tố thứ nhất trong đặc trưng này cũng là sự bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch khi họ cho rằng, CNXH “chia đều sự nghèo khổ cho người dân”. Việc xác định trên cũng là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của CNXH trong bối cảnh mới của thời đại. Vấn đề này, chính Hồ Chí Minh đã từng đề cập, khi Người cho rằng, “Nếu nước độc lập mà dân không hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[1]; “Mục đích của CNXH là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, trước hết là Nhân dân lao động”[2].

Vì vậy, trong bài viết của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã rất nhiều lần, nhấn mạnh đến mục tiêu của CNXH phải vì lợi ích của Nhân dân, đem lại hạnh phúc cho Nhân dân, như: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”; “chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”. “Xã hội XHCN là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người”.

Về mục tiêu “Nước mạnh”

Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi thân phận thuộc địa, khỏi tình cảnh nước nhược tiểu, vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu. Nhận thức rõ điều đó Đảng ta đã khẳng định: “Có CNXH, Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại, văn hóa khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh; do đó bảo đảm cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập tự do và ngày càng phát triển phồn vinh”[3]

Một quốc gia mạnh là mạnh cả về kinh tế, chính trị, văn hoá lẫn an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Đây là sức mạnh tổng hợp, mạnh trong việc xây dựng kinh tế phát triển, văn hoá phát triển, chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh vững chắc, mạnh trong việc nâng cao vị thế quốc tế của đất nước và dân tộc.

Và nước mạnh chỉ trở thành mục tiêu của CNXH khi “nước” là nước của Nhân dân, do Nhân dân làm chủ; khi nước mạnh là điều kiện để Nhân dân được hưởng hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc.

Về mục tiêu “Dân chủ"

Nếu như Văn kiện Đại hội X của Đảng, mệnh đề “công bằng” để trước mệnh đề “dân chủ” thì nay “dân chủ” được để trước “công bằng”. Sự điều chỉnh này về thực chất phản ánh chính xác hơn bản chất của chế độ ta bởi chế độ đó là chế độ dân chủ. Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[4]. Sự điều chỉnh trên đây cũng phù hợp thực tế khách quan bởi, một chế độ dân chủ, tất yếu sẽ có công bằng. Hơn nữa, trong bối cảnh mới của đất nước và thời đại, dân chủ là một trong những giá trị lớn mà nhân loại theo đuổi, nó vừa là mục tiêu, đồng thời là động lực phát triển của xã hội.

Trong bài viết của mình, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng cũng đã nhấn mạnh:“Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH; xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”.

Đặc biệt, việc xác định đặc trưng “Nhân dân làm chủ” còn là sự bác bỏ có căn cứ đối với các luận điệu của các thế lực thù địch khi cho rằng, chế độ ta không dân chủ, “là toàn trị”, là “chuyên chế”,..

Về mục tiêu “Công bằng”

Trong khi khẳng định công cuộc đổi mới là để CNXH được xây dựng đúng đắn và hiệu quả hơn thì phải thực hiện tốt nguyên tắc công bằng xã hội. Trong gian khổ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã căn dặn “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”. Mục tiêu của CNXH là xóa bỏ áp bức, bất công, và những cơ sở nảy sinh áp bức bất công. Công cuộc đổi mới phải thấm nhuần, hướng tới và làm cho được điều đó.

Dân giàu, nước mạnh mà thiếu công bằng sẽ gây ra bất công xã hội và bất bình xã hội. Từ đó, xã hội sẽ rất dễ hỗn loạn, xung đột và hậu quả là khó có thể trở thành một nước giàu mạnh thực sự. Hơn nữa, nếu một xã hội không có công bằng, thì chắc chắn sẽ khó có dân chủ. Dân chủ chỉ có thể hình thành trong một môi trường bình đẳng. Chính vì lẽ đó, xây dựng CNXH chính là xây dựng một môi trường công bằng và tiến bộ.

Chính vì vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không ít lần nhắc đến cụm từ “công bằng” trong bài viết của mình:“tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”; “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển”…

Về mục tiêu “Văn minh”

“Văn minh” được xem như một mục tiêu, tiêu chí của CNXH trong công cuộc đổi mới. Với tính cách đặc trưng của CNXH, nội dung khái niệm “văn minh” không chỉ là văn minh vật chất- kỹ thuật mà còn là văn minh tinh thần, không chỉ là văn minh trong quan hệ giữa người với thiên nhiên mà còn là văn minh trong quan hệ giữa người với người, văn minh trong tổ chức xã hội, văn minh trong chất lượng cuộc sống và lối sống. “Đó là nền văn minh của một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,”, nền văn minh của một xã hội do Nhân dân làm chủ. Nền văn minh XHCN ở Việt Nam là kết quả của sự kế thừa những thành tựu của văn minh nhân loại kết hợp với sự kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Xã hội XHCN phải là một xã hội hiện đại, văn minh, giàu bản sắc dân tộc”[5].

Như vậy, “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là những mục tiêu không tách rời nhau, bổ sung cho nhau, mục tiêu này làm cơ sở, điều kiện, tiền đề cho mục tiêu kia. Đó là những mục tiêu lâu dài, những giá trị bền vững, từng bước được hiện thực hóa trong quá trình đổi mới đất nước trên con đường XHCN ở nước ta. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đại hội XIII đã khẳng định, Cả dân tộc Việt Nam đang hòa nhịp vào dòng chảy của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế với “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN”[6].

Khát vọng thiêng liêng, lớn lao đó chỉ có thể được thực hiện khi chúng ta vững bước trên con đường đi lên CNXH, với sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải truyền cảm hứng để hiện thực hóa khát vọng. Chính vì vậy, đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam mà đồng chí Tổng Bí thư đã trình bày. Qua đó, nhận thức được vai trò của mình trong việc vận dụng vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đặc biệt phải lan tỏa niềm tin cho học viên về con đường đi lên CNXH. Truyền cảm hứng đến cho mỗi học viên của mình, để mỗi học viên nêu cao ý thức, trách nhiệm rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố niềm tin tưởng tuyệt đối của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.

Nhưng muốn lan tỏa được niềm tin, truyền cảm hứng đến học viên thì đội ngũ cán bộ, giảng viên Nhà trường phải thực hiện tốt việc nêu gương, rèn luyện phẩm chất nhà giáo, nâng cao chất lượng bài giảng, lan tỏa những việc làm tốt đẹp của mình đến học viên và mọi người. Từ đó, góp phần quan trọng vào hiện thực hóa mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dâm chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã đề ra.

Th.s Nguyễn Thị Duyên

Khoa Lý luận cơ sở, Trường Chính trị tỉnh

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H, 2011, tr 64

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H, 2011, tr 30

[3] ĐCSVN [1977]Báo cáo chính trị của BCH TƯ Đảng tại ĐHĐBTQ lần thứ IV, tr 40,41.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H, 2000, tr 515

[5] Trần Hữu Tiến[2007]”Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Tạp chí Cộng sản

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội 2021, t1,tr.112

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề