Dân tộc quốc gia là gì

Trang chủ|Tin mới|Hỏi đáp|Sơ đồ site|Hộp thưTIẾNG VIỆT|ENGLISH
TỔNG QUAN
Hệ thống các cơ quan làm công tác dân tộc
Quá trình hình thành và phát triển Uỷ ban Dân tộc Thủ trưởng các cơ quan làm công tác dân tộc qua các thời kỳ Chức năng nhiệm vụ Ủy ban Dân tộc Cơ cấu tổ chức Uỷ ban Dân tộc Danh bạ điện thoại Ủy ban Dân tộc Ban Dân tộc các tỉnh
Hoạt động của UBDT
Hoạt động của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Giàng Seo Phử Thông tin chỉ đạo, điều hành Lịch làm việc của lãnh đạo 65 năm Cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất Phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí Vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số và miền núi Trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam lần thứ I năm 2011
Văn kiện của Đảng về Chính sách dân tộc Bác Hồ với đồng bào DT Đại biểu Quốc hội là người DTTS các khóa
Khóa XI Khóa XII
Các Dân tộc Việt Nam
Đại gia đình các dân tộc Việt Nam Khái quát đời sống kinh tế - xã hội theo nhóm ngôn ngữ Một số thông tin cơ bản các tỉnh vùng dân tộc và miền núi Hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam
Ấn phẩm về lĩnh vực công tác dân tộc
Các Báo và Tạp chí tham gia tuyên truyền cho công tác dân tộc Truyền hình tiếng dân tộc - VTV5 Hệ phát thanh tiếng dân tộc - VOV4 Truyền hình tiếng Khmer Các chương trình và dự án đã phê duyệt
Văn bản về lĩnh vực Công tác dân tộc
TIN MỚI
Dân tộc Online
Thời sự Bản tin ảnh Điểm báo
Tin Hoạt động
Hội nghị - Hội thảo Tin tức Tổng hợp
Chủ trương - Chính sách
Chủ trương - Chính sách Kết quả - Đánh giá
Thời sự - Chính trị
Trong nước Quốc tế
Nghiên cứu - Trao đổi Kinh tế - Xã hội
Kinh tế Xã hội Gương làm kinh tế giỏi
Y tế - Giáo dục
Y tế Giáo dục
Văn hoá - Thể thao
Văn hoá Thể thao Phong tục - Tập quán Ẩm thực
Công nghệ - Môi trường
Công nghệ Môi trường
Pháp luật Quốc tế
TÌM KIẾM

LIÊN KẾT

16/06/2005
Vấn đề quan hệ dân tộc và phát triển ở nước ta hiện nay
Đã từ lâu, trong các văn kiện chính trị, văn bản pháp luật, chính sách Nhà nước, các công trình khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng và cả giao tiếp thường ngày khái niệm Dân tộc được dùng vừa để chỉ một tộc người cụ thể [dân tộc Kinh, Thái, Mường, Hoa...], vừa để chỉ một cộng đồng quốc gia của nhiều tộc người như Dân tộc Việt Nam. Chúng ta nói dân tộc Việt Nam là một nhưng cũng nói dân tộc Việt Nam gồm dân tộc Kinh, dân tộc Mường, dân tộc Thái.... Cách dùng này không thật chuẩn về mặt logic và thuật ngữ khoa học nhưng đã trở thành thói quen.

Khái niệm Dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng cụ thể [Tày, Việt, Thái, Mường, Hoa...], đó thực ra là khái niệm Tộc người [Ethnie], là một hình thái đặc thù của một tập đoàn người, một tập đoàn xã hội, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi ba đặc trưng cơ bản: ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác về cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử. ứng với mỗi chế độ kinh tế - xã hội gắn với các phương thức sản xuất [nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và xã hội chủ nghĩa], tộc người có một trình độ phát triển, được gọi bằng các tên: bộ lạc, bộ tộc chiếm nô, bộ tộc phong kiến, dân tộc tư bản chủ nghĩa và dân tộc xã hội chủ nghĩa. Như vậy, thực chất của Dân tộc Tày, dân tộc Kinh mà người ta quen gọi chỉ nên gọi là Tộc người Tày, tộc người Kinh hay Tộc Tày, tộc Kinh, thậm chí đơn giản hơn là người Tày, người Kinh mới đúng.

Còn với khái niệm Quan hệ dân tộc được nhận thức theo những văn cảnh cụ thể, gắn liền với các yếu tố chính trị, lãnh thổ, tôn giáo. Khái niệm Quan hệ dân tộc được hiểu theo nghĩa hẹp và rộng.

Theo nghĩa hẹp [liên quan nhiều đến ngành Dân tộc học, đến chính sách dân tộc của Đảng cầm quyền và Nhà nước], đó là quan hệ trên hai phạm vi: Quan hệ giữa các tộc người trong một địa phương, khu vực của từng quốc gia, ví dụ, quan hệ giữa người Kinh với người Tày, người Kinh với người Chăm, giữa người Mông với người Thái... và quan hệ nội bộ tộc người hay giữa các nhóm địa phương của một tộc người, như quan hệ giữa các nhóm Dao, giữa các nhóm Nùng với nhau.

Theo nghĩa rộng [liên quan nhiều đến Chính trị học, Quốc tế học và các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác, đến đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng cầm quyền và của Nhà nước], là quan hệ giữa các quốc gia dân tộc với nhau, gắn liền với chính sách đối ngoại của từng nước, và quan hệ giữa hai quốc gia về một tộc người sinh sống ở cả hai nước. Bài viết này xin tập trung vào vấn đề theo nghĩa hẹp.

Quan hệ dân tộc ở bất kỳ nước nào, giai đoạn lịch sử nào cũng hết sức phong phú, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, chồng chéo, đan xen nhau. Lê Nin đã nói, chừng nào mà các dân tộc khác nhau cùng chung sống trong một quốc gia thì họ gắn bó với nhau bằng hàng triệu mối liên hệ về kinh tế, xã hội, văn hóa, pháp luật, phong tục tập quán. Như vậy, quan hệ dân tộc là quan hệ tổng hợp, gồm cả giao lưu, giao tiếp, đan xen giữa kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa, lãnh thổ, tôn giáo, chủng tộc. Chúng tác động, ảnh hưởng liên hoàn lẫn nhau, giữa các tộc người, các địa phương, các quốc gia dân tộc và trong từng khu vực; mang tính nhạy cảm, tính thời sự cấp bách, dễ bị lợi dụng và dễ dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột giữa các tộc người, các quốc gia. Chính vì thế, giải quyết ổn thoả quan hệ dân tộc là yêu cầu chung để ổn định, hoà bình, hợp tác, phát triển của từng tộc người, từng quốc gia và của cả nhân loại. Tuy nhiên, trên thực tế, việc giải quyết lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trước hết là vào đường lối quan điểm của Đảng cầm quyền, vào chính sách dân tộc của Nhà nước.

Ở Việt Nam hiện nay nổi lên một số quan hệ dân tộc có ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của mỗi tộc người và của đất nước, đó là quan hệ dân tộc về vấn đề lãnh thổ và địa bàn cư trú. Lãnh thổ và địa bàn cư trú là yếu tố quan trọng liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các tộc người. Tộc người nào cũng có một nơi ở ban đầu để sinh sống, gọi là cái nôi tộc người, là điều kiện bắt buộc cho sự xuất hiện của tộc người. Lãnh thổ tộc người là một phạm trù lịch sử, có thể mở rộng, suy giảm hoặc ngược lại. Chính vì vậy, quan hệ dân tộc về vấn đề lãnh thổ rất đa dạng, phức tạp là quan hệ giữa các tộc người trong từng khu vực về vấn đề đất đai và địa bàn cư trú, xuất hiện do ba nguyên nhân:

- Do lịch sử để lại [các cuộc tranh giành đất đai giữa các tộc người hay quá trình thiên di của các tộc người trong quá khứ].

- Do yêu cầu phân bố lại địa giới hành chính, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong thời hiện đại [ví dụ như việc nhập tách các đơn vị hành chính, việc đưa người miền xuôi lên xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa miền núi, hay đưa thanh niên lên lập các nông lâm trường ở miền Bắc đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX; hoặc đưa dân thành thị đi xây dựng vùng kinh tế mới ở miền Nam cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX].

- Do yêu cầu cuộc sống dẫn đến các cuộc di dân lẻ tẻ, tự phát [chẳng hạn, do thiếu đất đai canh tác, người Kinh ở nhiều tỉnh châu thổ Bắc Bộ, các tỉnh miền Trung, người Mông, Dao, Nùng ở một số tỉnh miền núi vào Tây Nguyên phá rừng trồng cà phê, làm rẫy].

Một trong những đặc điểm nổi bật trong bức tranh tộc người ở Việt Nam là cư trú xen kẽ nhau, ở nhiều vùng [vùng người Thái, Mường, vùng Tây Nguyên] chế độ công hữu rất đậm nét nên mâu thuẫn giữa các tộc người quanh vấn đề lãnh thổ không lớn, chỉ là tranh chấp địa giới, đất canh tác, nguồn nước ở một số địa phương [ví dụ mâu thuẫn giữa các tộc người thiểu số với người Kinh ở miền xuôi được điều lên khai hoang, lập nông lâm trường ở một số địa phương miền núi]. Gần đây, nảy sinh một số phức tạp do tình trạng di dân tự do ở vùng Tây Nguyên, làm cho một số đồng bào các tộc người thiểu số ở nhiều địa phương Tây Nguyên thiếu đất canh tác.

Để giải quyết quan hệ dân tộc về lãnh thổ, đất đai canh tác trên đây, phải phân định lại địa giới hành chính [gắn với việc quy hoạch các vùng kinh tế] phù hợp với địa hình, dân cư [số lượng dân, số tộc người], trình độ dân trí, phong tục tập quán; bố trí lại các điểm dân cư cho phù hợp với đặc điểm về tâm lý, tính cách, phong tục tập quán, các tộc người; giải quyết các tranh chấp về địa giới theo Nghị định 364 [1993] của Chính phủ.

Việc giải quyết quan hệ dân tộc về vấn đề lãnh thổ, đất đai phải bảo đảm các mục tiêu: ổn định, đoàn kết, bình đẳng và cùng phát triển. Kết quả phụ thuộc nhiều vào quan điểm, thái độ và trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền các cấp, vào đội ngũ cán bộ, vào dân trí, dân luật.

Với quan hệ dân tộc về vấn đề văn hóa, quan hệ dân tộc được biểu hiện rõ nét trong nội dung văn hóa và quan hệ văn hóa giữa các tộc người và nội bộ tộc người, bởi văn hóa và bản sắc văn hóa thể hiện đặc trưng của tộc người. Quan hệ dân tộc này cũng rất đa dạng và phức tạp như quan hệ dân tộc về vấn đề ngôn ngữ, lãnh thổ, gồm cả giao lưu, tiếp biến, tác động, ảnh hưởng, chi phối, đồng hoá về văn hóa; là giải quyết quan niệm về thang giá trị văn hóa giữa các tộc người.

Ngày nay, xu thế giao lưu văn hóa giữa các tộc người, các quốc gia dân tộc đang được mở rộng, khi văn hóa được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển thì quan hệ dân tộc trong văn hóa đặt ra hai vấn đề bức thiết nhất giải quyết là quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, giữa truyền thống và hiện đại để từng tộc người, từng quốc gia dân tộc hoà nhập để phát triển mà vẫn bảo tồn được văn hóa của mình.

Ở nước ta hiện nay, bên cạnh việc nhiều yếu tố văn hóa truyền thống phục hồi, chọn lọc, kế thừa, phát huy cũng đang diễn ra tình trạng nhiều yếu tố văn hóa truyền thống [nhà cửa, quần áo, các làn điệu dân ca, truyện kể dân gian, thậm chí cả ngôn ngữ, các phong tục tập quán, các quan hệ xã hội tốt đẹp...], bị mai một, không còn cơ hội phục hồi ở nhiều tộc người, nhất là với các tộc người có dân số ít, sống chung với các tộc người dân số đông, có trình độ phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa cao hơn; tình trạng tiếp thu xô bồ các yếu tố văn hóa ngoại tộc, ngoại lai, dẫn đến chối bỏ, phủ nhận văn hóa truyền thống. Một bộ phận lớn thanh thiếu niên các tộc người thiểu số thường có tâm lý coi văn hóa người Kinh là chuẩn, trong khi số đông thanh niên Kinh lại hướng về một chuẩn văn hóa phương Tây. ở đây không chỉ là tính tự ti tộc người mà còn là do quan niệm hiện đại hoá là sự đứt đoạn về văn hóa, hiện đại hoá đồng nghĩa với Tây phương hoá, coi văn hóa truyền thống hình thành từ nông nghiệp lạc hậu, trì trệ chỉ ứng hợp với xã hội mang nền kinh tế đó; còn xã hội công nghiệp đòi hỏi một nền văn hóa khác. Do vậy, khuynh hướng chấp nhận sự đồng hoá về văn hóa, hy sinh văn hóa để đổi lấy kinh tế, lấy văn hóa phương Tây thay cho văn hóa truyền thống, dẫn đến những việc làm tả khuynh như xa rời quan hệ họ hàng, làng xóm, đoạn tuyệt với những giá trị truyền thống, như bỏ đình chùa, đền miếu [các giá trị vật thể]; bỏ hội hè, thậm chí bỏ cả việc thờ cúng tổ tiên, xa rời các giá trị về hiếu, lễ, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính... [các giá trị phi vật thể]. Các yếu tố văn hóa truyền thống tồn tại không chỉ khi thể chế kinh tế - xã hội cổ truyền còn được duy trì mà ngay cả khi thể chế đó mất đi và chính các yếu tố văn hóa giữ được sự cân bằng để ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế.

Quan hệ dân tộc về văn hóa đòi hỏi sự bình đẳng về văn hóa giữa các tộc người, một mặt phải tôn trọng văn hóa [phong tục tập quán, ngôn ngữ] của các dân tộc, mặt khác phải đấu tranh chống tự ti dân tộc về văn hóa là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.

Việc giải quyết quan hệ dân tộc về văn hóa phụ thuộc vào chính sách văn hóa, vào chiến lược bảo tồn và phát triển văn hóa của mỗi quốc gia và thể chế chính trị. Để giải quyết được những vấn đề đó, cần thiết phải đi sâu nghiên cứu những vấn đề về lý luận như văn hóa tộc người, văn hóa vùng, văn hóa truyền thống, giá trị và bản sắc văn hóa tộc người, giao lưu, tiếp biến văn hóa, tạo cơ sở khoa học cho việc đề ra các chính sách, các giải pháp về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng nền văn hóa mới, góp phần giải quyết mối quan hệ dân tộc về văn hóa.

Quan hệ dân tộc về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng. Tôn giáo tín ngưỡng là hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh trong đầu óc con người những hiện tượng tự nhiên và xã hội chi phối con người, mang tính huyền bí, linh thiêng. Hơn nữa người tôn giáo luôn luôn hiện diện trong mỗi con người vì thế mà tôn giáo tín ngưỡng có điều kiện tồn tại, ngay cả trong các xã hội, các cư dân hiện đại.

Ở Việt Nam, phần lớn các tộc người còn bảo lưu các hình thức tín ngưỡng tôn giáo sơ khai [tôn giáo tiền giai cấp] như tô tem giáo, các loại ma thuật, lễ thành dinh, thờ cúng tổ tiên, thờ thần bản mệnh... Một số tộc người từ lâu tiếp thu các tôn giáo của xã hội có giai cấp, như Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo... Trong một tộc người, thậm chí trong một cộng đồng nhỏ của một tộc người [làng] tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau, như một làng người Kinh có bộ phận theo Phật giáo, có bộ phận theo Thiên chúa giáo; trong một làng người Chăm cũng có thể chia thành nhóm Chăm Bà Ni [theo Phật giáo] và Chăm theo đạo Hồi.

Quan hệ dân tộc về tôn giáo tín ngưỡng có phần phức tạp hơn quan hệ dân tộc về các vấn đề khác, bởi đây là vấn đề tâm linh dễ bị lợi dụng, kích động để phục vụ cho mưu đồ chính trị. Nhiều lúc, nhiều nơi các mâu thuẫn trong quan hệ dân tộc về vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội lại được núp dưới bóng của vấn đề tôn giáo tín ngưỡng. Khi đã bị lợi dụng thì dễ bùng phát phức tạp, tháo gỡ rất khó khăn, ảnh hưởng lớn đến đời sống, đến sự phát triển của từng cộng đồng, đến quan hệ giữa các tộc người, các quốc gia dân tộc. Gần đây, các thế lực thù địch, phản động lợi dụng lòng tin của đồng bào dụ dỗ, tuyên truyền, lôi kéo đồng bào ở nhiều nơi theo đạo Tin lành, quan hệ cộng đồng căng thẳng, sản xuất ngưng trệ, nhiều yếu tố văn hóa truyền thống tốt đẹp, như thờ cúng tổ tiên, cúng ma bản... bị bỏ, quan hệ giữa các tộc người sống chung trong địa bàn bị rạn nứt.

Để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ dân tộc về tôn giáo tín ngưỡng, cần phải đi sâu nghiên cứu các đặc điểm về tâm lý, văn hóa của các tộc người; xử lý các vấn đề nảy sinh một cách tế nhị, thận trọng, khách quan; xây dựng chính sách tôn giáo phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng tộc người.

Vấn đề dân tộc có quan hệ mật thiết tới an ninh quốc gia và phát triển ở Việt Nam. Hiện nay, vấn đề dân chủ, nhân quyền và các vấn đề về dân tộc, quan hệ dân tộc và tự do tôn giáo tín ngưỡng đang được các thế lực thù địch sử dụng trong chiến lược diễn biến hoà bình hòng kích động, lôi kéo các phần tử bất đồng chính kiến, gây mất ổn định chính trị ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số người Mông ở Tây Bắc, đồng bào Khmer Rôm ở Tây Nam Bộ.

Vì vậy, vấn đề đặt ra cho sự phát triển bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là cần tăng cường sự ổn định chính trị không để tái diễn những vụ gây rối như đã xảy ra trong thời gian vừa qua ở Tây Nguyên và một số nơi khác. Đồng thời với việc thực hiện các biện pháp chống tham nhũng một cách kiên quyết hơn, Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho việc phát triển các khu kinh tế quốc phòng, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa gần biên giới, nâng cao đời sống của đồng bào các tộc người thiểu số.

Nguyễn Hoài Văn
Viện Khoa học Chính trị
Học viện CTQG Hồ Chí Minh

[ Quay lại ]

THÔNG BÁO

Quyết định Ban hành Quy định công tác số hóa văn bản đi, đến của Ủy ban Dân tộc [Xem nội dung chi tiết tại đây]

Thông báo về việc quản lý hộp thư điện tử của Ủy ban Dân tộc nhằm đảm bảo an ninh, an toàn thông tin. Nội dung chi tiết xem tại đây

TÌM NHANH

TIN MỚI CẬP NHẬT

Hội nghị tham vấn ý kiến các Bộ, ngành vào dự thảo văn kiện Chương trình 135 giai đoạn III

9 nhóm giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2013

Hà Giang: Năm 2012 có 6.748 hộ thoát nghèo

Ngành Công tác Dân tộc: Dấu ấn năm 2012

Thực trạng và một số giải pháp nhằm quản lý, sử dụng đất đai có hiệu quả ở Tây Nguyên

THÔNG TIN NỘI BỘ

DB điện thoại nội bộ
Danh sách cán bộ UB
Thư viện điện tử
CD 60 năm công tác DT
CEMA trên đĩa CDROM
CD đào tạo CNTT - CT135
CEMA trên UNDP
Năm quốc tế về miền núi

THÀNH VIÊN
Người online:
Khách:
Thành viên:
Tổng số: 0
Số người truy cập: 64,779,675

Cơ quan chủ quản : Uỷ ban Dân tộc. Giấy phép số : 455/GP-BC do Cục Báo chí - Bộ Văn hoá Thông tin cấp ngày 18/10/2004.
Bản quyền thuộc Ủy ban Dân tộc. Địa chỉ : Số 80, Phan Đình Phùng, Ba Đình, Hà Nội. Điện thoại : 04.37333511.
Khi đăng ký tài khoản người dùng trên website này, bạn đồng ý rằng bạn đã chấp nhận Chính sách đảm bảo an toàn thông tin cá nhân.
Website xem tốt nhất ở trình duyệt IE 5 trở lên, màn hình có độ phân giải 800x600 & Flash Player 8.
Phát triển dựa trên mã nguồn của phpNuke. Execution time: 0.2 secs

Video liên quan

Chủ Đề