Đánh giá chủ trương của dảng quốc đại năm 2024
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao, chiều sâu của trí tuệ và trình độ phát triển. Những giá trị của văn hóa có sức sống bền vững và lan tỏa, làm nên sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng vai trò của văn hóa, đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, phát triển văn hóa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cùng xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam luôn nhất quán, không ngừng phát triển trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là cơ sở quan trọng để hoàn thiện thể chế, chính sách, phát huy các nguồn lực xây dựng nền văn hóa Việt Nam “dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học”. 1. Kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, Đảng ta kiên định và không ngừng phát triển các chủ trương, đường lối xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Cho đến nay, tùy vào góc độ tiếp cận khác nhau, trên thế giới đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” Đảng ta khẳng định: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc” Ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, vấn đề phải phát triển văn hóa của dân tộc đã được đề cập và đến năm 1943, trong hoàn cảnh chưa giành được chính quyền, Đảng ta đã thông qua Đề cương về văn hóa Việt Nam, trong đó xác định ba mặt trận quan trọng của cách mạng nước ta là chính trị, kinh tế và văn hóa; chủ trương phát triển nền văn hóa Việt Nam với các đặc trưng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời đã kịp thời đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cách mạng; thể hiện ý chí, nguyện vọng của cả dân tộc và tầm nhìn chiến lược của Đảng, trở thành ngọn cờ tập hợp, cổ vũ nhân dân ta, nhất là trí thức, văn nghệ sĩ hăng hái tham gia cách mạng, phát huy vai trò của văn hóa, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sau đó là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960), Đảng ta đã xác định văn hóa, tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời, gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật; tập trung xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, thiết thực, phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1960 đến năm 1975, Đảng đã tiếp tục phát huy vai trò của văn hóa Việt Nam đối với nhiệm vụ vừa kiến quốc, vừa kháng chiến, huy động đông đảo các lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hóa tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất non sông. Bước vào giai đoạn hòa bình, độc lập, thống nhất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc iệt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là từ khi Đổi mới đến nay, Đảng ta đã kế thừa và có sự phát triển tư duy lý luận về văn hóa, chăm lo phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đảng đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị khóa VI về Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới, Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII về Một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là những nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đề ra 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể; đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng con người Việt Nam, với trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh. Tại Đại hội IX, Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Quan điểm này sau đó tiếp tục được phát triển sâu sắc hơn trong văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, tại Hội nghị Trung ương 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm, nhiệm vụ mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã nêu; đồng thời bổ sung, phát triển, làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đảng nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Đồng thời, Đảng cũng xác định một số nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa, xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4/6/2020 về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, xác định rõ xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc. Mối quan hệ khăng khít giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người đã được Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn. Đảng khẳng định: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người để thúc đẩy phát triển văn hóa. Con người là chủ thể sáng tạo, truyền bá, thụ hưởng văn hóa, là trung tâm của chiến lược phát triển. Xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp là trọng tâm, cốt lõi của phát triển văn hóa; mọi hoạt động văn hóa đều phải hướng tới xây dựng, phát triển con người. Đảng ta khẳng định: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa, con người đối với phát triển nhanh và bền vững đất nước trong điều kiện mới. Việc xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được trình bày trong mối quan hệ thống nhất, biện hứng, tạo nền tảng, động lực thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững. Một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đảng xác định, phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa chủ yếu vào việc: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”. Vì vậy, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (24/11/2021), đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo”. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”. Đây là những định hướng hết sức quan trọng đặt ra cho cấp ủy, chính quyền các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ, trí thức và quần chúng nhân dân thực hiện trong việc sử dụng, giữ gìn, phát huy các hệ giá trị nhằm phục vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa khẳng định, Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo đối với văn hóa. Đối với những lĩnh vực quan trọng của văn hóa, nhận thức của Đảng có những bước phát triển, nổi bật là hoàn thiện định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo; đột phá cơ chế, chính sách để phát triển, ứng dụng khoa học-công nghệ; đẩy mạnh phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản; gắn kết bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống với sáng tạo các giá trị văn hóa mới, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế,… hướng vào phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam. Đảng ta yêu cầu: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”, “phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”. Đảng ta chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, bảo đảm định hướng chính trị, tư tưởng, không buông lỏng, đồng thời tôn trọng, phát huy quyền tự do sáng tạo cá nhân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước với văn hóa; mở rộng, tăng cường nguồn lực và đầu tư phát triển văn hóa một cách toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Có thể nói, chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam vừa nhất quán, kiên định, vừa từng bước bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, sâu sắc hơn, góp phần quan trọng trong việc Đảng lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 2. Những thành tựu cơ bản, những hạn chế chủ yếu trong triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam 2.1. Những thành tựu cơ bản Thời kỳ trước Đổi mới, việc triển khai thực hiện các quan điểm, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng. Nền văn hóa dân chủ mới - văn hóa cứu quốc đã bước đầu được hình thành, đạt nhiều thành tựu trong kháng chiến và kiến quốc. Các phong trào văn nghệ quần chúng, báo chí, xuất bản phát triển mạnh ở khắp các địa phương. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến với tư cách là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, đóng vai trò nòng cốt xây đắp nên một nền văn học, nghệ thuật kháng chiến và cách mạng. Những tàn tích của nền văn hóa nô dịch dưới chế độ thực dân, những hủ tục lạc hậu, lỗi thời trong di sản văn hóa phong kiến dần được xóa bỏ, bước đầu xây dựng nền văn hóa dân chủ mới với tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Hàng triệu đồng bào mù chữ đã biết đọc, biết viết. Hệ thống giáo dục được chăm lo, phát triển, từng bước cải cách phương pháp dạy học, thực hành rộng rãi đời sống mới. Các phong trào thể hiện truyền thống tương thân tương ái của dân tộc như “Hũ gạo cứu đói”, “Lá lành đùm lá rách”, “Tuần lễ vàng”,… được phát động và triển khai rộng rãi. Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh được quan tâm thực hiện, góp phần bài trừ các tệ nạn xã hội. Phong trào “Thi đua yêu nước” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động (năm 1948) đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, trí tuệ và năng lực sáng tạo của nhân dân, tạo động lực tinh thần quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Mạng lưới các tổ chức văn hóa, văn nghệ phát triển rộng rãi. Các cơ sở xuất bản được duy trì, cải tổ và phát triển, xuất hiện hàng trăm tờ báo ở khắp các địa phương trong cả nước, đóng góp tích cực cho công tác tuyên truyền. Nền văn học, nghệ thuật cách mạng Việt Nam được hình thành và phát triển, từng bước chuyển sang một giai đoạn mới, với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa; xuất hiện nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật trên các loại hình, cùng nhiều thể loại phong phú, có giá trị tuyên truyền, giáo dục, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua yêu nước, góp phần xây dựng cuộc sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 35 năm Đổi mới, các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã được cụ thể hóa trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước, được ghi rõ trong Hiến pháp. Việc triển khai thực hiện trong thực tiễn cũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Những tiến bộ trong giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; sự khởi sắc trong hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật, truyền thông đại chúng, bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa; sự phát triển của phong trào xây dựng đời sống văn hóa và sự tăng cường các thiết chế văn hóa cơ sở,… làm cho đời sống tinh thần của con người, xã hội phong phú, đa dạng hơn, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước được cải thiện. Những nhân tố mới, giá trị mới của văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế từng bước được định hình trong đời sống. Quyền tự do sáng tạo, quảng bá văn hóa, văn học, nghệ thuật được tôn trọng; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt tâm linh của nhân dân được quan tâm. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới”, các phong trào xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa,… đạt được những kết quả tích cực, tạo môi trường tốt để nuôi dưỡng, phát huy những giá trị nhân văn của dân tộc. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc được phát huy, đồng thời đã xuất hiện những giá trị văn hóa mới. Nguồn lực của Nhà nước, của xã hội đầu tư cho văn hóa được nâng lên; hệ thống thiết chế văn hóa từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng, từng bước hoàn thiện và phát huy tác dụng. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa không ngừng được mở rộng, góp phần làm phong phú hơn đời sống văn hóa trong nước và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa có nhiều tiến bộ. Các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách về văn hóa, con người từng bước được đổi mới, hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa được quan tâm bồi dưỡng, có bước trưởng thành. 2.2. Những hạn chế chủ yếu So với những thành tựu đạt được về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu phát triển văn hóa, xây dựng con người thời gian qua còn chưa tương xứng. Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xây dựng văn hóa, con người đã được Đảng chỉ rõ từ lâu, nhưng chậm được khắc phục. Những năm gần đây, đạo đức trong xã hội có chiều hướng xuống cấp đáng lo ngại. Hiện tượng phai nhạt lý tưởng, lối sống thực dụng, vị kỷ, vô cảm; sự vô trách nhiệm, thiếu kỷ luật trong lao động, hoạt động công vụ; một số biểu hiện, xu hướng lệch lạc trong sáng tác, trình diễn, cảm thụ văn học, nghệ thuật,… chưa được khắc phục. Môi trường văn hóa bị ô nhiễm và có những diễn biến phức tạp. Những tệ nạn, tiêu cực trong hoạt động, quản lý văn hóa chậm được ngăn chặn, đẩy lùi, tác động xấu đến quá trình phát triển văn hóa, xây dựng đạo đức, nhân cách, lối sống của con người Việt Nam. Chất lượng sáng tạo các giá trị văn hóa mới còn nhiều hạn chế, ít các công trình, tác phẩm có giá trị tư tưởng, nghệ thuật, khoa học cao. Hoạt động văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản chưa gắn bó thường xuyên, chặt chẽ, chưa phục vụ tích cực yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người. Xu hướng “thương mại hóa”, “bệnh thành tích”, chạy theo bề nổi… chưa được khắc phục; vẫn còn những hoạt động, những sản phẩm kém chất lượng, “phản văn hóa”. Hiệu quả hội nhập quốc tế về văn hóa còn một số mặt bất cập. Việc tiếp thu, quảng bá sản phẩm văn hóa nước ngoài thiếu tính chiến lược và hệ thống, có nơi, có lúc còn thiếu chặt chẽ, thiếu chọn lọc, chưa được thẩm định một cách khoa học, gây ảnh hưởng tiêu cực đối với một bộ phận công chúng, nhất là giới trẻ. Lãnh đạo, quản lý văn hóa còn nhiều mặt hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển. Việc thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng thành luật và các cơ chế, chính sách cụ thể còn chậm và chưa đồng bộ. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Nguồn lực đầu tư cho văn hóa còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ: “Sự yếu kém, khuyết điểm trong lĩnh vực xây dựng văn hóa, con người Việt Nam thời gian qua đã gây hệ luỵ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, đến xây dựng con người và môi trường văn hóa của chúng ta”16. Vì vậy, chúng ta cần phải nhìn thẳng vào những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém đó, phải trả lời cho được vì sao những hạn chế, yếu kém được nhắc lại nhiều lần lâu nay, nhưng vẫn chậm được giải quyết? Trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa ra sao? Mặc dù văn hóa được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, nhưng trên thực tế, trong suy nghĩ và hành động, không ít tổ chức, cá nhân còn quá thiên lệch về kinh tế mà chưa xem trọng đúng mức văn hóa... Chúng ta cần phân tích sâu sắc những câu hỏi đó để tìm cách giải quyết, nhằm tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc. 3. Một số định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, phát huy nguồn lực xây dựng nền văn hóa Việt Nam “Dân tộc, Dân chủ, Nhân văn và Khoa học” Qua hơn 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã không ngừng nâng cao tư duy lãnh đạo, năng lực quản lý nhằm phát huy cao độ tinh thần, sức sáng tạo của nhân dân, xây đắp nền văn hóa Việt Nam tốt đẹp, phong phú, giàu bản sắc. Tuy nhiên, trước những vấn đề mới, phức tạp từ bối cảnh, tình hình khách quan trong và ngoài nước cũng như những nhu cầu nội tại xuất phát từ chính đời sống văn hóa, đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện việc xây dựng, ban hành và thực thi thể chế, chính sách và huy động nguồn lực, khắc phục những “điểm nghẽn”, khơi thông “mạch nguồn” để dòng chảy văn hóa ngày càng lưu thông, phát triển. Chủ trương, định hướng của Đảng cần được cụ thể hóa thành các giải pháp mạnh mẽ, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, tạo sức sống sinh động cho thể chế văn hóa; xây dựng chính sách, pháp luật văn hóa giàu tính thực tiễn, có tầm nhìn xa, qua đó phá vỡ rào cản, kích thích năng lực sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, năng lực cạnh tranh, tạo động lực to lớn cho sự phát triển của văn hóa. Bàn về thể chế, chính sách và nguồn lực, cũng chính là bàn về các giải pháp phát huy mối quan hệ biện chứng, sức mạnh gắn bó keo sơn giữa ý Đảng và lòng dân trong xây dựng và phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa được kết tinh, tích lũy, bồi đắp lên qua sự nghiệp đấu tranh cách mạng gian khổ giành độc lập, gìn giữ và xây dựng đất nước những năm qua và định hướng phát triển đất nước, dựng xây xã hội chủ nghĩa những năm tới chính là nền tảng định hình, dẫn dắt công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách văn hóa. Nguồn lực văn hóa giàu có và phong phú nhất đến từ nhân dân, mục tiêu xây dựng văn hóa hướng tới cũng chính là nhân dân, nhân dân là chủ thể hưởng thụ nhưng cũng là những người sáng tạo, xây dựng nên văn hóa. Nền văn hóa Việt Nam hiện đại là sự kiên trì và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh lồng ghép, hòa quyện gắn bó máu thịt với nền tảng văn hóa sâu dày, bền vững, nhân văn, tốt đẹp của dân tộc, gắn kết với định hướng mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mỗi người dân. Thể chế, chính sách và nguồn lực cho văn hóa được giải phóng và thăng hoa trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa lý luận của Đảng với tinh thần hướng tới nhân dân, tất cả vì nhân dân. Để hoàn thiện thể chế, chính sách, phát huy nguồn lực xây dựng nền văn hóa Việt Nam “dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học”, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, nhất là các quan điểm được nêu trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; kết luận chỉ đạo quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt hơn nữa các chương trình hành động nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng trên lĩnh vực văn hóa – văn nghệ đã ban hành. Xác định rõ, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị. Đẩy mạnh nghiên cứu, xác định, tuyên truyền và triển khai thực hiện hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hóa và xây dựng con người với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, vùng và địa phương, từng cơ quan, đơn vị. Đối với những vấn đề cụ thể, chúng ta cần bám sát ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hoá đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hoá, xây dựng con người. Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hoá từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hoá, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hoá… Sớm khắc phục tình trạng chắp vá, tuỳ tiện trong bố trí cán bộ làm công tác văn hoá…”. Vì vậy, cần tập trung vào một số nội dung sau: Trước hết, cần đẩy nhanh quá trình thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hoá. Cải cách và hoàn thiện thể chế văn hóa cần được phát huy đồng bộ thông qua nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước song hành cùng trao quyền tự chủ nhiều hơn đối với các tổ chức, cá nhân trong hoạt động văn hóa. Cần định hình tư duy, phương thức quản lý văn hóa thống nhất hiệu quả xã hội với hiệu quả kinh tế, mục tiêu cao nhất là phục vụ lợi ích của cộng đồng và nhân dân. Giải quyết hài hòa, kết hợp giữa phát triển sự nghiệp văn hóa công ích với phát triển các ngành kinh doanh văn hóa. Hoàn thiện các chính sách kinh tế văn hóa, thực hiện những giải pháp căn cơ để phát triển lành mạnh thị trường văn hóa; đồng thời tăng cường đổi mới đầu tư trong các lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Rà soát, hoàn thiện các văn bản pháp luật, quản lý hiện hành có liên quan; sửa đổi, bổ sung những nội dung không còn phù hợp, gây cản trở, trì hoãn việc xây dựng, hình thành những giá trị văn hóa mới, tốt đẹp. Đổi mới cơ chế hỗ trợ đầu tư, không cào bằng, có nhiều hình thức tôn vinh xứng đáng những người giỏi, khuyến khích mọi tài năng, thực sự coi trọng động lực sáng tạo văn hóa. Phấn đấu có nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị nghệ thuật cao, sức lay động lớn, cổ vũ sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, làm lan tỏa các giá trị tốt đẹp của Đảng, của đất nước và con người Việt Nam. Tìm kiếm mọi điều kiện mở rộng đầu ra, tăng cường quảng bá tác phẩm, đưa sản phẩm văn hóa đến đông đảo mọi tầng lớp nhân dân. Tham luận của đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa mở đầu phiên chuyên đề của Hội thảo.Thứ hai, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, tập trung cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng thành chương trình, đề án cụ thể, sát thực tiễn. Tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, xác định và thực hiện sáng tạo, có hiệu quả những chiến lược và giải pháp lãnh đạo, quản lý phù hợp với từng nhóm đối tượng, lĩnh vực và địa bàn, vùng miền cụ thể. Đẩy mạnh việc triển khai chủ trương của Đảng về phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa, nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng, giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam, đóng góp tích cực và có tỷ trọng ngày càng tăng đối với kinh tế. Hỗ trợ, đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ văn hóa, tăng cường khả năng kết nối quốc tế, tạo điều kiện để các nhà văn hóa, doanh nghiệp xây dựng các sản phẩm văn hóa đa dạng, mang bản sắc, giá trị Việt Nam. Tạo cơ chế phối hợp, quảng bá, xúc tiến thương mại, xác định các sản phẩm chủ lực, ngành văn hóa có tiềm năng, lợi thế để quan tâm đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Tăng cường cơ chế hợp tác công - tư, phát huy các nguồn lực văn hóa phong phú trong nhân dân nhằm đa dạng hóa các sản phẩm văn hóa có giá trị, đáp ứng nhu cầu các đối tượng thụ hưởng khác nhau. Triển khai xây dựng và thực hiện văn hóa số, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến, lưu giữ các sản phẩm văn hóa và từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ văn hóa. Thứ ba, cần phát huy toàn diện và đầy đủ các nguồn lực văn hóa bao gồm nguồn nhân lực con người và nguồn lực tài chính, nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn từ quá trình xã hội hóa, sự đóng góp của cộng đồng các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cùng tham gia phát triển văn hóa. Đối với nguồn lực con người cần chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ, những tài năng nghệ thuật của đất nước; tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ hoạt động, phát huy khả năng sáng tạo nghệ thuật, xây dựng các tác phẩm có chất lượng cao. Xây dựng chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ văn hóa phù hợp, có trình độ chuyên môn cao, năng lực, phẩm chất bảo đảm ở tất cả các cấp. Tạo mọi điều kiện để đội ngũ cán bộ làm văn hóa, văn nghệ sĩ gắn bó với thực tiễn, đến với cuộc sống sôi động, rộng lớn của đất nước, vừa để tích lũy vốn sống, lấy cảm hứng và cũng là cách tốt nhất để nâng cao nhận thức, tư tưởng, tình cảm, trách nhiệm trong sáng tạo văn hóa. Chú ý đúng mức đến tính chất đặc thù của văn học, nghệ thuật xây dựng, hình thành có đội ngũ cán bộ giỏi, có tâm, có tài, hiểu biết, quý trọng văn nghệ sĩ, vừa kế thừa, vừa trẻ hóa đội ngũ. Đầu tư tương xứng cho giáo dục văn hóa, lịch sử, khơi dậy khát vọng, lòng yêu nước, sự tự tin cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Đối với nguồn lực tài chính, cần tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các hoạt động văn hóa. Tăng đầu tư của Nhà nước cho văn hóa gắn với việc sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư. Đổi mới cơ chế đầu tư, tăng cường thu hút các nguồn vốn từ các ngành, lĩnh vực khác nhau cho phát triển văn hóa. Chú trọng xây dựng một số công trình văn hóa, nghệ thuật trọng điểm, đầu tư phát triển các trường văn hóa, nghệ thuật trên cả nước theo định hướng mới, khoa học, hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hỗ trợ đào tạo nghệ thuật khó, hiếm, đỉnh cao, nghệ thuật truyền thống. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ sáng tác, phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Dành nguồn lực thích đáng hỗ trợ các hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật và báo chí, truyền thông phục vụ cho nhiệm vụ tuyền truyền chính trị của Đảng và Nhà nước. Thực hiện sáng tạo chủ trương xã hội hóa, huy động các nguồn đầu tư cho phát triển văn hóa, xây dựng con người, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Hệ thống các cơ quan tuyên giáo, báo chí, truyền thông cần đi đầu, phát huy sức mạnh tổng hợp đề cao khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cổ vũ các giá trị văn hóa cao đẹp và sức mạnh con người Việt Nam, truyền cảm hứng tích cực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh các nguồn lực nội sinh, cần quan tâm đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, phát triển, quảng bá văn hóa bằng du lịch, thúc đẩy hội nhập sâu giữa văn hóa và du lịch, thông qua du lịch “xuất khẩu” văn hóa tại chỗ đối với du khách và bạn bè quốc tế. Thực hiện các giải pháp “mượn lực từ bên ngoài”, tăng cường tiếng nói của các cơ quan báo chí, truyền thông, học giả, khách du lịch, người nước ngoài nói về những nét đặc sắc, những câu chuyện tốt đẹp về văn hóa và con người Việt Nam. Tích cực tiếp biến, hội nhập quốc tế về văn hóa, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú thêm văn hóa Việt Nam. Tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào ta ở nước ngoài, các tổ chức quốc tế đầu tư trí tuệ, nguồn vốn phát triển văn hóa. 4. Đề xuất, kiến nghị Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, văn hóa cần phải được xem là mục tiêu của mọi sự phát triển, với những chuyển động mạnh mẽ để hoàn thành sứ mệnh “soi đường cho quốc dân đi”, góp phần đưa đất nước ta phát triển nhanh và bền vững. Do đó, công cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc vừa là khát vọng nhưng đồng thời cũng là nhiệm vụ chính trị cấp thiết đặt ra hiện nay. Để phát huy được sức mạnh, vai trò của văn hóa, thời gian tới, Ban Tuyên giáo Trung ương trân trọng đề nghị Quốc hội sớm ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa; đồng thời, cùng với Chính phủ tiếp tục quan tâm, tăng mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm, bảo đảm thực hiện đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”. |