Góc độ của bàn đạp sau là bao nhiêu

,,,, CHẠY CỰ LI NGẮNCHẠY CỰ LI NGẮNI. TIỂU SỬ.II. KĨ THUẬT. I. TIỂU SỬ.I. TIỂU SỬ.- Chạy là một trong những kĩ năng vận động của con người. Từ thời xa xưa, con người đã biết sử dụng chạy để đuổi bắt con vật hoặc chạy trốn khi bị chúng tấn công.- Qua nhiều năm tháng, chạy trở thành một môn thể thao hấp dẫn.-Chạy được tổ chức thi đấu theo nhiều cự li khác nhau: 60m,80m,100m cho đến 1000m, 42195m [Maratông]- Chạy được chia làm 3 nhóm cự li: ngắn, trung bình và dài. I. TIỂU SỬ.I. TIỂU SỬ.Em hãy cho biết chạy cự li ngắn là nhưng cự li nào? + Chạy cự li ngắn: 60m, 80m, 100m, 200m và 400mEm hãy cho biết chạy cự li trung bình là những cự li nào?+ Trung bình: 800m, 1000m, 1500m…Em hãy cho biết chạy cự li dài là cự li nào?+ Dài: 42195m…* Ở trường THCS, học kĩ thuật chạy 60m trên đường thẳng. II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.Kĩ thuật chạy ngắn hoàn chỉnh chia làm 4 giai đoạn: xuất phát, chạy lao, chạy giữa quãng và về đích.1. Giai đoạn xuất phát.* Cách đóng bàn đạp:- Bàn đạp trước cách vạch xuất phát 1,5 bàn chân.-Bàn đạp sau cách vạch xuất phát 3 bàn chân.-Hai bàn đạp cách nhau theo chiều ngang 1 bàn chân nằm ngang [ 10cm-20cm].- Góc độ bàn đạp trước 45-50 độ, bàn đạp sau 75-80 độ. II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.•Kĩ thuật xuất phát-Khi nghe lệnh vào chổ:+ Đi từ phía bên bàn đạp sau, lên đứng trước 2 bàn đạp.+ Chống hai tay lên đường chạy [không chạm vạch XP] đặt chân vào bàn đạp trước, chân còn lại vào bàn đạp sau.+ Quỳ gối chân sau, thu hai tay về chống sau vạch xuất phát.-Khi nghe lệnh “Sẵn sàng…] từ từ nâng mông lên cao bằng hoặc hơn vai, chú ý nghe hiệu lệnh.-Khi nghe lệnh “Chạy”. Đạp chân sau vào bàn đạp rồi bước về trước, hai tay rời khỏi mặt đất. Tiếp theo đạp chân trước rồi bước về trước. II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.2. Giai đoạn chạy lao.Em hãy quan sát hình và cho biết sau khi xuất phát thân người so với mặt đất như thế nào?-Thân người gần song song mặt đất.-Độ dài tần số bước chạy tăng dần.-Hai tay đánh ăn nhịp với bước chạy.-Góc độ cẳng tay và cánh tay lúc đầu hơi rông sau nhỏ dần. II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.3. Giai đoạn chạy giữa quãng.Đây là giai đoạn chạy vơi tốc độ cao nhất.-Duy trì tần số và độ dài bước chạy.-Thời kì đạp sau bước chạy hết sức tích cực.-Đánh tay đúng nhịp với bước chạy.-Chân chạm đất phía trước bằng nửa trước bàn chân.-Chạy thẳng hướng, thả lỏng để cơ thể không gò bó. II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.II. KĨ THUẬT CHẠY NGẮN.4. Giai đoạn về đích.- Khi gần đến dây đích cần duy trì và phát huy tốc độ cao nhất.- Sau đó dùng hai vai hoặc ngực đánh đích. - Sau khi qua đích, chạy giảm tốc độ trong khoảng 5-15m rồi mới dừng lại.

Chạy cự ly ngắn bao gồm các cự ly từ 20m – 400m, trong đó các cự ly 100m, 200m, 400m là các nội dung thi đấu chính thức trong các đại hội thể thao Olympic và các cuộc thi đấu lớn. Trong bài này chỉ giới thiệu chạy cự ly 100m.

1.Tác dụng của chạy cự ly ngắn

Ngoài việc giúp nâng cao thể lực chung, chạy cự ly ngắn giúp cho con người phát triển sự khéo léo, khả năng phối hợp vận động mà đặc biệt là sức mạnh tốc độ, giúp cho cơ thể trở nên săn chắc phát triển cân đối toàn diện.

2. Chi tiết về kỹ thuật chạy cự ly ngắn

Bàn đạp là một dụng cụ cần thiết trong môn chạy cự ly ngắn. Bố trí bàn đạp chạy ngắn sao cho phù hợp với đặc điểm và trình độ người tập. Thông thường có các cách bố trí bàn đạp sau:

- Cách phổ thông: Bàn đạp trước được đặt sau vạch xuất phát từ 1 - 1,5 độ dài bàn chân. Bàn đạp sau được đặt cách bàn đạp trước một khoảng bằng với độ dài cẳng chân [bằng gần 2 bàn chân người chạy];

-Cách xa: 2 bàn đạp được đặt xa vạch xuất phát hơn. Cụ thể, bàn đạp trước đặt sau vạch xuất phát khoảng gần 2 bàn chân, bàn đạp sau cách bàn đạp trước 1 bàn chân hoặc gần hơn. Đây là cách bố trí bàn đạp phù hợp với người cao, sức mạnh chân và tay trung bình;

-Cách gần: 2 bàn đạp được đặt ở vị trí gần vạch xuất phát hơn. Bàn đạp trước cách vạch xuất phát khoảng 1 bàn chân hoặc gần hơn, bàn đạp sau đặt cách bàn đạp trước 1 - 1,5 bàn chân. Cách này tận dụng được sức mạnh của cả 2 chân khi xuất phát, giúp người chạy xuất phát nhanh và thường phù hợp với người thấp, chân tay khỏe.

Dù bố trí bàn đạp theo cách nào thì trục dọc của 2 bàn đạp đều phải song song với trục dọc của đường chạy. Khoảng cách giữa 2 bàn đạp theo chiều ngang là khoảng 10 - 15cm. Bàn đạp trước ưu tiên dùng cho chân thuận [chân khỏe hơn]. Góc độ của mặt bàn đạp: Góc giữa mặt bàn đạp trước với đường chạy phía sau là 45 - 50°, góc giữa mặt bàn đạp sau với đường chạy phía sau là 60 - 80°. Người có thể lực kém thì có thể sử dụng bàn đạp xa vạch xuất phát với góc độ nhỏ hơn.

3.Một số quy định trong Luật Điền kinh về chạy cự ly ngắn

[Quyết định số 224/QĐ-UBTDTT ngày 01 tháng 03 năm 2000 của Bộ trưởng – Chủ nhiệm Uỷ ban thể dục thể thao về việc ban hành Luật điền kinh]

a. Xuất phát

– Xuất phát và về đích của một cuộc thi phải được biểu thị bằng một vạch trắng rộng 5cm. Cự ly của cuộc thi phải được đo từ mép của vạch xuất phát phía xa đích tới mép của vạch đích phía gần tới xuất phát.

– Trong tất cả các cuộc thi không chạy theo ô riêng, vạch xuất phát phải có hình vòng cung để cho tất cả các vận động viên khi xuất phát cách đích cùng một cự ly.

– Tất cả các cuộc thi phải xuất phát theo tiếng nổ của súng phát lệnh hay thiết bị phát lệnh tương ứng sau khi trọng tài phát lệnh đã xác nhận là các vận động viên đã ổn định trong tư thế xuất phát đúng.

– Sau lệnh “vào chỗ” các vậnđộng viên phải tiến tới vạch xuất phát, chiếm vị trí hoàn toàn trong ô chạy riêng của mình, phía sau vạch xuất phát. Hai bàn tay và 1đầu gối phải tiếp xúc với mặtđất và hai bàn chân phải tiếp xúc với bànđạp xuất phát.

– Khiở tư thế vào chỗ, vậnđộng viên khôngđược chạm vào vạch xuất phát hoặcđất phía trước vạch xuất phát bằng chân hoặc tay của mình.

– Khi có lệnh “sẵn sàng” các vậnđộng viên phải lập tức nâng lên tới tư thế xuất phát cuối cùng của mình trong khi vẫn giữ sự tiếp xúc của hai tay vớiđất và sự tiếp xúc của 2 bàn chân với bànđạp.

– Khi thực hiện lệnh “vào chỗ” hoặc “sẵn sàng”, tất cả các vậnđộng viên phải lập tức và khôngđược chậm trễở vào tư thếđầyđủ và cuối cùng của họ. Việc chậm trễ tuân thủ lệnh này sau một thời giai thích hợp sẽ vi phạm lỗi xuất phát. Nếu một vậnđộng viên sau lệnh “vào chỗ” gây trở ngại cho các vậnđộng viên khác trong cuộc thi qua việc la hét, nói to có thể bị coi là một lỗi xuất phát.

– Nếu một vậnđộng viên sau khiđãở tư thế xuất phátđầyđủ và cuối cùng của minh, bắtđầu có hànhđộng xuất phát trước khi súng phát lệnh hoặc thiết bị phát lệnh nổ sẽ bị lỗi xuất phát.

– Bất kỳ vậnđộng viên nào phạm lỗi xuất phát sẽ bị cảnh cáo. Vậnđộng viên chỉđược vi phạm lầnđầu, từ lần vi phạm thứ hai bất kỳ vậnđộng viên nào cũng bị loại.

– Trọng tài phát lệnh hoặc bất kỳ trọng tài giám sát, khi thấy có phạm quy trong xuất phát, phải gọi các vậnđộng viên lại bằng một phát súng.

b. Vềđích

– Các vậnđộng viên sẽđược xếp theo thứ tự mà trong đó bất kỳ phần cơ thể của họ, trừđầu, cổ, tay, chân, bàn tay, bàn chânđạt tới mặt phẳng thẳngđứng của gần của vạchđích nhưđã dược xácđịnhở trên.

– Trong bất kỳ cuộc thi mà thành tích dựa trên cơ sởđộ dàiđã vượt quađược trong một thời gian cốđịnhđúng 1 phút trước khi kết thúc cuộc thi trọng tài phát lệnh phải bắn súngđể báo trước cho các vậnđộng và trọng tài giámđịnh là cuộc thiđã gần kết thúc. Trọng tài phát lệnh phảiđược tổ trưởng trọng tài bấm giờ chỉ dẫn và tại thờiđiểm chính xác sau xuất phát sẽ phát tín hiệu kết thúc cuộc thi bằng việc nổ súng một lần nữa. Tại thờiđiểm súng nổđể phát lệnh kết thúc cuộc thi, các trọng tài giámđịnhđược phân công sẽđánh dấu chính xácđiểm mà tạiđó mỗi vậnđộng viết chạm vàođường chạy trong thời gian cuối cùng trước khi hoặcđồng thời cùng với tiếng nổ của súng. Cự lyđạtđược phảiđượcđo tới mét gần nhất phía sau vạchđánh dấu này. Ít nhất một trọng tài giámđịnh phảiđược phân công tới mỗi vậnđộng viên trước khi bắtđầu cuộc thiđểđánh dấu cự ly mà vậnđộng viênđạtđược.

Trong chạy cự li ngắn cần sử dụng kĩ thuật xuất phát thấp với bàn đạp để tận dụng lực đạp sau giúp cơ thể xuất phát nhanh.

1] Kỹ thuật đóng bàn đạp

– Cách đóng “phổ thông”:

+ Bàn đạp trước đặt cách đầu vạch xuất phát 1 – 1,5 độ dài bàn chân;

+ Bàn đạp sau cách bàn đạp trước một khoảng bằng độ dài một cẳng chân, cách này phù hợp với những người mới tập chạy cự li ngắn.

– Cách đóng cách “xa”:

Còn gọi là cách “kéo dài”, hay “kéo giãn”. Các bàn đạp được đặt xa vạch xuất phát hơn.

+ Bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát gần 02 bàn chân;

+ Bàn đạp sau cách bàn đạp trước 01 bàn chân hoặc gần hơn.

Cách này thường phù hợp với người cao, sức mạnh của chân và tay bình thường. Đóng bàn đạp theo cách này, cự li chạy dài hơn cự li thi đấu 02 bàn chân.

– Cách đóng “gần”:

Còn gọi là cách “dồn gần”.

+ Cả hai bàn đạp được đặt gần vạch xuất phát hơn – bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát có độ dài 1 bàn chân [hoặc ngắn hơn].

+ Bàn đạp sau đặt cách bàn đạp trước 1 đến 1,5 bàn chân. Bằng cách này, tận dụng được sức mạnh của 2 chân khi xuất phát nên xuất phát ra nhanh, nhưng thường phù hợp với những người thấp có chân tay khoẻ. Việc chân rời bàn đạp gần như đồng thời sẽ khó cho ta khi chuyển qua dùng sức đạp sau luân phiên từng chân [ở trình độ thấp, dễ xảy ra hiện tượng bị dừng, 02 chân cùng nhảy ra khỏi bàn đạp].

Hình 3 – Ba cách đóng bàn đạp

Dù theo cách nào, trục dọc của hai bàn đạp cũng phải song song trục dọc của đường chạy. Khoảng cách giữa hai bàn đạp theo chiều ngang thường là 10 – 15cm sao cho hoạt động của hai đùi không cản trở nhau [do hai bàn đạp gần nhau quá]. Bàn đạp đặt trước dùng cho chân thuận [chân khoẻ hơn].Góc độ của mặt bàn đạp: Góc giữa mặt bàn đạp trước với mặt đường chạy phía sau là 45o– 50o; bàn đạp sau là 60o– 80o. Cần nắm quy luật bàn đạp càng xa vạch xuất phát, thể lực của người chạy càng kém thì góc độ càng giảm [nếu ngược lại, người chạy dễ xuất phát sớm và dễ phạm quy].

2] Kỹ thuật xuất phát thấp có bàn đạp

Kỹ thuật xuất phát thấpcó bàn đạp được thực hiện sau 3 khẩu lệnh sau. Khi nghe khẩu lệnh, người tham gia chạy sẽ từ từ đi lại vạch xuất phát đã được đóng bàn đạp, hai tay chống ra sau vạch xuất phát. Khoảng cách giữa hai tay rộng bằng vai. Hai bàn tay bẹt ra, ngón cái để 1 bên còn 4 ngón kia để 1 bên. Bạn đặt chân khỏe hay còn gọi là chân trụ vào bàn đạp 1, chân kia để vào bàn đạp 2. Hai mắt hướng nhìn về phía trước trong khoảng cách từ 1.5 đến 2m.

Vận động viên sẽ nghe phát hiệu lệnh "Vào chỗ - Sẵn sàng". Sau khi nghe hô "Sẵn sàng", đầu gối 2 chân sau của bạn sẽ rời khỏi mặt đất, từ từ nâng mông lên hơi cao, trọng tâm cơ thể hơi chuyển về phía trước, cùng lúc hít thở sâu vào nhanh chóng. Lúc này, trọng tâm cơ thể bạn sẽ dồn vào 2 tay và chân trước, mông đặt cao hơn vai.

Khi nghe hiệu lệnh "Chạy" hoặc nghe tiếng súng lệnh, người chạy nhanh chóng rời 2 tay lên khỏi đất, tay ngược với chân sau và đánh mạnh về phía trước, tay còn lại đánh mạnh ra sau tạo thành biên độ rộng. Hai chân đạp mạnh vào bàn đạp và lao nhanh về trước.

3. Chạy laosau xuất phát

Khi hai tay rời khỏi mặtđường là thờiđiểm bắt đầu chạy lao. Trong chạy lao,điểmđặt chân trước luônở sauđiểm dọi của trọng tâm cơ thể [khoảng cáchđó giảm dần sau mỗi bước chạy] rồi tiến lên ngang và sau thì vượt lên trước. Cùng với việc tăng tốcđộ chạy,độ ngã về trước của thân trên giảm dần, mứcđộ dùng sức trongđánh tay cũng giảm dần. Trong những bướcđầu, hai chânđặt trênđường chạy hơi tách rộng rồi giảm dần cho tới khi kết thúc chạy lao mớiổnđịnh gần thành mộtđường thẳng.

Tốc độ chạy laođược tăng lên chủ yếu là nhờ tăngđộ dài bước chạy. Bước sau nên dài hơn bước trước ½ bàn chân và sau 9 – 11 bước thìổnđịnh.

4. Chạy giữa quãng

Tiếp sau chạy lao là chạy giữa quãng. Nhiệm vụ chủ yếu của chạy giữa quãng là duy trì tốc độ cao đã đạt được trong chạy lao. Trong giai đoạn này, kĩ thuật chạy khá ổn định. Kĩ thuật của chạy giữa quãng có một số đặt điểm sau:

Bàn chân đặt xuống mặt đường chạy có hoãn xung bằng cách đặt từ nửa trước của bàn chân. Điểm đặt chân thường ở phía trước của điểm dọi trọng tâm của cơ thể 30 – 40cm tùy theo tốc độ chạy. Tiếp đó chân chống trước chuyển sang chống thẳng đứng rồi thành đạp sau. Đồng thời với động tác đạp sau là động tác đưa chân lăng về trước. Đùi chân lăng được nâng đủ cao – gần song song với mặt đất. Tốc độ chạy chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả đạp sau, nên động tác đó cần thực hiện chủ động [nhanh, mạnh và đúng hướng]. Để hỗ trợ cho đạp sau, chân lăng cũng phải đưa nhanh và đúng hướng. Đùi chân lăng về trước, chứ không phải là lên cao, để không giảm hiệu quả của lực đạp sau.

Ngay khi chân chống trước chạm mặt đường, vai và hông phải chủ động chuyển về trước [giúp cơ thể chuyển nhanh từ chống trước sang đạp sau]. Chuyển động của vai so với hông cũng sole như của tay so với chân. Thân trên ngã về trước khoảng 50.

Khi đánh tay, hai tay gập ở khuỷu, đánh sole và phù hợp với nhịp điệu của hai chân. Hai vai thả lỏng, đánh về trước hơi khép vào trong, đánh ra sau hơi mở [nhưng không phải là đánh sang hai bên] để giữ thăng bằng cho cơ thể. Hai bàn tay nắm hờ [hoặc duỗi các ngón tay].

Khi chạy trên toàn cự li cần thở bình thường, chủ động nhưng không làm rối loạn kĩ thuật và nhịp điệu chạy.

5.Về đích

Khi cách đích khoảng 15 – 20m cần tập trung hết sức lực để duy trì tốc độ. Cố tăng độ ngả người về trước để tận dụng hiệu quả đạp sau. Người chạy hoàn thành cự li 100m khi có một bộ phận của thân trên [trừ đầu và tay] chạm vào mặt phẳng thẳng đứng, chứa vạch đích. Bởi vậy, ở bước chạy cuối cùng, người chạy phải chủ động gập thân trên về trước để cham ngực vào dây đích [mặt phẳng đích] – đây là cách đánh đích bằng ngực. Cũng có thể kết hợp vừa gập thân trên về trước vừa xoay thân để một vai chạm đích – đây là cách đánh đích bằng vai. Không nhảy về đích, vì sẽ chậm – sau khi nhảy lên, cơ thể chuyển động [bay về trước] chỉ theo quán tính, nên tốc độ chậm dần đều. Sau khi về đích cần chạy tiếp vài bước theo quán tính và giữ thăng bằng để khỏi ngã, không dừng đột ngột và không va chạm với người cùng về đích…

- Cách sử dụng bàn đạp: Tùy đặc điểm và trình độ người tập để bố trí bàn đạp cho phù hợp. Thông thường có 3 cách bố trí bàn đạp. HS THPT nên sử dụng cách phổ thông:

+ Cách phổ thông: Bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát 1 – 1,5 độ dài bàn chân và bàn đạp sau cách bàn đạp trước một khoảng bằng độ dài một cẳng chân [gần hai bàn chân] của người chạy.

+ Cách xa: Các bàn đạp được đặt xa vạch xuất phát hơn: Bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát gần hai bàn chân và bàn đạp sau cách bàn đạp trước một bàn chân hoặc gần hơn. Cách này thường phù hợp với người cao, sức mạnh của chân và tay bình thường.

+ Cách gần: Cả hai bàn đạp được đặt gần vạch xuất phát hơn: Bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát gần hai bàn chân [hoặc gần hơn] và bàn đạp sau cách bàn đạp trước chỉ còn 1 – 1,5 bàn chân. Bằng cách này, bằng cách này tận dụng được sức mạnh của cả hai chân khi xuất phát nên xuất phát ra nhanh, nhưng thường phù hợp hơn với những người thấp, có chân tay khỏe. Việc hai chân rời khỏi bàn đạp gần như đồng thời sẽ khó khi chuyển qua dùng sức đạp sau luân phiên từng chân [ở trình độ kém] sẽ có hiện tượng bị dừng sau bước rời bàn đạp.

Dù theo cách nào, trục dọc của hai bàn đạp cũng phải song song với trục dọc của đường chạy.

Khoảng cách giữa hai bàn đạp theo chiều ngang thường là 10 – 15cm, sao cho hoạt động của hai đùi không cảng trở nhau [do hai bàn đạp gần nhau quá], cũng không mất bình thường [hướng sang hai bên do hai bàn đạp xa nhau quá]. Bàn đạp đặt trước dùng cho chân thuận [chân khỏe hơn].

Góc độ của mặt bàn đạp: góc giữa mặt bàn đạp trước và mặt đường chạy phái sau là 45 – 50o; bàn đạp sau là 60 – 80o. Đối với HS có thể lực kém thì nên sử dụng bàn đạp xa vạch xuất phát, có góc độ nhỏ hơn

Video liên quan

Chủ Đề